Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên và các dạng bài tập ...

Tài liệu Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên và các dạng bài tập

.DOC
35
1077
78

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ ĐỊA LÍ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH PHẦN TỰ NHIÊN VÀ CÁC DẠNG BÀI TẬP Trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ - Hòa Bình PHẦN MỞ ĐẦU Địa lí tự nhiên Việt Nam là một học phần có vị trí quan trọng trong chương trình Địa lí ở các cấp học. Đối với học sinh cấp Trung học phổ thông, trên cơ sở kiến thức tự nhiên đại cương của Trái đất, phần địa lí tự nhiên Việt Nam tiếp tục giúp các em trong quá trình tìm hiểu các đặc điểm địa lí tự nhiên và các quy luật phân hóa của các thể tổng hợp tự nhiên các cấp trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Từ đó cho học sinh cụ thể hóa việc đánh giá thuận lợi, khó khăn của điều kiện tự nhiên đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy vậy, đây là học phần có nhiều đơn vị kiến thức, nhiều nội dung hay nhưng khó, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải nắm vững đặc điểm từng thành phần tự nhiên Việt Nam và mối quan hệ - tác động qua lại lẫn nhau giữa các thành phần đó. Xuất phát từ đặc điểm nội dung phần địa lí tự nhiên Việt Nam và mục đích giảng dạy, đặc biệt cho đối tượng học sinh thi học sinh giỏi khu vực và toàn quốc, chúng tôi viết chuyên đề: Mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên Việt Nam. Để làm rõ đặc điểm và mối quan hệ giữa các thành phần, cấu trúc chuyên đề của chúng tôi có những nội dung chính là: A-Phần lý thuyết: 1. Đặc điểm khái quát của từng thành phần (địa hình, đất đai, khí hậu, sông ngòi, sinh vật, thổ nhưỡng). 2. Phân tích mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên. B - Phần kĩ năng Các dạng câu hỏi, bài tập. PHẦN NỘI DUNG A - LÝ THUYẾT I.Địa hình Địa hình là một trong những thành phần quan trọng nhất của môi trường địa lý tự nhiên tạo nên diện mạo cảnh quan thực địa. Địa hình có mối quan hệ chặt chẽ với các thành phần tự nhiên khác như: khí hậu, sinh vật, thổ nhưỡng, thủy văn…. 1.Đặc điểm chung của địa hình nước ta. 1.1. Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích nhưng chủ yếu là đồi núi thấp Địa hình đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ. Hệ thống núi phân bậc rõ ràng, trong đó đồi núi thấp chiếm 60%. Địa hình thấp dưới 1000m chiếm tới 85% diện tích tự nhiên, núi cao trên 2000m chỉ chiếm 1% diện tích. 1.2. Cấu trúc địa hình nước ta khá đa dạng Địa hình có cấu trúc cổ đựơc tân kiến tạo làm trẻ hoá, phân bậc rõ rệt. Lãnh thổ Việt Nam được hình thành sớm vào cuối đại Trung sinh, trải qua quá trình bào mòn lâu dài làm hạ thấp địa hình, sau đó, do chịu ảnh hưởng của vận động Tân kiến tạo, địa hình lại được nâng cao và trẻ hoá. Vận động nâng lên không đều giữa các khu vực với hướng nghiêng chung thấp dần về phía Đông Nam đã tạo nên sự phân bậc địa hình. Địa hình núi cổ được trẻ hóa. Tính chất cổ của địa hình thể hiện ở các bề mặt san bằng cổ, đá cổ lộ trên mặt, đồi núi thấp là chủ yếu. Những nơi được nâng lên mạnh trong vận động Tân sinh mang hình thái núi trẻ, với các đặc điểm sống núi rõ ràng, sườn dốc, khe sâu. Địa hình thấp dần từ TB – ĐN Cấu trúc địa hình gồm 2 hướng chính: hướng TB-ĐN thể hiện rõ từ hữu ngạn S Hồng đến dãy Bạch Mã, gồm vùng núi TB và Trường sơn. Hướng vòng cung thể hiện ở vùng núi ĐB và khu vực NTB 1.3. Địa hình mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa và chịu tác động mạnh mẽ của con người Trong điều kiện nhiệt đới ẩm gió mùa , nhiệt cao ẩm lớn diễn ra quá trình xâm thực mạnh ở vùng đồi núi, trên sườn dốc mất lớp phủ thực vật , đất đá bị phong hoá mạnh mẽ, lượng mưa lớn và tập trung theo mùa đã bề mặt địa hình bị cắt xẻ, xói mòn , rửa trôi. Hệ quả của quá trình xâm thực, bào mòn bề mặt địa hình miền đồi núi là quá trình bồi tụ, mở rộng đồng bằng hạ lưu sông, hàng năm phía đông nam ĐB châu thổ S Hồng và phía tây nam ĐBSCl vẫn mở rộng ra biển vài chục - vài trăm met. 2.Mối quan hệ giữa địa hình với các thành phần tự nhiên khác. 2.1.Mối quan hệ giữa địa hình với khí hậu Địa hình đồi núi thấp chiếm ưu thế nên tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu vẫn được bảo toàn ở vành đai chân núi (độ cao ở miền Bắc dưới 600700m; miền Nam 900-1000m). Độ cao địa hình là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khí hậu, đặc biệt là chế độ nhiệt. Theo quy luật đai cao, cứ lên cao 100m nhiệt độ giảm 0,6 0C. Vì vậy những vùng núi cao của nước ta có nhiệt độ thấp hơn so với nền nhiệt trung bình cả nước. Độ cao địa hình là nhân tố ảnh hưởng đến lượng mưa và sự phân bố mưa: Cùng một sườn núi, càng lên cao lượng mưa càng tăng. Tới độ cao nào đó độ ẩm không khí đã giảm nhiều, sẽ không còn mưa, điều này xảy ra ở các vùng núi cao ở nước ta, như Sapa. Địa hình núi cao – đón gió mưa nhiều (Việt Bắc, Kon Tum); còn địa hình thấp – khuất gió mưa ít (lóng máng Cao – Lạng). Hướng địa hình ảnh hưởng đến lượng mưa và sự phân bố mưa: Cùng dãy núi, sườn đón gió mưa nhiều, sườn khuất gió mưa ít: Các trung tâm mưa nhiều nằm ở vị trí đón gió từ biển vào như Móng Cái, Huế…ngược lại khi vực khuất gió như thung lũng Sông Đà, sông Ba, Mường Xén…mưa rất ít. Hướng địa hình song song với hướng gió, lượng mưa cũng rất thấp: Ninh Thuận, Bình Thuận Do địa hình nước ta ¾ là đồi núi nên khí hâu phân hóa theo độ cao khá rõ: Đai nhiệt đới gió mùa: Độ cao: miền Bắc đai nhiệt đới gió mùa có độ cao dưới 600-700m, miền Nam lên đến độ cao 900-1000m. Ở độ cao này tính chất đới ẩm vẫn được bảo toàn với nền nhiệt cao, mùa hạ nóng nhiệt độ trung bình tháng trên 250C, độ ẩm thay đổi tùy nơi từ khô hạn đến ẩm ướt. Đai cận nhiệt đới gió mùa ở độ cao từ 600-700m dến 2600m ở miền Bắc, ở miền Nam từ 900-1000m đến 2600m ở miền Nam. Khí hậu mát mẻ, không tháng nào nhiệt độ > 25 0C, mưa nhiều, độ ẩm tăng. Đai ôn đới núi caoo có độ cao >2600m, khí hậu có nét giống vùng ôn đới, quanh năm nhiệt độ dưới 150C, mùa đông dưới 50C Do địa hình nước ta có hướng nghiêng chung là tây bắc – đông nam, thấp dần ra biển kết hợp với hướng các loại gió thịnh hành trong năm nên ảnh hưởng của biển có thể tác động vào sâu trong lục địa khiến tính lục địa của các địa phương không thể hiện rõ nét, làm cho khí hậu nước ta mang đặc tính khí hậu hải dương điều hòa khác hẳn các nước có cùng vĩ độ. Các hướng núi chính là Tây Bắc – Đông Nam, hướng vòng cung, hướng Tây Đông của địa hình là nguyên nhân dẫn đến khí hậu phân hóa Bắc – Nam, Đông – Tây. Hướng vòng cung của các cánh cung Đông Bắc tạo điều kiện cho gió mùa xâm nhập sâu vào trong lãnh thổ nước ta, khiến các địa phương phía bắc có nhiều s tháng nhiệt độ xuống thấp. Hướng vòng cung của các cánh cung Trường Sơn Nam song song với hướng gió ở duyên hải khiến cho nhiều địa phương có lượng mưa thấp: Ninh Thuận, Bình Thuận. Hướng Tây Bắc – Đông Nam của dãy Hoàng Liên Sơn có tác dụng ngăn ảnh hưởng của gió mùa đông bắc đến vùng Tây Bắc làm cho vùng này có mùa đông ấm và ngắn hơn Đông Bắc. Ở vùng Đông Bắc, có mùa đông kéo dài 3 tháng, nhiệt độ các địa điểm có cùng độ cao với Tây Bắc đều có nhiệt độ thấp hơn 2-3 0C. Vùng Tây Bắc, mùa đông ấm hơn, kéo dài 2 tháng . Hướng Tây Bắc – Đông Nam của dãy Trường Sơn vuông góc với gió mùa Tây Nam khiến cho sườn đông ảnh hưởng của gió Tây khô nóng vào mùa hạ, nhiệt độ lên cao, mưa ít. Sang mùa đông, sườn đông lại ở vị trí đón gió nên mưa nhiều. Hướng Tây – Đông của dãy Hoành Sơn, Bạch Mã có tác dụng ngăn ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc xuống phía nam góp phần làm cho nhiệt độ ở phía nam cao hơn phía bắc, phần lãnh thổ phía Bắc từ dãy Bạch Mã trở ra nhiệt độ trung bình năm >20 0C, 3 tháng lạnh nhiệt độ < 18 0C trong khi phần lãnh thổ phía Nam từ dãy Bạch Mã trở vào, nhiệt độ trung bình năm >20 0C, không tháng nào< 200C. 2.2. Mối quan hệ giữa địa hình với thổ nhưỡng Vai trò của địa hình đối với quá trình hình thành thổ nhưỡng biểu hiện ở tác động phân phối lại các nguyên tố địa hóa trong lớp vỏ phong hóa và làm thay đổi điều kiện sinh – khí hậu, từ đó tác động tới cường độ và chiều hướng của quá trình hình thành đất. Có thể nói yếu tố địa hình và qua đó điều kiện sinh – khí hậu là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phong phú của đất VN. Ảnh hưởng của đại địa hình đến sự phân bố đất theo độ cao ở VN: Theo độ cao, sự hạ thấp nhiệt độ, sự tăng cường lượng ẩm đã dẫn đến sự thay thế đai rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh bằng các đai rừng á nhiệt đới lá rộng hỗn giao – lá kim và trên nữa là đai rừng mưa mù cây thấp. Đồng thời theo đó là quá trình hình thành đất cũng thay đổi theo hướng cường độ phong hóa đá mẹ giảm, tốc độ phân giải chất hữu cơ giảm và quá trình feralit cũng yếu dần. Trên núi cao ảnh hưởng của độ dốc làm tăng quá trình lưu thông của nước, tăng quá trình xói mòn, thêm vào đó cường độ phong hóa yếu làm cho chiều dày vỏ phong hóa kém, phẫu diện đất nông, có sự tích tụ mùn và chất hữu cơ. Tại VN nơi mà ¾ diện tích đất đai là đồi núi thì quy luật đai cao chi phối rất lớn điều kiện hình thành và phân bố đất. Quá trình feralit chỉ mạnh từ 150m trở xuống, hình thành loại đất feralit vàng đỏ phát triển trên vùng trung du. Địa hình là các đồi bằng, sườn thoải, phần lớn lớp phủ thực vạt bị tàn phá, tính chất phân mùa được thể hiện rõ rệt. Trong điều kiện đó quá trình feralit được đẩy mạnh. Tùy theo đá mẹ và mức độ feralit mà chia ra các loại đất khác nhau: Đất feralit đỏ vàng; feralit điển hình và feralit có phẫu diện phân dị. Tại vùng đồi núi thấp từ 150m đến 600-700m, địa hình có sườn dốc hơn, không đọng nước, xói mòn mạnh, nhiệt độ thấp hơn và ẩm hơn thướng có lớp phủ thục vật. Những điều kiện đó làm cho đất có phẫu diện mỏng hơn, mùn nhiều hơn, đất chua hơn, nhưng hạn chế được quá trình kết vón và đá ong. Tùy theo đá mẹ hình thành hao nhóm đất chính: Đất xám feralit trên núi phát triển trên đá mẹ axit và đất feralit nâu đỏ phát triển trên đá mẹ trung tính và bazo. Ngoài ra còn có đất feralit nâu đỏ trên đá sét và đá biến chất, đất feralit nau xám trên phù sa cổ, đất đỏ nâu trên đá vôi. Lên độ cao 600-700m đến 1700-1800m là phạm vi đai rừng á nhiệt đới phát triển trên đất feralit có mùn trên núi. Tại độ cao này, tính chất nhiệt đới giảm mạnh, nhiệt độ hạ thấp, mưa nhiều, phần lớn còn rừng che phủ, các quá trình khoáng hóa và phân giải đều giảm sút. Mùn tăng là đặc điểm chủ yếu để phân biệt với đất feralit vùng đồi, hàm lượng mùn 5-8%, tầng đất mỏng, quá trình feralit yếu.Theo đá mẹ chía ra các loại đất khác nhau nhưng có đặc tính chung là nhiều mùn Trên 1700-1800m là độ cao xuất hiện đai rừng á nhiệt mưa mù phát triển trên đất mùn alit núi cao. Tại độ cao này mọi quá trình khoáng hóa, phân giải feralit đều kém, dẫn tới đất mỏng, tầng mùn dầy 8-12%, đất chua mạnh, độ PH < 4 Tại các bậc thềm pù sa cổ có hình thành loại đất xám có nguồn gốc bán thủy thành, đất còn tốt, có màu xám sáng hay đen, tầng đất dày, tơi xốp, thành phần cơ giới nhẹ, ít chua. Tại các đồng bằng, thung lũng hình thành các loại đất có nguồn gốc thủy thành như đất phù sa, đất mặn, đất chua mặn, đất lầy, đất than bùn, đất cát. Ảnh hưởng của trung và tiểu địa hình đến quá trình hình thành đất: Sự thay đổi địa hình âm dương, vị trí địa thế đỉnh, sườn, chân, độ dốc của sườn, hướng sườn của một quả đồi, ngọn núi đều ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất. Tại đỉnh diễn ra quá trình tàn tích, lớp đất mỏng có sự tích tụ oxit sắt, nhôm theo dòng nước di chuyển lên xuống. Độ dốc và hướng phơi của sườn ảnh hưởng đến quá trình sườn tích. Sườn dốc, hướng phơi nắng, quá trình sườn tích diễn ra mạnh, tầng đất mỏng, tầng kết von gần sát mặt đất, sườn thoải, tầng đất dày hơn. Tại chân sườn có quá trình bồi tụ vật liệu rửa trôi, nhưng ở đây diễn ra quá trình tích tụ tương đối ôxit sắt nhôm tạo thành tầng kết von dày, do sự di chuyển các vật chất này theo dòng nước ngầm, chảy trôi trên mặt đất. Tại địa hình trũng, úng thủy, hình thành loại đất lầy (đất glây). Còn ở đồng bằng sự chênh lệch rất nhỏ về độ cao cũng dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong tính chất đất và thành phần cơ giới thô: đất ruộng cao nghèo phì liệu, thành phần cơ giới nhẹ, nhiều cát, đất ruộng thấp tích tụ nhiều phần tử sét, hạt mịn, giàu phì liệu hơn. 2.3.Mối quan hệ giữa địa hình với sinh vật Địa hình ảnh hưởng đến phân bố sinh vật chủ yếu thông qua sự thay đổi chế độ nhiệt ẩm theo độ cao. Sự thay đổi nhiệt ẩm theo độ cao của địa hình dẫn đến hình thành các vành đai sinh vật khác nhau. Các hướng sườn khác nhau thường nhận được lượng nhiệt, ẩm chế độ chiếu sáng khác nhau do đó ảnh hưởng tới độ cao bắt đầu và kết thúc của các vành đai sinh vật. Ở Việt Nam, đai rừng chân núi là là vành đai của nhóm thục bì nhiệt đới núi thấp phân bố ở độ cao dưới 700m ở miềm Bắc và dưới 1000m ở miền Nam. Tuy vậy, đi vào từng vùng, có nới giới hạn đai rừng nhiệt đới chỉ tới 400-500m ở Lạng Sơn – Đông Bắc, có nới tới 700-800m ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Thành phần loài, cấu trúc, kiểu loại của thực bì trong đai này vô cùng đa dạng và phức tạp. Loại trừ các kiểu thục bì trên thổ nhưỡng đặc biệt, còn gặp đủ kiểu thực bì từ rừng rậm thường xanh, mưa ẩm lá rộng, kiểu rừng nhiệt đới mưa mù thường xanh, các kiểu rừng thưa nửa rụng lá, rụng lá, các kiểu truông khô hạn nhiệt đới. Từ độ cao 700m đến 1500-1600m ở miền Bắc và từ 1000m đến 1700-1800m ở miền Nam là đai rừng á nhiệt đới trên núi. Đặc trưng là khí hậu cps nhiệt độ trung bình năm 15-200C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh dưới 15 0C, lượng mưa từ 2500-3000mm. Trong đai rừng này kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh chiếm diện tích lớn nhất và mang đặc trưng của đai, các kiểu ừng á nhiệt đới hỗn giao chỉ gặp ở vùng Đông Bắc, tập trung chủ yếu ở Tây Bắc và Trường Sơn trên đường di cư của luông di cư Himalaya. Lên cao nữa lượng mưa càng tăng hình thành rừng á nhiệt đới mưa mù. Trên độ cao 2700-2800m, xuất hiện kiểu rừng lùn, cây thấp, nhỏ, cong queo thích ứng với điều kiện giá rét, gió mạnh, địa hình dốc, đất trơ sỏi đá là các quần thể khô lạnh núi cao. 2.4. Mối quan hệ giữa địa hình với thủy văn Địa hình có ảnh hưởng lớn đến thủy văn qua các yếu tố: hướng, độ dốc, đặc điểm hình thái. Địa hình có thể làm thay đổi mật độ sông ngòi, diện tích lưu vực, chiều dài, độ dốc và tốc độ của dòng chảy. Do tính chất đồi núi bị cắt xẻ hình dạng hẹp ngang mạnh của lãnh thổ nên phần lớn các sông ở nước ta là những sông ngắn có diện tích lưu vực nhỏ. Có đến 91% số sông ngòi dài 10 đến 50 km, sau đó tụt hẳn xuống thì sông dài 50km đến 100km chiếm trên 6% và sông dài trên 100km chỉ quá 2%. Hướng chính của sông ngòi cũng theo hướng của địa hình nước ta là theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và hướng vòng cung. Do địa hình già được trẻ lại nên trên cùng một dòng sông cũng có khúc già khúc trẻ xen kẽ, điển hình nhất là các sông chảy trên các cao nguyên xếp tầng như: sông Đa Nhim và Đa Đưng. Trong vùng núi mà phần lớn các sông trẻ đang đào lòng dữ dội ,thung lũng hẹp,có nơi là những hẻm vực. Ở những vùng đá vôi mật độ sông ngòi thuộc dạng thấp nhất, dưới 0,5km/km2, đồng thời lượng dòng chảy mặt giảm xuống rõ rệt. Khu vực miền núi cao có sườn đón gió là nơi có mật độ sông suối lớn . Vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng lưới sông ngòi đạt giá trị cao nhất tới 2,0-4,0km/km2. Là một mạng lưới sông miền núi, độ cao bình quân của các lưu vực sông từ 500-1000m ,thuộc địa hình núi thấp, còn độ dốc bình quân lưu vực khoảng 20% đến 25%. Do sự tương phản sâu sắc giữa địa hình đồi núi mà có sự thay đổi đột ngột giữa vùng hạ du và vùng thượng du sông. Dòng sông ở thượng lưu rất dốc, trắc diện dọc trong khoảng 10-20 km đầu nguồn gần thẳng đứng, điển hình là thượng lưu sông Chảy. Ở thượng lưu sông chảy xiết và lắm thác ghềnh, ở đồng bằng sông chảy êm đềm, uốn khúc quanh co. Sự tương phản giữa đoạn miền núi và đoạn đồng bằng càng rõ nét ở các sông sườn đông Trường Sơn ở Trung Bộ . Khu vực phía Bắc với địa hình cao về phía Tây Bắc và Bắc, thấp dần về phía Đông Nam với nhiều núi và thung lũng đón gió ẩm còn vùng khuất gió hẹp có những đặc điểm riêng về thủy văn như : Hệ thống sông dài với lưu vực lớn, diện tích trên 10.000km2 và chiều dài trên 200km: sông Thái Bình, sông Hồng, sông Mã…Các vùng núi cao và thung lũng đón gió có dòng chảy tăng lên vào loại nhiều và vùng khuất gió giảm xuống vào loại rất ít. Khu vực đông Trường Sơn: với các đồng bằng chân núi-ven biển nhỏ hẹp, chỉ có những hệ thống sông ngắn và lưu vực nhỏ, nằm hoàn toàn trong lãnh thổ nước ta. Diện tích lưu vực từ 1000-5000km2, dài từ 70-170km, ví dụ: sông Gianh, sông Quảng Trị, sông Hương …Khu vực này là vùng có dòng chảy nhiều nhất trong nước và không có vùng ít nước Khu vực phía Nam (Tây Trường Sơn) bao gồm Tây Nguyên và Nam Bộ có những lưu vực sông tương đối lớn có cả sông đổ về sông Mê Kông góp phần đưa nước về vùng cửa sông ở Tây Nam Bộ và sông đổ ra biển Đông qua vùng Đông Nam Bộ như: lưu vực sông Xrê Pôk, lưu vực sông Đồng Nai–Vàm Cỏ ...sông Ba bắt nguồn ở Tây Trường Sơn nhưng hạ lưu lại sang phía đông Trường Sơn tạo nên đồng bằng Tuy Hòa. Như vậy dải Trường Sơn là nhân tố chính gây ra sự phân hóa không gian giữa các lưu vực sông. Do ảnh hưởng của cấu trúc địa hình phần lớn sông ngòi nước ta đều mang đặc điểm của sông ngòi miền đồi núi dốc nên trong mùa lũ có nước lớn và mực nước dâng cao nhanh đồng thời tăng cường khả năng xâm thực và vận chuyển phù sa (tổng lượng phù sa của sông ngòi tới 200 triệu tấn/năm) II. Khí hậu 1.Đặc điểm chung của khí hậu nước ta 1.1.Nhiệt đới ẩm gió mùa Tính chất nhiệt đới: Tính chất nhiệt đới của khí hậu được quy định bởi vị trí địa lí của nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến của nửa cầu Bắc từ 23 023’ B đến 8034’B khiến cho mặt trời luôn luôn nằm cao trên đường chân trời và qua thiên đỉnh lúc giữa trưa tại mỗi địa phương 2 lần trong năm. Biểu hiện: Tổng bức xạ lớn, nói chung đều vượt 130kcal/cm2/năm, bình quân 1m2 lãnh thổ nhận được trên một triệu kcl. Cân bằng bức xạ vượt trên 75kcal/cm2/năm Tính chất ẩm: Do vtđl của nước ta, giáp biển Đông là 1 bộ phận của TBD.Biển Đông rộng và chứa 1 lượng nước lớn là nguồn dự trữ ẩm dồi dào làm cho nước ta có độ ẩm lớn. Biển Đông làm biến tính các khối khí đi qua biển vào đất liền nước ta. Biểu hiện: Độ ẩm tương đối của không khí cao, thường trên 80%, cân bằng ẩm luôn dương. Lượng mưa tb năm lớn, từ 1500 - 2000mm, ở những sườn đón gió và các khối núi cao, lượng mưa có thể lên đến 3500-4000mm. Tính chất gió mùa: Lãnh thổ Việt Nam nằm gần trung tâm của khu vực gió mùa châu Á, là nơi giao nhau của các khối khí hoạt động theo mùa Gió mùa mùa đông: Nguồn gốc: từ trung tâm áp cao Xibia (500B)=> khối khí cực đới lục địa (NPc). Hướng: Đông Bắc. Phạm vi tác động: từ 16 0B trở ra phía Bắc, miền Nam từ 160B trở vào, gió mùa đông bắc hầu như không còn hoạt động. Thời gian và tính chất: Nửa đầu và giữa mùa đông vào các tháng 11,12,1, khối khí di chuyển qua lục địa Trung Hoa rộng lớn (NPc đất), tuy có bớt khắc nghiệt nhưng vẫn mang lại cho mùa đông miền Bắc nước ta thời tiết lạnh, khô, trời quang mây, trong sáng. Nửa sau mùa đông vào các tháng 2,3, áp thấp Alêut phát triển mạnh, khối khí cực đới khô di chuyển về phía Đông qua biển Hoàng Hải ( biến tính thành NPc biển) rồi mới đi vào nước ta gây nên thời tiết lạnh, ẩm. Vào cuối mùa, thời tiết ấm và ẩm hơn do nhận được nhiệt ẩm từ biển, mang lại thời tiết mưa phùn mùa đông cho vùng ven biển và đồng bằng bắc bộ. Gió mùa đông bắc nước ta hoạt động không kéo dài liên tục và không ổn định. Khối khí NPc hoạt động ở Việt Nam chỉ mạnh vào mùa đông và ở miền Bắc, hình thành ở miền Bắc nước ta một mùa đông có 3 tháng lạnh với những ngày nửa đầu mùa đông có thời tiết lạnh, khô và nửa sau mùa đông là những ngày lạnh, ẩm. Khi di chuyển xuống phía Nam, khối khí này suy yếu dần và dường như kết thúc ảnh hưởng bởi bức chắn là dãy Bạch Mã. Từ Đà Nẵng-16 0B trở vào, tín phong nửa cầu Bắc cũng thổi theo hướng Đông Bắc chiếm ưu thế trở thành “gió mùa mùa đông” ở miền không có msùa đông lạnh do không bị khối khí cực đới tràn về. Gió mùa mùa hạ: Nguồn gốc: áp cao Bắc Ấn Độ Dương, áp cao cận chí tuyến Nam bán cầu. Hướng: tây nam, đông nam. Phạm vi tác động: toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Thời gian và tính chất: Đầu mùa hạ (tháng 4,5): trung tâm áp thấp Ấn Độ-Mianma hút gió từ Ấn Độ Dương qua Vịnh Bengan (khối khí nhiệt đới vịnh Bengan-TBg). Khối khí này có nguồn gốc từ biển nóng ẩm nên thường gây dông nhiệt mạnh. Khối khí TBg di chuyển theo hướng Tây Nam xâm nhập trực tiếp và gây mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên. Khi di chuyển đến khu vực sườn Tây dãy Trường Sơn, khối khí này bị chắn lại ở sườn Tây dãy Trường Sơn, mưa hết ở đây. Khi vượt qua dãy TS, khối khí bị biến tính thành nóng, khô do hiệu ứng phơn (gió phơn Tây Nam-gió Lào) tràn xuống vùng đồng bằng ven biển Trung bộ và phần Nam của khu vực Tây Bắc. Nửa sau mùa hạ: Bắt đầu từ giữa mùa hạ vào tháng 6, áp cao cận chí tuyến Nam bán cầu phát triển mạnh. Khối khí xuất phát từ áp cao này di chuyển theo hướng Đông Nam về xích đạo, khi qua xích đạo chuyển hướng thành Tây Nam do lực Coriolit vào Việt Nam. Khối khí này có tầng ẩm dày, dòng thăng lớn nên thường gây mưa lớn và kéo dài cho các vùng đón gió ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Khối khí này cùng với sự hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới là nguyên nhân gây mưa vào mùa hạ cho hai miền nam bắc và thu đông cho DHMT 1.2.Phân hóa đa dạng Sự phân hóa này được thể hiện khá rõ nét trong chế độ nhiệt và tương quan nhiệt ẩm. Chế độ nhiệt: Khí hậu nước ta có nền nhiệt độ cao: t 0 TB trên toàn quốc hàng năm đều lớn hơn 200C, trừ các khu vực núi cao. Nhiệt độ giảm dần theo vĩ độ từ Nam ra Bắc (tb 0,350C/10 vĩ tuyến, nhiều hơn so với các nước khác trong khu vực nhiệt đới như Ấn Độ chỉ 0,040C, Lào 0,20C/10 vĩ tuyến). Vào mùa đông, sự khác biệt về chế độ nhiệt độ giữa hai miền rõ rệt. Biên độ nhiệt: nơi nào chịu tác động của gió mùa Đông Bắc sẽ có biên độ nhiệt cao hơn. Vì thế, biên độ nhiệt ở ngoài Bắc lớn hơn ở trong Nam rất nhiều. Bên cạnh sự phân hóa của chế độ nhiệt theo vĩ độ còn có sự phân hóa theo độ cao: nơi nào có độ cao lớn hơn sẽ có nhiệt độ trung bình thấp hơn. Chế độ gió: Đặc điểm của chế độ gió là đặc điểm về mối quan hệ giữa các loại gió và nhịp điệu của chúng trong năm. Mối quan hệ này thay đổi tùy từng mùa và theo từng khu vực. Mùa đông: Từ tháng 10-3 có sự thống nhất về hướng gió (hướng Đông bắc) của hai luồng gió mùa mùa đông: gió mùa cực đới từ áp cao Xibia, gió mùa từ áp cao biển Đông Trung Hoa. Tháng 3, 4 là thời kì chuyển gió từ mùa đông sang mùa hạ. Lúc này áp cao Tây Thái Bình Dương đã có dạng độc lập và lấn sâu về phía biển Đông nên gió tín phong thổi theo hướng bình thường là hướng Đông Bắc trong phạm vi toàn quốc. Đồng thời, gió Tây Nam vịnh Bengan cũng có khả năng thổi đến. Do vậy, thời kì này có sự khác nhau giữa gió mùa Đông bắc và gió tín phong Đông Nam, giữa gió mùa ĐB và gió Tây Nam vịnh Bengan cũng như giữa gió tín phong Đông nam và gió Tây Nam vịnh Bengan trên các đường frong và hội tụ đem lại những cơn mưa lớn bất thường. Mùa hạ: Từ tháng 5 đến tháng 9 gió mùa Đông Bắc coi như chấm dứt, đồng thời gió mùa Tây Nam từ nửa cầu nam đã hoạt động thường xuyên. Mỗi khi gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh lên sẽ đẩy đường hội tụ nhiệt đới đi lên phía Bắc, còn bình thường thì nó vẫn ở miền Nam. Do vậy ở miền Nam gió mùa mùa hạ thường đến sớm và cũng rút muộn hơn ở miền Bắc. Còn ở miền Bắc thì gió tín phong Đông Nam lại hoạt động mạnh hơn. Chỉ đến tháng 8, dải hội tụ nhiệt đới mới dừng lâu ở đồng bằng Bắc Bộ gây ra mưa lớn, dai dẳng (mưa ngâu). Mỗi khi gió mùa Tây Nam của nửa cầu Nam yếu đi thì gió Tây Nam vịnh Bengan lại tăng cường. Chế độ mưa: Nước ta có lượng mưa khá lớn. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đồng bằng là trên 1500mm, ở các khu vực núi cao tới 2000-3000mm. Tuy nhiên, ở những nơi khuất gió lượng mưa chỉ trên dưới 700mm. Lượng mưa có sự phân hóa theo không gian: Những nơi mưa nhiều nhất là những vùng núi cao có địa hình chắn gió, vùng núi thấp ven biển. Các đồng bằng ven biển cũng có lượng mưa trên 2500mm. Những nơi có lượng mưa trung bình: là đồng bằng Bắc bộ và dải đồng bằng ven biển miền Trung từ Quảng Ngãi đến Phú Yên. Những nơi mưa ít nhất là đồng bằng cực Nam trung bộ lượng mưa hàng năm chỉ có 643mm. Lượng mưa có sự phân hóa theo thời gian (theo mùa): Mùa khô ít mưa, có tháng không mưa. Mùa mưa thì lượng mưa chiếm tới 80-85% lượng mưa cả năm và tháng mưa ít nhất cũng phải từ 100mm trở lên, tháng mưa nhiều nhất trung bình có thể tới 300-600mm. 1.3.Tính chất thất thường Do vị trí địa lí nằm trong vùng gió mùa, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển, nằm ở vùng chịu tác động mạnh của bão nhiệt đới. Biểu hiện: Thời tiết, khí hậu thường xuyên biến động mạnh, có năm rét sớm, năm rét muộn, năm mưa lớn, năm khô hạn, năm ít bão, năm nhiều bão…Công tác dự báo thời tiết và xác định thời vụ vì thế gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt ảnh hưởng của các đợt gió mùa là nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi thất thường của chế độ nhiệt tại các vùng miền trên cả nước. Gió mùa Đông Bắc khiến nhiệt độ hạ thấp kéo dài đến 3 tháng, gây nên cả hiện tượng tuyết rơi, sương giá. Gió Tây khô nóng phổ biến ở vùng Tây Bắc và vùng Duyên hải miền Trung nước ta vào các tháng 6,7,8 khiến thời tiết khô nóng kéo dài từng đợt khoảng vài ba ngày, đôi khi tới 5-7 ngày. Nhiệt độ cao nhất trên 41-430C, ban đêm cũng xấp xỉ 300C, độ ẩm thấp nhất tới dưới 30-40%, đất kiệt nước và nứt nẻ… Sự thất thường cũng thể hiện trong chế độ mưa: Mưa lớn thường do bão và áp thấp nhiệt đới gây nên, tập trung ở các tỉnh duyên hải Bắc Bộ và Trung Bộ. Khi đổ bộ vào ven biển nước ta, bão thường gây ra mưa lớn kéo dài nhiều ngày. Lượng mưa một ngày đêm ở vùng có bão đạt khoảng 150-300mm, thậm chí trên 400mm, gây úng ngập rất sâu. Những năm gần đây các nhiễu loạn khí tượng toàn cầu như En NiNo và La NiNa đã tác động mạnh đến khí hậu nước ta làm tăng cường tính thất thường của thời tiết và khí hậu Việt Nam. 2. Mối quan hệ giữa khí hậu với các thành phần tự nhiên khác 2.1. Mối quan hệ giữa khí hậu với địa hình: Dưới tác động của nhiệt độ cao, lượng mưa lớn, các quá trình ngoại lực diễn ra mạnh mẽ làm biến đổi địa hình hiện tại. Các quá trình đóng vai trò quan trọng nhất đó là xâm thực mạnh ở kv đồi núi và bồi tụ nhanh ở đồng bằng ven biển. QT xâm thực: Dưới tác động của nhiệt độ cao(tb > 20oC), độ ẩm lớn (lượng mưa trung bình 1500-2000mm, 80%), bề mặt địa hình bị phá hủy tạo nên lớp vỏ phong hóa dày, có nơi tới 10-15m. Trên cùng của lớp vỏ phong hóa là tầng đất mềm (thổ nhưỡng) và rùng cây che phủ bảo vệ. Lớp vỏ phong hóa ở nước ta có đặc tính thấm nước, vụn bở, dễ dàng bị phá hủy, xói mòn và rửa trôi, nhất là ở những nơi địa hình dốc, lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng bị tàn phá. => 3/4 S nước ta là đồi núi , nhiều nơi sườn dốc chênh vênh càng tạo điều kiện cho quá trình xâm thực bóc mòn các lớp đất đá diễn ra mạnh mẽ. Đây cũng là vật liệu được vận chuyển xuống để bồi tụ cho khu vực đồng bằng. QT phong hóa hóa học cũng diển ra mạnh mẽ, hòa tan đá vôi tạo nên những hang động lớn và sông suối ngầm (địa hình kaxto). Các hiện tượng đất trượt và sụt lở, lũ bùn, lũ quét diễn ra phổ biến trên bề mặt địa hình. Hiện tượng kết von và đá ong hóa xảy ra trong lớp vỏ phong hóa và thổ nhưỡng diễn ra khá mạnh. QT bồi tụ: Thềm lục địa nông, rộng được bồi tụ bằng 1 lượng vật liệu lớn từ khu vực đồi núi. Các đồng bằng phía Đông và Đông nam được bồi tụ và mở rộng từ vài chục đến trăm m (đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long). 2.2. Mối quan hệ giữa khí hậu với thổ nhưỡng: Tính đa dạng của khí hậu là một trong những nhân tố chính tạo nên sự đa dạng của thổ nhưỡng Việt Nam. Khí hậu được coi là nhân tố quan trọng nhất đối với quá trình hình thành đất, vì chính khí hậu quyết định chiều hướng và cường độ diễn biến của quá trình hình thành lớp vỏ phong hóa và thổ nhưỡng. hai yếu tố khí hậu và nước chi phối mọi quá trình sinh lí hóa diễn ra trong quá trình hình thành đất. Khí hậu không chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua giới sinh vật. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta, quá trình hình thành đất có những nét đặc trưng riêng. Quá trình hình thành đất feralit là quá trình hình thành đất đặc trưng ở nước ta. Nhóm đất này chiếm tới 65% diện tích đất tự nhiên. Trong điều kiện nhiệt ẩm cao, quá trình phong hóa diễn ra với cường độ mạnh, tạo nên một lớp đất dày. Mưa nhiều rửa trôi các chất bazo dễ tan (Ca 2+, Mg2+, K+) làm cho đất chua, đồng thời có sự tích tụ oxit sắt, oxit nhôm tạo ra màu đỏ vàng. Loại đất này được gọi là feralit đỏ vàng. Tính phân mùa của khí hậu với sự xen kẽ giữa hai múa khô, ẩm, đặc biệt tại vùng núi thấp, nơi lớp phủ thực vật bị tàn phá đã xúc tiến qua trình tích tụ oxit Fe, Al tạo thành tầng kết von dầy, sát mặt đất. 2.3. Mối quan hệ giữa khí hậu với sinh vật Khí hậu ảnh hưởng đến sự hình thành và phân bố các kiểu thực bì thông ứu nền tảng nhiệt ẩm. Nhân tố này có ý nghĩa quyết định đến hình thái và cấu trúc các kiểu thục bì. Tình chất địa đới và phi địa đới của khí hậu cũng tạo nên tính chất địa đới và phi địa đới của sinh vật. Sự phân chia khu vực thực vật trên những nét lớn, theo sát sự phân chía của khu vực khí hậu. Trong khí hậu, yếu tố chính chi phối sự phân hóa các kiểu rừng là yếu tố nước. Do nhiều hay ít nước, mà ta có một loạt các kiểu rừng từ rừng rậm, rừng mưa mù, rừng thưa, xavan, truông cỏ.Nếu mùa khô kéo dài và sâu sắc thì dù lượng mưa năm có nhiều , dạng thực bì vẫn thiên về khô. Còn nơi mưa ít kết hợp mùa khô kéo dài thì cũng có những thảm thực bì khô hạn nguyên sinh, tập trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận và rải rác ở thung lũng sông Ba, sông Cả. Hệ sinh thái rừng đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới ẩm là rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh. Tuy nhiên, rừng nguyên sinh hiện nay còn rất ít, phổ biến là các rừng thứ sinh biến dạng nhiều kiểu do sự phân hóa đa dạng của khí hậu: Rừng thường xanh ở Cúc Phương, Ba Bể; rừng thưa rụng lá (rừng khộp) ở Tây Nguyên; rừng tre nứa ở Việt Bắc; rừng ôn đới núi cao vùng Hoàng Liên Sơn; rừng ngập mặn ven biển,… Trong giới sinh vật, thành phần các loài nhiệt đới chiếm ưu thế. Thực vật phổ biến là các loài thuộc các họ cây nhiệt đới như họ Đậu, Vang, Dâu Tằm, Dầu. Động vật trong rừng là các loài chim thú nhiệt đới, nhiều nhất là công, trĩ, gà lôi, vẹt, …ngoài ra các loài bò sát, côn trùng cũng rất phong phú. Tất cả các loài đều sinh trưởng phát triển nhanh, tạo nên một cảnh quan thiên nhiên tươi xanh, giàu sức sống. Tác động của yếu tố nhiệt đến thực vật chủ yếu thông qua quy luật đai cao của địa hình, hình thành các đai rừng theo độ cao: Ở Việt Nam, đai rừng chân núi là là vành đai của nhóm thục bì nhiệt đới núi thấp phân bố ở độ cao dưới 700m ở miềm Bắc và dưới 1000m ở miền Nam. Tuy vậy, đi vào từng vùng, có nới giới hạn đai rừng nhiệt đới chỉ tới 400-500m ở Lạng Sơn – Đông Bắc, có nới tới 700-800m ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Thành phần loài, cấu trúc, kiểu loại của thực bì trong đai này vô cùng đa dạng và phức tạp. Loại trừ các kiểu thục bì trên thổ nhưỡng đặc biệt, còn gặp đủ kiểu thực bì từ rừng rậm thường xanh, mưa ẩm lá rộng, kiểu rừng nhiệt đới mưa mù thường xanh, các kiểu rừng thưa nửa rụng lá, rụng lá, các kiểu truông khô hạn nhiệt đới. Từ độ cao 700m đến 1500-1600m ở miền Bắc và từ 1000m đến 1700-1800m ở miền Nam là đai rừng á nhiệt đới trên núi. Đặc trưng là khí hậu cps nhiệt độ trung bình năm 15-200C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh dưới 15 0C, lượng mưa từ 2500-3000mm. Trong đai rừng này kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng thường xanh chiếm diện tích lớn nhất và mang đặc trưng của đai, các kiểu ừng á nhiệt đới hỗn giao chỉ gặp ở vùng Đông Bắc, tập trung chủ yếu ở Tây Bắc và Trường Sơn trên đường di cư của luông di cư Himalaya. Lên cao nữa lượng mưa càng tăng hình thành rừng á nhiệt đới mưa mù. Trên độ cao 2700-2800m, xuất hiện kiểu rừng lùn, cây thấp, nhỏ, cong queo thích ứng với điều kiện giá rét, gió mạnh, địa hình dốc, đất trơ sỏi đá là các quần thể khô lạnh núi cao. 2.4. Mối quan hệ giữa khí hậu với Thủy văn Do lượng mưa lớn trên nền địa hình dễ bị xâm thực nên nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nhiều nước, giàu phù sa. Do nguồn cung cấp nước của sông ngòi nước ta chủ yếu là nước mưa nên chế độ nước sông phụ thuộc hoàn toàn vào sự phân bố lượng mưa trong năm. Nhìn chung sông có lũ lớn vào mùa mưa và cạn vào mùa khô, mùa lũ chiếm tới 7080% lượng nước cả năm nên dễ gây ra lũ lụt nhưng do mùa mưa ở các vùng khác nhau nên thời gian mùa lũ các sông không giống nhau: Sông ngòi Bắc Bộ có mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 10. Sông ngòi Trung Bộ có lũ vào thu đông. Sông ngòi Nam Bộ khá điều hòa, mùa lũ từ tháng 7 đến tháng 11. Sự thất thường của khí hậu cũng khiến cho chế độ mùa nói trên của sông ngòi diễn ra rất thất thường khó dự đoán. Đồng thời sự phân hóa sâu sắc giữa hai mùa mưa – khô nên có sự chênh lệch nước giữa mùa lũ và mùa cạn, tháng lũ và tháng kiệt. III. Thủy văn 1.Đặc điểm chung của sông ngòi nước ta 1.1. Mạng lưới sông dày đặc Là hệ quả tác động của khí hậu với tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa trên nền địa hình nhiều đồi núi mà quá trình xâm thực là chủ yếu Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc: 2360 con sông dài trên 10km (bao gồm 106 dòng chính với 2254 phụ lưu). Mật độ mạng lưới sông: trung bình 0,6 km/km2, nơi có mật độ sông lớn 1,5 km/km 2, ở đồng bằng châu thổ 3-4km/km 2. Dọc bờ biển cứ 20km gặp một cửa sông. Sông ngòi nước ta nhiều, nhưng phần lớn là sông nhỏ 1.2. Nhiều nước, giàu phù sa Mưa nhiều mang lại lượng dòng chảy lớn, hơn nữa sông ngòi nước ta còn được nhận một lượng nước lớn từ lưu vực nằm ngoài lãnh thổ. Tổng lượng nước trung bình hàng năm là 839 tỉ m 3(nước mặt: 639 tỉ m3, ngầm: 202 tỉ m3), trong đó lượng nước phát sinh từ lãnh thổ VN là 337 tỉ m 3 (37,5%), lượng nước từ bên ngoài gấp đôi (62,5%). Lượng nước dòng chảy mặt chiếm tới 2/3 tổng lượng dòng chảy, trong đó lượng nước phát sinh từ lãnh thổ chỉ chiếm 1/3. Lượng nước phân bố không đều giữa các hệ thống sông. Sông Mêkông có lượng nước là 508 tỉ m3/năm, chiếm 60,8% lương nước của toàn lãnh thổ nhưng chỉ có 11% (50 tỉ m3) phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Lượng nước sông Hồng là 120 tỉ m3/năm, chiếm 14,4% tổng lượng nước toàn quốc, trong đó lượng nước phát sinh trên lãnh thỏ VN chiếm 65%. Lượng nước của tất cả các sông còn lại chỉ chiếm 24,8% tổng lượng nước. Sông ngòi giàu phù sa: tổng lượng phù sa khoảng 200 triệu tấn/năm. Bình quân một m3 nước có 223 gam cát bùn và các chất hòa tan khác. 1.3. Thủy chế theo mùa Nhịp điệu dòng chảy theo sát nhịp điệu mưa của khí hậu. Do mưa theo mùa nền lượng dòng chảy cũng theo mùa: mùa lũ tương ứng với mùa mưa, mùa cạn tương ứng với mùa khô Tính chất thất thường của chế độ mưa cũng quy định tính thất thường trong chế độ dòng chảy 1.4. Hướng chảy Sông ngòi nước ta phần lớn chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và đổ nước ra biển Đông. Ngoài ra còn có hướng vòng cung của 1 số sông ngòi vùng Đông Bắc. 2. Mối quan hệ giữa sông ngòi với các thành phần tự nhiên khác 1.1.Mối quan hệ giữa sông ngòi với địa hình Sông ngòi là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xâm thực và bồi tụ trong việc hình thành địa hình Việt Nam hiện tại. Xâm thực mạnh ở khu vực đồi núi: Trên các sườn dốc mất lớp phủ thực vật, bề mặt địa hình bị cắt xẻ, đất bị xói mòn rửa trôi khiến nhiều nơi trơ sỏi đá. Khi mưa lớn còn xảy ra hiện tượng đất trượt, đá lở. Ở vùng núi đá vôi hình thành địa hình kaxtơ=> hình thành hang động, suối cạn, thung khô. Tại vùng thềm phù sa cổ, địa hình bị chia cắt thành đồi thấp xen thung lũng sông Bồi tụ nhanh ở các đồng bằng hạ lưu sông: Đây là hệ quả của quá trình xâm thực, bào mòn mạnh mẽ bề mặt địa hình của miền đồi núi. Rìa phía đông nam của Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long hàng năm lấn ra biển từ vài chục đến gần trăm m. Nguyên nhân: Mạng lưới sông ngòi dày đặc, lượng nước lớn trên nền địa hình nhiều đổi núiđã tạo điều kiện cho các quá trình bóc mòn, vận chuyển diễn ra mạnh, mang vật liệu xuống bồi tụ ở khu vực địa hình thấp. Có thể nói sông ngòi chính là nhân tố quan trọng góp phần làm sâu sắc hơn, rõ nét hơn tính chất trẻ của địa hình VN do vận động tân kiến tạo để lại và làm mềm mại hơn địa hình đồi và bán bình nguyên của nước ta) 1.3. Mối quan hệ giữa sông ngòi với thổ nhưỡng Mạng lưới sông ngòi nước ta dày đặc, khi chảy qua miền đồi núi độ dốc lòng sông lớn, xâm thực mạnh và trước khi đổ vào đồng bằng các sông thường hợp lưu tạo thành dòng chảy lớn có lưu tốc mạnh mang theo nhiều vật liệu bồi đắp các đồng bằng đất phù sa ở hạ lưu sông. Tính chất nham thạch và thành phần lớp vỏ phong hóa mà các dòng sông chảy qua ảnh hưởng rõ rệt đến đặc tính phù sa bồi tụ, nhất là vật liệu phù sa từ các dòng sông nhỏ, ngắn. Như đặc tính chua, nghèo phì liệu của phần lớn đồng bằng duyên hải miền Trung là sản phẩm bồi tụ từ các loại đá mẹ giảu axit của dải Trường Sơn. Đất hình thành từ phù sa của các sông lớn thường hạt mịn chứa nhiều phì liệu hơn, bởi bề mặt lưu vực lớn và có quá trình lắng đọng dần vật liệu trong sông, như phù sa của hệ thống Sông Hồng, Cửu Long. Ảnh hưởng của thủy văn đến quá trình hình thành đất biểu hiện rõ rệt ở những nơi địa hình trũng, đóng kín. Tại đó hình thành đất lầy thụt, glay. Nơi nước ngầm chứa nhiều ôxit Fe, khi chảy trồi lên mặt tạo thành lớp đá ong dày. Vùng ven biển, ảnh hưởng của nước biển mặn, nước ngầm mặn hình thành các loại đất mặn, đất phèn. 1.4. Mối quan hệ giữa sông ngòi với sinh vật Sông ngòi là nguồn cung cấp nước cho thực vật, đồng thời hình thành một hệ sinh thái nước ngọt với các loại thực động vật đặc trưng. IV. Sinh vật 1. Đặc điểm chung của sinh vật nước ta 1.1. Giới sinh vật phong phú và đa dạng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan