Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhno&ptnt việt nam chi nhánh thăng ...

Tài liệu Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhno&ptnt việt nam chi nhánh thăng long

.DOC
77
74
64

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Lời mở đầu Năm 2006 là năm thứ 20 của công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế ở nước ta. Trải qua biết bao khó khăn và thử thách ở chính nội tại đất nước và từ môi trường thế giới đem lại. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bước đầu đã tạo dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống công – nông nghiệp - dịch vụ ngày càng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có được những thành tựu kinh tế như hiện nay trước tiên phải kể đến sự đóng góp vô cùng quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng của nước ta. Cũng như các ngân hàng thương mại và tổ chưc tài chính trên thế giới, hoạt động kinh doanh của những tổ chức này vốn dĩ là loại hình hoạt động rất nhạy cảm, mang tính năng động và rủi ro hơn nhiều so với hoạt động của các lĩnh vực khác, đồng thời cũng giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng cho hoạt động của các lĩnh vực khác, bởi đây là ngành tạo và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy trong xu thế quốc tế hoá ngày nay vấn đề đặt ra là các ngân hàng thương mại nước ta phải luôn luôn giữ thế phát triển dẫn đầu cho nền kinh tế, không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, sớm bắt kịp vói nhịp điệu trong khu vực và trên thế giới. Thực tế các ngân hàng đã cố gắng nỗ lực phấn đấu rất nhiều, nhưng do sự phát triển còn thiếu đồng bộ về con người, môi trường và kỹ thuật trong nước nên vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng, cụ thể hơn nữa là hoạt động cho vay các dự án đầu tư trung và dài hạn đạt hiệu quả không cao. Mà nguyên nhân chính xuất phát từ những yếu kém, chủ quan trong công tác thẩm định. Dẫn đến hậu quả là rất nhiều dự án được lựa chọn đầu tư nằm ở cả ba miền có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, không trả được nợ cho ngân hàng, gây lãng phí thất thoát hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng của nhà 1 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nước và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng và tới toàn nền kinh tế. Từ sự nhận thức được những vấn đề trên và sau một thời gian dài tìm hiểu thực tế tại cơ sở, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Hàng Hải- chi nhánh Hà Nội” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt dộng cho vay trnng và dài hạn tại Ngân hàng Hàng Hải – chi nhánh Hà Nội. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các anh chị trong ngân hàng MSB Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa ngân hàng tài chính trường ĐHKTQD, đặc biệt là thầy Phạm Long đã tạo điều kiện, hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú – anh chị trong ngân hàng MSB Hà Nội đã hướng dẫn chỉ bảo em trong suốt thời gian thực tập vừa qua. 2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM 1.Hoạt động cho vay của NHTM 1.1Hoạt động cho vay của NHTM. Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại (Ngân hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian và thời gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn. Ngày nay hoạt động ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với những nghiệp vụ đơn giản như nhận tiền gửi, đổi tiền…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa dạng với homebanking, thẻ ngân hàng, chuyển tiền điện tử,….Tuy nhiên những khoản dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu tài sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng vẫn là các dịch vụ cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý có thẩm quyền cấp phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Do đó, cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt động cho vay cũng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Không những vậy thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm những thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những 3 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng. Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của khách hàng. Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại: - Cho vay bất động sản; - Cho vay công nghiệp và thương mại; - Cho vay nông nghiệp; - Cho vay các định chế tài chính; - Cho vay cá nhân; - Cho thuê; Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được chia làm hai loại: - Cho vay không có bảo đảm; - Cho vay có bảo đảm; Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm: - Cho vay ngắn hạn; - Cho vay trung hạn; - Cho vay dài hạn 4 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Ngoài những căn cứ trên thì còn nhiều cách phân chia nữa của hoạt động cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu cho vay 1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM * Khái niệm: Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay trung và dài hạn không hoàn toàn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm. Trong đó: Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 3 năm. * Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng: Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế tài chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài trợ dài hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có nhiều lý do để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ các ngân hàng. Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thì trường, họ không thể có đủ các điều kiện để có thể huy động vốn trung và dài hạn cho mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì vậy khi nhu cầu vốn phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác. Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài hạn tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay mượn các doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu cầu của mình. Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người cho vay một số điều kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ không phải tốn thêm những chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành….. 5 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn vì ngại phải công bố thông tin về mình hoặc đang ở trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành. Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với ngân hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này. Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các định chế tài chính thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp. Nhu cầu lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho khách hàng lựa chọn để phù hợp với mình.Như: Cho vay mua sắm thiết bị trả góp Cho vay kỳ hạn Tài trợ theo dự án Cho vay hợp vốn Cho thuê tài chính Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch mua bán hàng trả chậm và không truy đòi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ người mua). 1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. 1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án. *Khái niệm: Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước,với nhà đầu tư và với chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục đích khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài 6 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 chính sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì sự xem xét thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi là không thể coi nhẹ. Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác thẩm định, “ thẩm định tài chính dự án chính là sự rà soát đánh giá một cách khoa học, toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân”. Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng đầu, còn lại hầu hết cho vay các dự án khác đều nhằm mục đích tạo thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. 1.2.2Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay trung dài hạn của NHTM. Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra hiện tại có thể được thu hồi dần trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án. Những công việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi phải có sự phối hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ phía doanh nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số liệu không đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực Do đó phải rà soát, điều chỉnh lại.  Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn tài trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của dự án, đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản thân sự tồn tại của một ngân hàng. Bởi nều để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến sự không thu hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân hàng, nhất là khi đó là các dự án lớn. 7 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368  Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả những ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài nguyên đất nước sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách toàn diện khi có chi phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính của dự án còn được đảm bảo không, có phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của vùng, của địa phương hay không.  Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án chính là dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự án. Đồng thời giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể không nhận thấy khi tiến hành lập dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn của chính chủ dự án. Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ bao gồm những nội dung cơ bản gì? 1.3 Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. 1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ. Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần thiết và vốn dự phòng. Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản 8 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng cần thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân công, chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự phòng để kịp thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay khi xảy ra rủi ro dự kiến. Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự toán vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào năm tiêu chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh, chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn như dự báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét toàn bộ quá trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết cho dự án. Và: Tổng vốn đầu tư của dự án = Vốn cố định + Vốn động lưu + Vốn dự phòng Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức tài trợ vốn khác nhau: Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có được từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Như sau khi phát hành doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành thêm khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc biệt là các dự án qui mô lớn. 9 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành. Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh nghiệp mà phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn dự tính có được từ phát hành cổ phiếu thường. Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ lại là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hàng trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn.Trên thị trường thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đi).Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài trợ cho dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài trợ dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn hạn tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do nó có nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho thuê, người đi thuê và với nền kinh tế. Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án hình thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở hữu. Trong hình thức tài trợ này chi phí vốn của dự án được đặc biệt quan tâm. Bởi từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên dùng vốn chủ bao nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu. 10 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp. Ke : Chi phí thực của vốn chủ sở hữu Kd: Chi phí của vốn vay We: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn Wd: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn Ta có công thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án: WACC = We.ke + Wd.(1 – T).kd 1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của dự án. Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất phát đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán bộ thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản phẩm tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự án sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án. Doanh thu mỗi năm của dự án Lượng hàng = dự tính tiêu thụ mỗi năm Giá bán dự tính X của một đơn vị sản phẩm Về chi phí của dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy mọc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán bộ thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng cũng như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường của khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những chi phí về nguyên nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu hao... hình thành nên 11 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 giá thành sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với thị trường hiện tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt được quan tâm bởi nó ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án. Những chi tiết này sẽ được cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác định chi phí hợp lý cho từng năm của dự án. Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án. 1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một dự án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án). Tuy nhiên dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác định giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà phân tích và thẩm định có những nguyên tắc nhất định. Đó là : Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi mà doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và thực hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần chi đầu tư của dự án. Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có những dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh nghiệp đã bỏ mất phần nguồn thu đó. Bởi vậy khoản chi phí này cần được đưa vào nhằm đánh giá chính xác chi phí thực của dự án. 12 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Ngoài hai khoản mục trên phần tài sản lưu động ròng đối với hầu hết các dự án cũng được đầu tư và được chi thực tại năm đầu đi vào hoạt động của dự án. Tài sản lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và thường được thu hồi vào giai đoạn kết thúc của dự án. Do vậy khi tiến hành dự án mới tài sản lưu động ròng cần được tài trợ ỏ năm đầu của dự án. Những tác động đối với dự án khác: có những dự án mới khi ra đời sẽ có tác động tăng (hoặc giảm) thu nhập của các dự án khác của doanh nghiệp. Thực chất khoản tăng giảm này chỉ là sự chuyển dịch thu nhập của doanh nghiệp nên dòng tiền thu được của doanh nghiệp từ những sự tăng thêm (hoặc giảm đi) đó cũng phải đưa vào dự án mới. Tác động của thuế: Thuế có những ảnh hưởng rất đáng ghi nhận đối với dòng tiền của dự án. Thông qua chi phí khấu hao của tài sản cố định thuế doanh nghiệp phải nộp từ dự án sẽ giảm làm cho dòng tiền tăng. Hay đối với chi phí lãi vay - một khoản chi phí trước phân bổ trước khi xác định thu nhập ròng, chi phí này cao cũng đồng nghĩa với thu nhập ròng giảm từ đây sẽ tiết kiệm một phần thuế thu nhập cho doanh nghiệp. Về cách xác định dòng tiền: Thông thường mỗi dự án các nhà thẩm định cũng như nhà phân tích hay thiêt kế dự án đều phân định ra các dòng tiền cần xác định bao gồm: dòng tiền đầu tư ( trong đó gồm tiền đầu tư vào tài sản cố định- chi phí lắp đặt, chi phí cơ hội, đầu tư vào tài sản lưu động ròng), dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (dòng tiền này được xác đinh thông qua báo cáo kết quả kinh doanh dự tính hàng năm của dự án). Tổng hợp những dòng tiền này cho ta kết quả dòng tiền dòng của dự án. Nhưng do tiền có giá trị về thời gian nên nhà thẩm định, nhà phân tích không thể so sánh những dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để so sánh. Bởi vậy vấn đề về lãi xuất chiết khấu đặc biệt được quan tâm khi xác định hiệu quả của dự án. Lãi suất chiết khấu 13 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 là tỷ lệ sinh lời cần thiết của một dự án mà nhà đầu tư mong đợi. Nó chính là tỷ lệ mà nhờ đó các dòng tiền của dự án được quy về hiện tại để xác định giá trị hiện tại ròng của dự án – NPV. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào kết quả phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và cơ cấu vốn. Rủi ro của dự án càng cao thì tỷ lệ lãi suất chiết khấu đòi hỏi càng cao. Cơ cấu vốn tài trợ cho dự án có chi phí vốn càng cao thì đòi hỏi lãi suất chiết khấu tối thiểu phải bằng với tỷ lệ chi phí đó. Từ trên cho thấy xác định dòng tiền là vô cùng quan trọng và việc thẩm định dòng tiền của dự án là yếu tố cốt yếu để đưa đến những kết luận cho công tác thẩm định tài chính dự án. 1.3.4 Thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Việc nhà đầu tư ra quyết định có hay không thực hiện dự án chủ yếu dựa trên những kết quả từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án này. Mỗi chỉ tiêu này cho ta một phương pháp để đánh giá được hiệu quả tài chính dự án.  Chỉ tiêu giá trị hiện tài ròng – NPV của dự án: Giá trị hiện tại ròng của dự án được hiều là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc thời gian 0. n NPV  t 0 CFt 1  k  t  CF0 Hay n NPV  t 0 n Bt  Ct Bt    t t 1  k  t 0 1  k  n Ct  1  k  t 0 t NPV: giá trị hiện tại dòng của dự án CFt : Dòng tiền xuất hiện ở năm thứ t của dự án ( t = 1n) CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ở thời điểm ban đầu (giả định vốn bỏ ra một lần ở năm đầu tiên của dự án) n : số năm thực hiện dự án. Bt: dòng thu của dự án vào năm thứ t 14 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Ct: Dòng chi của dự án vào năm thứ t NPV phản ánh giá trị tăng thêm của chủ đầu tư. Nếu NPV dương tức là dự án được thực hiện không những bù đắp được vốn đầu tư bỏ ra mà còn tạo ra phần tăng thêm cho chủ dự án (lợi nhuận). Do đó với những dự án độc lập thì NPV >0 sẽ là dự án có hiệu quả về mặt tài chính. Và ngược lại NPV<0 thì dự án là không có hiệu quả. Trường hợp có hơn một dự án thì dự án nào có NPV >0 và lớn nhất là dự án có hiệu quả nhất nên sẽ được lựa chọn đầu tư. Việc sử dụng NPV các nhà phân tích có thể đo lường trực tiếp lợi nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư từ đây có thể so sánh, lựa chọn các dự án khác nhau. Đặc biệt chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là có xét đến giá trị thời gian của tiền và tính toán hiệu quả toàn bộ đời sống của dự án. Tuy nhiên bên cạnh đó thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm đó là: - Phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án khi muốn sử dụng chỉ tiêu này. Đây là công việc không phải lúc nào cán bộ phân tíchthẩm định cũng có thể dự tính được. - Kết quả của phép tính NPV phụ thuộc vào cách mà cán bộ phân tích thẩm định lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Trong khi tình hình thị trường vốn luôn luôn biến động nhưng tỷ lệ chiết khấu này lại được coi cố định cho toàn bộ thời hạn chiết khấu của dự án. Đây là điều không hợp lý. - Chỉ tiêu này chưa nói lên được hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra bởi nó mới chỉ cho biết được hiệu quả dưới dạng con số tuyệt đối, không biểu diễn dưói dạng số tương đối. - Trong trường hợp vốn có hạn nhưng có nhiều dự án có thời hạn khác nhau để lựa chọn đầu tư thì không thể dùng chỉ tiêu này.  Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ - IRR: Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ mà tại đó tổng dòng thu bằng tổng dòng chi của dự án khi quy đổi về hiện tại hay đó chính là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0 (NPV = 0). 15 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 n NPV   t 0 Bt  1  IRR  t n Ct  1  IRR  t 0 t 0 IRR thường được tính bằng phương pháp nội suy. Hai giá trị của lãi suất chiết khấu k1,k2 (k2 >k1) ứng với NPV1>0 và NPV2< 0 sẽ được lựa chọn, dựa trên nguyên tắc tam giác đồng dạng ta có được IRR là giá trị nằm giữa 2 giá trị được chọn mà tại đó NPV =0. IRR  k1  NPV1  k 2  k1  NPV1  NPV 2 Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ việc tính IRR có thể thực hiện bằng những phần mềm chuyên biệt cho kết quả rất chính xác. Chỉ tiêu IRR nói nên mức sinh lợi của dự án sau khi đã hoàn vốn đồng thời cũng phản ánh mức doanh lợi tối thiểu mà dự án đem lại. Thông thường dự án được đánh giá có hiệu quả khi nó có IRR Chi phí vốn Đối với các dự án hay phương án loại trừ nhau thì lựa chọn phương án có IRR Chi phí vốn và IRR max. Cũng giống như NPV chỉ tiêu IRR có khá nhiều ưu điểm, như: - Chỉ tiêu này có xét đến sự biến động của yếu tố thời gian, tính đến hiệu quả cả đời dự án và có tính đến giá trị thời gian của tiền. - Cho biết được khả năng sinh lời của dự án, dễ dàng so sánh với một mức hiệu quả cho phép (bằng cách so sánh với chỉ tiêu k). - IRR không phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu do nó được xác định từ nội bộ phương án. Đồng thời có thể sử dụng để so sánh các dự án - phương án khác nhau . Song song với những ưu điểm trên chỉ tiêu IRR còn có một số nhược điểm: - Chỉ tiêu này chỉ cho biết lợi nhuận tương đối, không cho biết được giá trị tuyệt đối dẫn đến có thể lựa chọn dự án có khả năng sinh lời cao nhưng lợi nhuận tạo ra thấp. - Không đề cập đến quy mô và độ lớn của dự án. Đặc biệt không xác định được một tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong trường họp dòng tiền có sự thay 16 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 đổi nhiều lần từ (-) sang (+) và ngược lại, khi đó cán bộ thẩm định – phân tích cần dùng NPV để đánh giá. Trong những trường hợp kết quả đánh giá bằng NPV và IRR ngược nhau thì chỉ tiêu NPV là chỉ tiêu tốt hơn cho việc đánh giá dự án vì do chỉ tiêu IR không đề cập đến quy mô vốn và chúng được giả định rằng dòng tiền được tái đầu tư bằng tỷ lệ sinh lời của dự án.  Chỉ tiêu tỷ số thu chi - B/C( hay BCR): Tỷ số thu- chi (B/C) là tỷ số giữa giá trị hiện tại của dòng thu trên giá trị hiện tại của dòng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả của đồng vốn bỏ ra khi quy về giá trị hiện tại. Công thức xác định BCR: n BCR  Bt  1  k  t 0 n t Ct  1  k  t t 0 Dự án được coi là có hiệu quả về mặt tài chính khi BCR > 1. Đối với những phương án loại trừ nhau thì phương án tốt nhất về mặt tài chính là phương án có BCR lớn nhất. Chỉ tiêu BCR có ưu điểm nổi bật là: có tính đến giá trị thời gian của tiền, tính toán trên toàn bộ đời sống của dự án; Đồng thời đánh giá được hiệu quả tương đối của dự án và có thể dùng để so sánh các dự án – phương án khác nhau. Tuy vậy chỉ tiêu này cũng có khá nhiều nhược điểm. Đó là việc đòi hỏi phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án. Đây lại là một công việc không phải là dễ dàng đối với nhà phân tích và thẩm định. Chỉ tiêu này có sự phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu, trong khi tỷ lệ chiết khấu trên thị trường lại luôn có sự thay đổi. Đây chỉ là một chỉ tiêu tương đối nên dễ có thể dẫn đến sai lầm khi lựa chọn các phương án khác nhau.  Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn-PP: 17 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Thời gian hoàn vốn đầu tư là thòi gian để chủ đầu tư thu hôi được số vốn đã đầu tư ban đầu vào dự án. Chỉ tiêu này cho biết sau khi thực hiện dự án bao lâu thì thu hồi đủ vốn đầu tư. Được xác định theo công thức: PP = n + Với n là số năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư. Dự án có PP càng nhỏ sẽ càng tốt. Bởi khi đó nhà đầu tư sẽ thu hồi được vốn sớm. Do đó nếu có nhiều dự án để lựa chọn thì dự án có PP nhỏ nhất sẽ được chọn. Chỉ tiêu này có ưu điểm là cho biết rõ được thời gian vốn sẽ được thu hồi và có thể dùng để so sánh các dự án – các phương án khác nhau. Nhưng bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng có một số nhược điểm: Nhiều khi sử dụng chỉ tiêu này dễ dẫn đến việc quá chú trọng chọn phương án có thời gian thu hồi vốn nhỏ nhất mà bỏ qua mất phương án có lợi nhuận cao nhất (mục đích của nhà đầu tư). Không tính tới giá trị thời gian của tiền, bỏ qua phần thu nhập sau thời gian hoàn vốn mà đôi khi có những dự án nhưng năm sau mới có lợi nhuận cao. Mỗi chỉ tiêu trên chỉ tiêu nào cũng có những ưu nhược điểm riêng không chỉ tiêu nào là hoàn hảo nên khi thẩm định các cán bộ thẩm định thường sử dụng kết hợp một số chỉ tiêu có thể để có được kết quả chính xác nhất. 1.3.5 Đánh giá rủi ro của dự án. Bất kỳ một dự án nào ngay từ khâu lập cho đến kết thúc hoạt động luôn luôn chứa đựng trong nó những rủi ro tiềm ẩn. Một cách chung nhất rủi ro của dự án vẫn được hiểu là khả năng xảy ra một sự kiện không có lợi nào đó làm giảm thu nhập của dự án so với dự kiến. Thực tế môi trường kinh tế, đầu tư luôn chứa đựng rất nhiều loại rủi ro khác nhau. Để thuận tiện cho việc phân tích chúng người ta đã phân ra làm ba loại: Rủi ro loại 1: là những rủi ro riêng thuộc về chính bản thân dự án.hay chính là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của dự án. 18 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Rủi ro loại 2: Đây là loại rủi ro cho thấy sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp. Nó thể hiện thông qua sự biến thiên thu nhập của doanh nghiệp khi thực hiện dự án. Rủi ro loại 3 hay rủi ro thị trường: là rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp đối với giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Đây là loại rủi ro mà doanh nghiệp không thể loại trừ được.chẳng hạn như rủi ro về tỷ giá, lạm phát… Trong 3 loại rủi ro trên rủi ro loại một là loại mà cán bộ thẩm định rất quan tâm và rủi ro này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính thực sự của dự án. Rủi ro này được đánh giá bằng các phương pháp: *Phương pháp phân tích độ nhạy: Đây là phương pháp mà cán bộ phân tích - thẩm định chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài chính thay đổi như thế nào khi có biến đầu vào thay đổi. Qui trình phân tích được bắt đầu bằng việc dự báo những khoản doanh thu và chi phí dự kiến để thông qua chúng tìm được những khoản lợi nhuận ròng của dự án. Kết quả dự báo được đặt trong hai tình huống là lạc quan và bi quan, và đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với NPV của dự án. Phân tích về độ nhạy là một quy trình hữu ích để nhận diện các biến số mà sự thay đổi của chúng sẽ gây tác dộng lớn đến NPV của dự án. Qua việc phương pháp này người ra quyết định có thể tính toán được những hậu quả của sự ước tinh sai lầm và ảnh hưởng của chúng đến NPV. Mặc dù vậy thì việc sử dụng phương pháp này cũng có một số hạn chế nhất định. Đó là: - Các biến số đưa ra dựa trên những phán đoán chủ quan rất cao. Có những biến đầu vào như giá bán, mức bán..khi phân tích cho thấy ảnh hưởng rất lớn đến NPV và IRR, nhưmg trên thực tế những yếu tố này lại có thể được cố định bởi hợp đồng với nhà cung cấp nên dự án vẫn có thể khá an toàn. - Bỏ qua sự tác động lẫn nhau của các biến số đầu vào. Mà chỉ xét đến tác động của những biến số đầu vào này đối với biến số đâu ra. - Thêm nữa là kết quả về phân tích dộ nhạy không đem lại cho người ra quyết định một giải pháp rõ ràng đối với việc lựa chọn dự án. Ý nghĩa của 19 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 phương pháp này là đưa lại cho người phân tích ý tưởng về một số điều không chắc chắn và độ nhạy. Nhưng cho dù thế nào thì thực tế phương pháp này vẫn là một công cụ rất hữu ích khi sử dụng kết hợp với một số hình thức phân tích rủi ro khác. *Phương pháp phân tích giả định tình huống: Phương pháp này thường được áp dụng khi đánh giá rủi ro của những dự án lớn, bởi đây là một qui trình đánh giá lợi nhuận và rủi ro của những dự án phức tạp. Bước đầu của phương pháp này là tạo ra một mẫu dòng tiền bằng cách xác định những yếu tố ảnh hưởng đến nó và các mối quan hệ cụ thể giữa các yếu tố thành phần của dòng tiền với nhau, và cả những ảnh hưởng của những yếu tố này đến dòng tiền. Dòng tiền = (doanh thu – chi phí)x(1 - thuế suất) + (thuế suất x khấu hao) Mỗi thành phần chủ yếu của dòng tiền có thể chỉ ra những yếu tố quyết định của nó. Khi các mối quan hệ của dòng tiền đã được nhận diện, các nhà phân tích có thể dễ dàng đánh giá được phân phối xác suất của mỗi thành phần của nó. Và khi tất cả những phân phối xác suất cũng như các mỗi quan hệ giữa các thành phần đã được chỉ rõ thì đã hình thành được mô hình của “tình huống giả định”. Lúc này kết hợp với việc sử dụng các phần mềm máy tính chuyên biệt cán bộ phân tích thẩm định lựa chọn ngẫu nhiên dòng tiền cho mỗi năm và cho cả đời sống của dự án. NPV của dự án sẽ được chiết khấu ở tỷ lệ rủi ro sinh lời ở mức rủi ro thuần tuý để tránh tình trạng tính hai lần rủi ro. NPV ở đây đại diện cho một trong nhiều NPV tiềm tàng có thể xuất hiện. Máy tính sẽ thực hiện nhiều lần và dừng lại ở một phân phối xác suất ước tính về NPV của dự án. Đồng thời cũng cho kết quả vê phân phối xác suất ước tính của IRR. Phương pháp này có ưu điểm và nhược điểm nhất định: Trong đó ưu điểm là bắt buộc người ra quyết định phải xem xét cẩn thận các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền. Nó đem lại 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan