VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
—————
PHÙNG VĂN KIÊN
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
CHO DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN THẾ GIỚI
VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60.31.01.06
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ TUẤN HƯNG
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Học viên
Phùng Văn Kiên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo và động viên của các thầy cô, gia đình, đồng
nghiệp và các bạn. Qua đây, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn trân trọng tới toàn
thể thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và các bạn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Tuấn Hưng, với vai trò là người hướng
dẫn khoa học cho tôi, đã nhiệt tình và tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thiện Luận văn
thạc sĩ này.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới tập thể giảng viên, cán bộ, nhân viên thuộc
Học viện Khoa học xã hội, đặc biệt là các giảng viên, cán bộ thuộc Khoa Quốc tế
học đã luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại
Học viện.
Xin cảm ơn người thân và các bạn của tôi đã giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng trong việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tổng hợp các ý
kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước trong lĩnh vực này, song Luận văn vẫn
khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong nhận được sự góp ý của các
giảng viên và các bạn để luận văn được thực hiện tốt nhất.
Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Học viên
Phùng Văn Kiên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ MÔ HÌNH PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ..........................................................................7
1.1. Tổng quan về thương mại điện tử ........................................................................7
1.2. Mô hình phát triển thương mại điện tử và vai trò của nó đối với hoạt động của
doanh nghiệp .............................................................................................................14
Chương 2. PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ............................24
2.1. Sự phát triển thương mại điện tử tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới
...................................................................................................................................24
2.2. Thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam .....................41
2.3. Một số trở ngại đối với sự phát triển của thương mại điện tử trong doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam .............................................................................................48
Chương 3. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
PHÙ HỢP VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM ...................53
3.1. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình phát triển thương mại điện tử phù hợp với
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.......................................................................53
3.2. Quan điểm xây dựng mô hình phát triển thương mại điện tử trong doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam .............................................................................................55
3.3. Gợi ý mô hình và giải pháp phát triển thương mại điện tử cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Việt Nam .................................................................................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................80
BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
B2B
:
B2C
:
C2B
:
C2C
:
CNTT
CSDL
DNVVN
EDI
:
:
:
:
G2B
:
G2C
:
G2G
:
ITU
:
TMĐT
UNCITRAL
:
:
UNCTAD
:
Business to Business:
Doanh nghiệp với doanh nghiệp
Business to Customer:
Doanh nghiệp với người tiêu dùng
Customer to Business:
Người tiêu dùng với doanh nghiệp
Customer to Customer:
Người tiêu dùng với người tiêu dùng
Công nghệ thông tin
Cơ sở dữ liệu
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Electronic Data Interchange:
Trao đổi dữ liệu điện tử
Government to Business:
Chính phủ với doanh nghiệp
Government to Customer:
Chính phủ với người dân
Government to Government:
Chính phủ với chính phủ
International Telecommunication Union:
Liên minh Viễn thông Quốc tế
Thương mại điện tử
The United Nations Commission on International Trade Law:
Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế
United Nation Conference on Trade and Development:
Hội nghị của Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số thứ tự
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Tỷ lệ doanh thu TMĐT B2C toàn cầu theo khu vực 2013 – 2018
25
Bảng 2.2
10 quốc gia có doanh thu TMĐT bán lẻ cao nhất 2013 – 2018
27
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số thứ tự
Tên hình
Trang
Hình 2.1
Doanh thu B2C toàn cầu theo khu vực năm 2014
24
Hình 2.2
Doanh thu TMĐT B2C khu vực APAC
25
Hình 2.3
Tỷ lệ doanh thu TMĐT bán lẻ trong tổng doanh thu bán lẻ
toàn cầu 2015
26
Hình 2.4
10 quốc gia có doanh thu TMĐT B2C cao nhất 2014
26
Hình 2.5
Số người dùng internet giai đoạn 2001–2016
31
Hình 2.6
Số người dùng internet trên 100 người dân (theo khu vực
năm 2016)
32
Hình 2.7
Các rào cản đối với ứng dụng TMĐT ở các DNVVN
38
Hình 2.8
Tình hình sử dụng chữ ký điện tử trong doanh nghiệp
42
Hình 2.9
Khó khăn trong tuyển dụng nhân sự có kỹ năng CNTT và
TMĐT
43
Hình 2.10
Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT năm
2015
43
Hình 2.11
Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT qua các
năm
44
Hình 2.12
Tỷ lệ doanh nghiệp sở hữu website (nhóm theo lĩnh vực
kinh doanh)
45
Hình 2.13
Đánh giá việc bán hàng qua các hình thức
46
Hình 2.14
Tổng giá trị đơn hàng đã nhận qua website và thư điện tử
trên tổng doanh thu
47
Hình 2.15
Giá trị trung bình của đơn đặt hàng
47
Hình 2.16
Số lượng đơn hàng trực tuyến đã nhận
48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kofi A. Annan, nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc từng đánh giá “sự nổi
lên của TMĐT đã căn bản thay đổi bộ mặt kinh tế. Với các nước đang phát triển,
cuộc cách mạng số cung cấp cơ hội chưa từng có cho sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển”. Thực tế đã chứng minh nhận định trên đây của người từng đứng đầu Liên
Hợp Quốc là chính xác. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu
thế diễn ra mạnh mẽ, mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn cho tất cả các
nước trên thế giới. Với tốc độ toàn cầu hóa nhanh chóng, TMĐT không còn là điều
tùy chọn mà là phương tiện sống còn trong sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp. Vì vậy dù muốn hay không các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận và
tham gia TMĐT.
TMĐT không phải chỉ đơn giản là mua bán hàng hoá và dịch vụ. TMĐT có
nhiều cấp độ khác nhau. Doanh nghiệp có thể tham gia TMĐT để: Giới thiệu hàng
hoá và sản phẩm của mình; Tìm hiểu, nghiên cứu, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ; Xây dựng quan hệ trực tuyến với khách hàng; Thiết lập kênh tiếp thị
trực tuyến; Tìm kiếm đối tác; Tìm kiếm cơ hội xuất khẩu…
Ứng dụng TMĐT của doanh nghiệp là một quá trình mà trong đó doanh
nghiệp từng bước chuẩn bị, tích lũy nguồn lực và kinh nghiệm để đạt mục tiêu đề
ra. Doanh nghiệp không tham gia vào TMĐT thì sẽ bỏ lỡ một hình thức kinh doanh
hiệu quả, chi phí thấp và sẽ là hình thức kinh doanh phổ biến trong thế kỷ này. Các
nghiên cứu đã có về TMĐT đều xác định các DNVVN là đối tượng hưởng lợi nhiều
nhất từ hình thức kinh doanh này.
Sự ra đời và phát triển của TMĐT đã làm thay đổi thương mại truyền thống
và tạo ra nhiều mô hình kinh doanh mới. Sự ra đời của TMĐT tác động đến hoạt
động của doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu. Các doanh nghiệp tại các quốc gia đã
nhanh nhạy nắm bắt cơ hội do TMĐT mang lại để đạt được kết quả hoạt động kinh
doanh tốt, có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp tại
Việt Nam, việc ứng dụng TMĐT trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp
nhiều trở ngại. Lý do chính ở đây là TMĐT mới chỉ thực sự phổ biến ở Việt Nam
1
vào đầu những năm 2000, hệ thống pháp luật về TMĐT còn thiếu. Chính phủ Việt
Nam nhận thức rất rõ tầm quan trọng cũng như tác động của TMĐT đến nền kinh tế
- xã hội, chính vì vậy Chính phủ rất mong muốn phát triển TMĐT, coi đây là một
trong những giải pháp mang tính chiến lược để góp phần đẩy mạnh phát triển kinh
tế, góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc nghiên cứu sự phát triển và ứng dụng TMĐT ở các doanh nghiệp trên
thế giới nói chung và ở các quốc gia có nền TMĐT phát triển nói riêng là rất cần
thiết, để từ đó gợi ý những giải pháp cho cơ quan quản lý trong việc xây dựng chính
sách để quản lý, thúc đẩy TMĐT phát triển, cũng như gợi ý cho doanh nghiệp trong
ứng dụng TMĐT trong kinh doanh. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Mô hình phát
triển thương mại điện tử cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới và gợi ý cho
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Từ khi xuất hiện vào những năm 90 của thế kỷ XX, TMĐT nói chung và
DNVVN ứng dụng TMĐT nói riêng đã được nhiều tổ chức và các học giả trên thế
giới đề cập. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Tác phẩm “The successful strategy for e-commerce” (Những chiến lược
thành công cho TMĐT) của Giáo sư Bijan Fazlollahi trường đại học Georgia State
University, USA do nhà xuất bản IRM Press phát hành [12] đã đề cập tới những nội
dung tương đối cụ thể để ứng dụng thành công TMĐT trong mỗi doanh nghiệp và
phương thức quản lý các hoạt động TMĐT. Các nội dung này bao gồm:
Những ảnh hưởng của cấu trúc của nền kinh tế tới việc thực hiện các hoạt
động TMĐT toàn cầu;
Các khía cạnh của xã hội trong TMĐT có liên quan đến việc xây dựng các
chính sách của chính phủ cũng như của DNVVN;
Tính riêng tư trong không gian ảo khi các DNVVN thực hiện các hoạt động
TMĐT;
Một số nội dung khác liên quan đến việc xây dựng chiến lược phát triển
TMĐT cho các DNVVN.
2
- Năm 2002, dự án nghiên cứu về những tác động của TMĐT trong nền kinh
tế toàn cầu của Trung tâm nghiên cứu thuộc Đại học Iinrve (Mỹ) đã nghiên cứu các
tác động của môi trường chính sách của quốc gia tới sự phát triển TMĐT nói chung
và cũng như trong DNVVN. Tổng hợp những nghiên cứu này đã được viết lại trong
cuốn sách “Global e-commerce, Impacts of National Environment and Policy”
(TMĐT toàn cầu, những tác động của môi trường chính sách và môi trường quốc tế)
do trường đại học Cambridge phát hành năm 2006 [11]. Phạm vi của những nghiên
cứu này dàn trải trên 10 quốc gia khác nhau đó là: Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Đan
Mạch, Pháp, Đức, Nhật, Mexico, Singapore và Đài Loan với 2.139 doanh nghiệp tại
các nước được phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra được tác động rất lớn
của môi trường chính sách của các quốc gia tới quá trình hình thành phát triển
TMĐT trong doanh nghiệp. Dựa trên các số liệu điều tra và mô hình nghiên cứu,
các tác giả đã phân tích và đánh giá các tác động của mô trường và chính sách
TMĐT trên mỗi quốc gia để nhằm giải đáp một số câu hỏi sau:
Có những xu thế nào (rào cản, nhân tố bên trong và bên ngoài) ảnh hưởng
đến việc ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp?
Những tác động của nhân tố này tại các quốc gia đã phát triển và đang phát
triển có sự khác biệt như thế nào?
Trong các giai đoạn phát triển của từng quốc gia thì yếu tố này ảnh hưởng
như thế nào?
Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các học giả
trên thế giới nghiên cứ về TMĐT và tác động của nó đến nền kinh tế, xã hội, tuy
nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính tổng hợp về về các mô hình
TMĐT cho đối tượng là các DNVVN trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về TMĐT. Trong đó có một
số công trình tiêu biểu:
- Tác phẩm “Thương mại điện tử cho doanh nghiệp” của Trịnh Lê Nam và
Nguyễn Phúc Trường Sinh (2001) [11] nghiên cứu về các giao dịch TMĐT của
doanh nghiệp. Tác phẩm đề cập tổng quát đến mô hình kinh doanh mới (kinh doanh
trên web) trong hoàn cảnh sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và
3
truyền thông. Ngoài ra, Tác phẩm cũng đề cập tổng quát việc ứng dụng TMĐT
trong các ngành công nghiệp.
- Tác phẩm “Giáo trình thương mại điên tử” do Ts. Trần Văn Hòe chủ biên
phát hành năm 2006 [8]. Giáo trình bao gồm 12 chương đã cung cấp khái niệm căn
bản về TMĐT như: khái niệm về TMĐT, các mô hình TMĐT, các hình thức thanh
toán trong TMĐT, an ninh trong TMĐT, các điều kiện để ứng dụng TMĐT...
- Tác phẩm “Thương mại điện tử” do Nguyễn Văn Hùng (chủ biên) cùng các
tác giả Trương Anh Luân, Huỳnh Văn Hồng, Phan Quang Việt, Nguyễn Văn Bảo
(2013), Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh [12]. Cuốn sách gồm 12
chương đề cập toàn diện đến TMĐT, từ cơ sở của TMĐT đến các mô hình TMĐT.
- Từ năm 2004, Vụ Thương mại điện tử (Bộ Thương mại), nay là Cục
Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thương (Cục TMĐT và
CNTT) đã tiến hành tổng kết tình hình TMĐT Việt Nam trong các báo cáo thường
niên về TMĐT ở Việt Nam hàng năm. Các báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng
quan về thực trạng tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam trong năm như: tình hình
ứng dụng TMĐT trong các doanh nghiệp, thực trạng về cơ sở hạ tầng cho TMĐT,
triển khai chính sách TMĐT trong thực tế, tình hình đào tạo về TMĐT…, đồng thời
đưa ra nhiều kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về TMĐT và các doanh nghiệp trong việc triển khai ứng
dụng TMĐT. Các kiến nghị mang tính tổng quát, chưa đưa ra được giải pháp cụ thể
để hoàn thiện giúp doanh nghiệp ứng dụng TMĐT và cũng như các nội dung về
quản lý nhà nước trong TMĐT.
Nói chung, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa được những vấn đề cơ
bản về TMĐT, phân tích đánh giá quá trình hình thành, phát triển TMĐT ở Việt
Nam và quốc tế, đã nêu lên được những bài học kinh nghiệm trong phát triển
TMĐT và các điều kiện cần thiết cho sự phát triển TMĐT tại Việt Nam, đưa ra một
số gợi ý cho chính sách phát triển TMĐT ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình
chưa đi sâu nghiên cứu mô hình phát triển TMĐT cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
thế giới để từ đó có thể đưa ra được những gợi ý bổ ích cho các DNVVN Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Nghiên cứu mô hình phát triển TMĐT của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế
giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết về TMĐT;
- Nghiên cứu về mô hình TMĐT được các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế
giới đang ứng dụng;
- Nghiên cứu về đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam;
- Nghiên cứu về thực trạng ứng dụng TMĐT ở DNVVN ở Việt Nam hiện
nay;
- Đề xuất giải pháp phát triển TMĐT phù hợp cho DNVVN ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là mô hình phát triển TMĐT đang
được áp dụng trong DNVVN trên thế giới, hiện trạng phát triển TMĐT tại các
DNVVN ở Việt Nam trong thời gian gần đây và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triển TMĐT tại các DNVVN ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là việc xây dựng, áp dụng các mô hình phát
triển TMĐT ở các DNVVN trên thế giới và Việt Nam trong thời gian qua. Các giải
pháp để xây dựng, áp dụng mô hình TMĐT phù hợp trong các DNVVN Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu là phương pháp duy vật biên chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin trong phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế,
cũng như vai trò của công nghệ trong nền kinh tế tri thức.
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
tổng hợp như: phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp hệ
thống hóa, phương pháp diễn giải và so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần nghiên cứu, hệ thống hóa và làm rõ lý
luận về TMĐT nói chung cũng như việc xây dựng mô hình phát triển TMĐT tại các
DNVVN trên thế giới hiện nay.
5
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ nghiên cứu mô hình phát triển TMĐT cho DNVVN
trên thế giới, luận văn đưa ra đề xuất mô hình phát triển TMĐT phù hợp cho
DNVVN ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Khái luận về thương mại điện tử và mô hình phát triển thương
mại điện tử
Chương 2: Phát triển thương mại điện tử tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên thế giới và Việt Nam
Chương 3: Đề xuất mô hình phát triển thương mại điện tử phù hợp với
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
6
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
TMĐT là hình thức kinh doanh thương mại dựa trên cơ sở mạng máy tính
toàn cầu. TMĐT được dự báo sẽ trở thành phương thức hoạt động chủ yếu trong
nền kinh tế số. Sự hình thành và phát triển của TMĐT gắn liền với sự hình thành và
phát triển của CNTT và internet. TMĐT (electronic commerce) là khái niệm do Tập
đoàn IBM đưa ra năm 1997. Theo đó “TMĐT là những gì diễn ra khi kết nối khả
năng rộng lớn của mạng internet với các hệ thống công nghệ thông tin truyền
thống”. Tuy nhiên, sau khi Chính phủ Mỹ công bố văn bản quan trọng “Khung
TMĐT toàn cầu” vào tháng 7 năm 1997 thì thuật ngữ TMĐT mới bắt đầu được sử
dụng rộng rãi.
TMĐT ban đầu chủ yếu được ứng dụng trong hoạt động mua bán hàng hóa
và cung ứng dịch vụ. Do vậy, ở góc độ nhỏ hẹp thì TMĐT là việc mua bán hàng
hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông. Trong
trường hợp này thì TMĐT là mua bán trực tuyến. Tuy nhiên, sự phát triển của
CNTT và internet, TMĐT không chỉ dừng lại ở việc mua bán hàng hóa và dịch vụ,
mà nó còn được ứng dụng rộng rãi trong các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội
như lĩnh vực sản xuất, dịch vụ công, giáo dục, xây dựng…
Đến nay, nhiều khái niệm về TMĐT được nhiều tổ chức, cá nhân đưa ra dựa
trên góc độ tiếp cận của riêng họ. Theo Kenneth C. Laudon, chuyên gia người Mỹ
chuyên nghiên cứu về TMĐT thì “TMĐT là việc sử dụng internet và web để tiến
hành các hoạt động kinh doanh” [14]. Khái niệm do Laudon đưa ra tập trung chủ
yếu vào các giao dịch thương mại dựa trên công nghệ số hóa giữa các tổ chức, cá
nhân. Tác giả không tập trung vào loại hình tham gia trao đổi mà tập trung chủ yếu
vào giá trị gia tăng của mỗi giao dịch được tạo ra khi tiến hành bằng công nghệ số
hóa. Một nhà nghiên cứu người Mỹ khác là Efraim Turban lại đưa ra quan điểm:
7
“TMĐT là quá trình mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thông tin thông qua
mạng máy tính, bao gồm mạng internet” [13]. Ngoài khái niệm chung về TMĐT ở
trên, Turban còn đưa ra một vài khái niệm về TMĐT dựa trên các khía cạnh tiếp cận
khác nhau. Ở khía cạnh về truyền thông thì theo ông “TMĐT là việc chuyển giao
hàng hóa, dịch vụ, thông tin hay tiến hành hoạt động thanh toán thông qua mạng
máy tính hay bằng bất cứ phương tiện điện tử nào”. Ở khía cạnh thương mại:
“TMĐT giúp cho các bên có thể tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và
thông tin thông qua mạng internet hoặc thông qua các dịch vụ trực tuyến”. Ở khía
cạnh quá trình kinh doanh: “TMĐT là việc tiến hành hoạt động kinh doanh bằng các
phương tiện điện tử để thực hiện một quá trình kinh doanh thông qua mạng điện tử,
hỗ trợ cho quá trình kinh doanh truyền thống”. Ở khía cạnh cung cấp dịch vụ:
“TMĐT là công cụ đáp ứng những mong muốn của chính phủ, doanh nghiệp, người
tiêu dùng và các nhà quả lý trong việc cắt giảm chi phí dịch vụ trong khi vẫn nâng
cao được chất lượng dịch vụ khách hàng và đẩy nhanh tốc độ cung ứng dịch vụ”.
Laudon và Turban đứng ở góc độ là doanh nghiệp thương mại khi đưa ra hai khái
niệm khác nhau về TMĐT. Laudon tập trung chủ yếu vào giá trị gia tăng trong hoạt
động thương mại. Còn Turban chủ yếu tập trung vào các bước trong quá trình tiến
hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các phương tiện điện tử.
Ngoài các khái niệm do cá nhân đưa ra thì các tổ chức quốc tế cũng đưa ra
các khái niệm khác nhau về TMĐT. Cụ thể:
Năm 1996, UNCITRAL đưa ra khái niệm về TMĐT. Khái niệm về TMĐT
được quy định tại Điều 1 của Luật mẫu về TMĐT: “TMĐT là việc sử dụng thông
tin dưới dạng thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động thương mại”. Trong
đó Điều 2a nêu rõ “thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận
hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự, bao
gồm nhưng không hạn chế ở EDI, thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax” [30].
Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT tập trung chủ yếu vào việc trao đổi các thông
điệp dữ liệu. Đây là điểm khác biệt lớn giữa TMĐT với thương mại truyền thống.
Trong thương mại truyền thống, thông tin chỉ là cái để tham khảo, hỗ trợ các bên đi
đến ký kết hợp đồng, mua bán hàng hóa. Trong TMĐT, thông tin được trao đổi
8
dưới dạng các thông điệp dữ liệu. Để giao dịch được tiến hành, các bên tham gia bắt
buộc phải truy cập được vào các thông điệp dữ liệu này. Thuật ngữ TMĐT trong
Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát
các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có
hợp đồng. Theo quan điểm này thì TMĐT bao gồm tất cả các quan hệ mang tính
thương mại như: các giao dịch liên quan đến việc cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ, thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng,
cho thuê dài hạn, xây dựng các công trình, tư vấn, đầu tư, cấp vốn, liên doanh…;
các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa
hay hành khách bằng đường biển, đường sắt, đường không hoặc đường bộ. Như
vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT hiểu theo nghĩa này là rất rộng, bao quát
hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Mua bán hàng hóa, dịch vụ chỉ là một lĩnh
vực áp dụng của TMĐT.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra khái niệm: “TMĐT được hiểu là
việc sản xuất (Production), phân phối (Distribution), quảng cáo (Marketting), bán
hàng (Sale) hoặc chuyển giao (Delivery) hàng hóa hoặc dịch vụ bằng các phương
tiện điện tử” [31] . Khái niệm cho thấy WTO đã tiếp cận TMĐT ở góc độ rộng hơn
khi cho rằng TMĐT không chỉ dừng lại ở việc tiến hành hoạt động thương mại
trong các doanh nghiệp sản xuất, thương mại mà còn cả trong các doanh nghiệp
kinh doanh. Khái niệm nêu bật việc ứng dụng các phương tiện điện tử vào các hoạt
động tạo ra chuỗi giá trị để có một sản phẩm, dịch vụ, cho dù đó là hoạt động sản
xuất, phân phối hay kinh doanh.
Theo Ủy ban Châu Âu (EC), “TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động
kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu
điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh”. TMĐT trong định nghĩa này gồm
nhiều hành vi, trong đó có: các hoạt động mua bán hàng hóa; dịch vụ; giao nhận các
nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử; vận
đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm
công cộng; tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối
với thương mại hàng hóa (như hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thương
9
mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, dịch vụ tài chính) và
các hoạt động mới (siêu thị ảo); các dịch vụ công ích.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế của Liên Hợp Quốc (OECD),
TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu
qua các mạng truyền thông như internet.
Như vậy có thể thấy rằng các cá nhân, tổ chức từ các góc độ tiếp cận khác
nhau đưa ra các khái niệm khác nhau về TMĐT nhưng tất cả đều có chung quan
điểm rằng TMĐT là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại. Ở
phạm vi hẹp thì TMĐT chính là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ bằng các phương
tiện điện tử có kết nối mạng hay còn gọi là mua bán trực tuyến.
TMĐT phát triển được nhờ thành tựu phát triển của ngành công nghiệp
truyền thông và công nghệ thông tin để thực hiện một hình thái thương mại “không
giấy tờ” nhưng lại hiệu quả hơn nhiều thương mại truyền thống. Ngành thương mại
này tuy còn mới mẻ nhưng tiềm năng rất lớn và sẽ có sự phát triển mạnh mẽ.
1.1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử
So với thương mại truyền thống, TMĐT có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không cần phải tiếp xúc
với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Trong thương mại truyền thống,
các bên phải gặp nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Và nơi diễn ra các giao dịch
theo kiểu truyền thống này thường là chợ: từ các chợ truyền thống đến các cửa
hàng, siêu thị, trung tâm thương mại. Các đối tác kinh doanh tham gia giao dịch
thường phải gặp gỡ nhau và tiếp xúc với nhau để tìm hiểu về thông tin, khảo hàng
và thương lượng…, thậm chí họ còn là những người đã quen biết nhau từ trước. Họ
thường gặp nhau tại một địa điểm nhất định (có thể là địa điểm của người bán,
người mua hoặc một địa điểm nào khác mà hai bên cùng thống nhất) để tiến hành
các giao dịch này. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như
chuyển tiền, séc, hoá đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Sự ra đời của các phương tiện viễn
thông như fax, telex…đã làm giảm thiểu được những cuộc tiếp xúc đôi khi không
cần thiết và gây lãng phí giữa các đối tác kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các
phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống thường chỉ được sử dụng để trao
10
đổi số liệu kinh doanh. Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu thì việc trao
đổi thông tin đã được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng
người tham gia ngày tăng. Những người tham gia có thể là các cá nhân hoặc doanh
nghiệp, có thể đã biết nhau hoặc hoàn toàn chưa biết nhau. Họ gặp gỡ nhau qua
những chợ ảo trên mạng để thực hiện khảo hàng và mua bán.
Thứ hai, trong TMĐT, khái niệm biên giới quốc gia dường như không tồn
tại. Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái
niệm biên giới quốc gia, còn trong TMĐT, nó dần được xoá mờ. Có thể nói rằng
khái niệm biên giới là một cản trở lớn đối với thương mại truyền thống. Đề cập tới
khái niệm biên giới trong thương mại truyền thống, người ta thường hay nghĩ tới sự
gia tăng của chi phí giao dịch, những rào cản thuế quan và phi thuế quan - những
điều có thể cản trở một doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trên
những thị trường nước ngoài. Vào thế kỷ XXI, bất kỳ khách hàng nào dù là người
tiêu dùng, người kinh doanh nhỏ hay là những công ty lớn đều có thể mở rộng việc
giao dịch của mình tới những nơi xa xôi nhất trên hành tinh. Toàn cầu hoá, tự do
hoá mậu dịch là môi trường mà trong đó mỗi quốc gia, doanh nghiệp phải thay đổi
để có thể cạnh tranh quốc tế. Theo xu hướng này, các nước đã và đang dần từng
bước cố gắng loại bỏ những rào cản thuế quan và phi thuế quan để tạo điều kiện
thuận lợi cho các giao dịch thương mại quốc tế. Tuy nhiên, ngay cả trong điều kiện
đó thì vấn đề chi phí giao dịch, kinh doanh ngoài biên giới vẫn là một rào cản to lớn
đối với các doanh nghiệp muốn vươn tới những thị trường mới. Rào cản về chi phí
lại có thể được xoá bỏ bởi sự phát triển của TMĐT. Không chỉ có các công ty hàng
đầu thế giới mới có thể tiếp cận được những thị trường mới, mà ngay cả một công
ty vừa mới khởi sự cũng có một mạng lưới tiêu thụ và phân phối không biên giới
khi tham gia TMĐT. Với TMĐT, một doanh nhân dù mới bắt đầu công việc kinh
doanh cũng hoàn toàn có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức hay Mỹ…, mà không hề
phải bước chân ra khỏi nhà - một công việc mà trước kia phải mất nhiều năm.
Thứ ba, thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để
các bên tham gia giao dịch có thể trao đổi dữ liệu tiến tới việc thực hiện giao dịch,
còn nơi gặp gỡ, tiếp xúc của họ để tiến hành giao dịch kinh doanh là hoàn toàn độc
11
lập. Còn trong TMĐT, mạng lưới thông tin cũng chính là thị trường – nơi gặp gỡ
giữa người bán và người mua. Trên internet đã xuất hiện những khu chợ ảo khổng
lồ, tại đó người bán và người mua có thể gặp gỡ nhau, trao đổi dữ liệu, thương
lượng và tiến hành giao dịch. Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo, Alibaba.com,
Ebay.com,… thực sự đã trở thành những khu chợ sầm uất trên internet. Với mỗi lần
nhấn chuột, khách hàng có thể truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ
lệ khách hàng vào cũng như mua hàng tại các cửa hàng ảo này là rất cao. Thông qua
TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành, ví dụ các siêu thị ảo được
hình thành để cung cấp hàng hoá và dịch vụ trên mạng máy tính. Theo một số
chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính năng dễ sử dụng và hình
thức vui mắt, dễ hiểu của các trang web dành cho TMĐT là những yếu tố quyết
định trong việc thu hút khách hàng. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một
số loại hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng. Con người ngày càng trở nên
lười biếng và họ cho rằng thà phải trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đến tận
cửa hàng để mua hàng. Một số công ty đã mời khách hàng may đo quần áo trên
mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn của cửa hàng (qua
internet) rồi sau một thời gian nhất định sẽ nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu
của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cuối cùng cũng được rất
nhiều người hưởng ứng. Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đua nhau
đưa thông tin lên web để tiến tới khai thác mạng thị trường rộng lớn trên web bằng
cách mở cửa hàng ảo. Như vậy, trong TMĐT, bản chất của thông tin không thay
đổi. TMĐT chỉ biến đổi cách thức khởi thảo, trao đổi, bảo quản và xử lý thông tin
mà hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối với các bên
tham gia trao đổi.
Thứ tư, trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia giao dịch giống như trong
giao dịch thương mại truyền thống (người mua và người bán) đã xuất hiện thêm một
bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… Đây là
những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng
có nhiệm vụ chuyển, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT,
đồng thời, họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
12
Thứ năm, trong TMĐT, độ lớn về quy mô và vị trí của các doanh nghiệp
không quan trọng. Nếu như trong thương mại truyền thống, độ lớn và vị trí có ảnh
hưởng quan trọng với sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thì trong TMĐT, điều này không còn đúng nữa. Trong TMĐT, bất kỳ là lớn
hay nhỏ, doanh nghiệp đều có thể dễ dàng truy nhập đến các khách hàng tiềm năng.
Internet không giống như thế giới hiện thực mà trong đó vị trí và độ lớn của doanh
nghiệp có thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận với khách hàng. Thành công này đã
được chứng tỏ bởi các doanh nghiệp như Amazon.com, Alibaba.com,… tất cả đã
xác định lại các thị trường tương ứng của mình và hiện nay chiếm thị phần lớn trong
bán hàng trên internet. Các công ty này ra đời muộn nhưng ngày nay họ đã có thể
cạnh tranh với các công ty tồn tại lâu đời, có cơ sở hạ tầng vững mạnh và quyền lực
mua bán lớn bằng cách sử dụng sự hiểu biết và linh hoạt để tận dụng ưu thế của môi
trường mới. Một ưu thế của sự hiện diện trên web là nó không có vị trí xác định, kể
cả múi giờ và biên giới lãnh thổ. Thông qua web, doanh nghiệp có thể tiếp cận với
các khách hàng ở các vùng địa lý mà trước đây họ không thể vươn tới được. Nhiều
người tham quan website của doanh nghiệp không ý thức được về độ lớn cũng như
vị trí của doanh nghiệp. Với một website, doanh nghiệp có thể dễ dàng hỗ trợ khách
hàng ở bất kỳ đâu trên thế giới. Múi giờ không còn trở nên quan trọng nữa. Internet
có thể truy cập 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần (gọi là sự hiện diện web
24/7). Doanh nghiệp có thể duy trì hay giảm số lượng nhân viên hiện tại mà vẫn có
thể cung cấp cho các khách hàng hiện tại và tương lai nhiều thời gian hỗ trợ và phục
vụ hơn. Không có khoảng thời gian trễ giữa việc công bố thông tin trên website và
việc khách hàng truy nhập đến các thông tin này. Doanh nghiệp có thể theo dõi các
sản phẩm mới và các chiến dịch marketing ngay lập tức. Các thông điệp, sự sắp xếp
và trọng tâm của các chiến dịch marketing trực tuyến có thể được phân nhỏ với chi
phí rất ít và không có thời gian trễ.
Thứ sáu, TMĐT được coi là một loại hình thương mại có sự trợ giúp của
công nghệ thông tin, đặc biệt là máy tính và công nghệ mạng. Ngoài các hàng hoá
và dịch vụ ''vật thể '' trong các giao dịch thông thường khác, trong TMĐT còn có cả
hàng hoá đặc thù của mình đó là “hàng hoá số” và “dịch vụ số”. Hàng hoá và dịch
13
- Xem thêm -