Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – ứng dụng trên thị trường...

Tài liệu Mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – ứng dụng trên thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
92
66691
153

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết của khoá luận tốt nghiệp Hơn hai năm trở lại đây ở Việt Nam “chứng khoán” đã trở thành một đề tài nóng bỏng để bàn luận với rất nhiều các chương trình, các bài viết thu hút được số lượng người tham gia nhiều nhất. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành từ tháng 7 năm 2000 nhưng đến năm 2006 nó dường như mới trở thành một cơn sốt nóng hổi. Cùng với sự phát triển của thị trường, hàng loạt các website, các diễn đàn, các chương trình và gameshow truyền hình ra đời cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư và cũng là nơi để các chuyên gia tài chính phân tích thị trường. Kể từ đó, các phương pháp phân tích thị trường được đưa ra khá nhiều, các thuật ngữ như CAPM, hệ số bêta, P/E… đã dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên vấn đề phân tích từng chứng khoán riêng lẻ hoặc nhóm chứng khoán cũng như phân tích thị trường từ các chỉ số, hay ý nghĩa của các thuật ngữ đó chưa được hiểu và quan tâm một cách đúng đắn, đầy đủ. Hai chỉ số được nhắc đến nhiều nhất là hệ số bêta và chỉ số P/E. Nhà đầu tư biết đến hệ số bêta là một chỉ tiêu đánh giá rủi ro của công ty nhưng đó là rủi ro gì và đánh giá như thế nào thì đó là một câu hỏi khó có được lời giải thích chính xác. Bên cạnh đó, một số nhà phân tích còn coi hệ số bêta của công ty như một chỉ tiêu bất biến đo lường rủi ro nhưng dường như quên mất rằng rủi ro của công ty có thể thay đổi khi công ty có một số thay đổi về sở hữu, quản lý, sản phẩm, chiến lược kinh doanh… . Xuất phát từ thực tế trên cùng với những kiến thức thu được sau bốn năm học chuyên ngành Toán Tài chính và được sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn thầy giáo TS. Ngô Văn Thứ, em lựa chọn đề tài: “Mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất – Ứng dụng trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm nội dung cho khoá luận tốt nghiệp của mình. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 2. Mục tiêu nghiên cứu Lựa chọn được kỳ hạn tính lợi suất (theo ngày, theo tuần,…) và thời kỳ ước lượng (bao nhiêu năm) hợp lý để ước lượng tương đối chính xác rủi ro của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp ước lượng rủi ro hệ thống dựa trên mô hình SIM và mô hình lựa chọn kỳ hạn tính lợi suất và thời kỳ ước lượng.  Phương pháp phân tích thống kê. 4. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam – chương này trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương 2: Các mô hình ước lượng rủi ro hệ thống – chương này trình bày hai mô hình ước lượng rủi ro hệ thống CAPM, SIM và vấn đề gặp phải khi áp dụng hai mô hình này: kỳ hạn tính lợi suất và thời kỳ ước lượng, từ đó trình bày mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất. Chương 3: Ứng dụng mô hình lựa chọn kỳ hạn và thời kỳ ước lượng lợi suất trên thị trường chứng khoán Việt Nam – chương này trình bày kết quả áp dụng các mô hình ở trên đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhận xét và kết luận. Em xin chân thành cảm ơn các anh chị nhóm Trading – Phòng Đầu tư và Tư vấn Tài chính, công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập, bước đầu tiếp cận các kiến thức thực tế về thị trường chứng khoán Việt Nam và nghiên cứu lựa chọn đề tài. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn thầy giáo TS.Ngô Văn Thứ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em lựa chọn đề tài, định hướng nghiên cứu, nâng cao kĩ năng và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Mặc dù vậy, do còn có những hạn chế nhất định trong kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên khoá luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể nâng cao kiến thức và kĩ năng của mình. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán 1. Khái niệm và chức năng của thị trường chứng khoán 1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Thông qua diễn biến trên thị trường chứng khoán có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc nhất định. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán. Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về nội dung thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các tài sản tài chính trung và dài hạn NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 như trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Các tài sản tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK. Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng: “Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán các cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành để huy động vốn. Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng bởi thị trường mua bán các tài sản tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu. Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay được hiểu là: “Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán”. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over-The-Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình chu chuyển của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hóa của TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này có giá trị và cũng có giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. 1.2. Chức năng của thị trường chứng khoán 1.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 1.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. 1.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán thành tiền và các vật có giá hay chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. 1.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra các nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 2. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 2.1. Nguyên tắc công khai Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin về TTCK phải thoả mãn các yêu cầu: Chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Do đó, đòi hỏi thông tin cần phải chính xác. Kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Dễ tiếp cận: nghĩa là công khai thông tin TTCK nhưng phải dễ dàng tiếp cận đối với các nhà đầu tư. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm ý rằng một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. 2.2. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 2.3. Nguyên tắc đấu giá Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá được quyết định bởi mối quan hệ cung – cầu trên thị trường. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 2.3.1. Theo hình thức đấu giá Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian (một chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch để thương lượng giá. Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán không trực tiếp gặp nhau mà việc thương lượng giá được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và mạng máy tính. Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua – bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện. 2.3.2. Theo phương thức đấu giá Đấu giá định kỳ: là hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được tiến hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp các đơn đặt hàng mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định. Phương thức đấu giá này rất có hiệu quả trong việc hạn chế biến động giá quá mức phát sinh từ việc phối hợp những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một cách bất thường như trong trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, phương thức này không phản ánh kịp thời những thông tin về thị trường và hạn chế tính cấp thời của các giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của TTCK khi số lượng khách hàng và các giao dịch nhỏ. Đấu giá liên tục: là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp được. Đặc điểm của đấu giá liên tục là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời của thông tin và các nhà đầu NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 tư có thể nhanh chóng phản ứng lại trước những thay đổi trên thị trường. Hình thức đấu giá này thích hợp với những thị trường có khối lượng giao dịch lớn và nhiều đơn đặt hàng. Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về giá (ưu tiên giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân) và về quy mô lệnh (cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn). 3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 3.1. Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của thị trường chứng khoán.  Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương.  Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.  Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ. 3.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người bỏ tiền để mua bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 3.2.1. Các nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, khả năng kiếm được lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. 3.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi. Bên cạnh các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình. 3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 3.3.1. Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 3.3.2. Ngân hàng thương mại Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. 3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 3.4.1. Cơ quan quản lý Nhà nước Đầu tiên, thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định của thị trường chứng khoán, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý – giám sát thị trường chứng khoán đã ra đời. Cơ quan quản lý – giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và Nhà nước. Nhìn chung, cơ quan quản lý này do Chính phủ (Nhà nước) của các nước thành lập, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 3.4.2. Sở giao dịch chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên sở phù hợp với các quy định của luật pháp và uỷ ban chứng khoán. 3.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản thực hiện một số chức năng chính như sau:  Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.  Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán.  Điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên.  Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.  Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. 3.4.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 3.4.5. Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty này cung cấp hệ thống máy tính với các chương trình để thông qua đó có thể thực hiện được các lệnh giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ra đời khi thị trường chứng khoán đã phát triển đến một trình độ nhất định, bắt đầu đi vào tự động hoá các giao dịch. 3.4.6. Các tổ chức tài trợ chứng khoán Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không có loại hình tổ chức này. 3.4.7. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty, vì thế một công ty phát hành có thể mang nhiều hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó. Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng. Ví dụ, theo hệ thống xếp hạng của Moody’s có các hệ số tín nhiệm được ký hiệu là Aaa, Aa1, Baa1 hay B1… ; theo hệ thống xếp hạng của S&P, sẽ có các mức xếp hạng AAA, AA+, AA, AA-, A+, A… . Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. 4. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán Có nhiều tiêu chí để phân loại chứng khoán trên thị trường nhưng phổ biến nhất là phân loại chứng khoán theo tính chất. Theo tính chất, chứng khoán được phân thành các loại như sau: 4.1. Chứng khoán vốn Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn. Khi tham gia mua cổ phiếu, các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. 4.2. Chứng khoán nợ Chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể. 4.3. Chứng khoán phái sinh Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. 4.4. Chứng khoán chuyển đổi Chứng khoán chuyển đổi là loại chứng khoán tuỳ theo những điều kiện cụ thể mà cho phép người nắm giữ có đổi lấy một chứng khoán khác. Thông thường là cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu được chuyển thành cổ phiếu thường. Các nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể sử dụng những chứng khoán chuyển đổi để làm rào chắn rủi ro trước những dao động của thị trường. II. Vài nét về thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Lịch sử hình thành Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu của thập kỉ 90 - thế kỉ XX nhằm xác lập một kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Vào những năm 1995 – 1996, sau gần một thập niên đổi mới, kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, mô hình doanh nghiệp nhà nước bộc lộ nhiều bất cập, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ triền miên cần phải sắp xếp đổi mới. Ở thời điểm này còn nhiều quan điểm không đồng ý tư nhân hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – thành phần chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trước yêu cầu đổi mới do phát triển kinh tế, chiến lược công nghiệp hoá, chủ trương cổ phần hoá đã được đưa ra với văn bản pháp quy đầu tiên là Nghị định 28/CP ngày 07/05/1996 của Chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện chỉ có hơn 10 doanh nghiệp được cổ phần. Để thúc đẩy quá trình này, ngày NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 29/06/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ–CP thay thế Nghị định 28/CP với mục tiêu từ 5 – 10 năm cổ phần hoá phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành nghề không phải kinh tế trọng điểm. Cùng chung với nỗ lực này, ý tưởng hình thành thị trường chứng khoán để tạo ra môi trường thuận lợi giúp cho quá trình cổ phần hoá nhanh hơn. Mặt khác, giai đoạn này nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam rất lớn. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 7 – 7.5% hằng năm. Cùng thời điểm này, hệ thống ngân hàng vừa trải qua cú sốc năm 1989 và bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường nên chưa phát huy được vai trò. Cung tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm trên 10%. Trước yêu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán ra đời giải quyết được hai yêu cầu trên: vừa thúc đẩy cổ phần hoá, vừa tạo một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam. Trước yêu cầu đó, ngày 28/11/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 75/CP về thành lập Uỷ ban chứng khoán. Ngày 04/07/1998 Chính phủ ban hành Nghị định 48/1998/NĐ–CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán… . Ngày 20/07/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đánh dấu sự phát triển mới của thị trường vốn. 2. Thị trường chứng khoán Việt Nam Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được đánh dấu bằng hai mốc quan trọng, đó là sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/07/2000 và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ngày 08/03/2005. Tuy mới hình thành và đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 việc huy động vốn và luân chuyển vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Việc chính thức đi vào thực thi Luật chứng khoán từ ngày 01/01/2007 đã lành mạnh hoá và minh bạch hơn cho môi trường đầu tư tại thị trường chứng khoán. Nếu tính đến cuối năm 2006 toàn thị trường chỉ có 22 công ty chứng khoán chính thức đi vào hoạt động thì tính đến 31/12/2007 đã có tổng cộng 80 công ty chứng khoán được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động (59 công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và 10 công ty trách nhiệm hữu hạn trực thuộc các ngân hàng thương mại cổ phần và quốc doanh). Tính đến thời điểm 21/12/2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự góp mặt của 253 chứng khoán niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HASTC. Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường cùng với sự ra đời của hàng loạt công ty chứng khoán mang đến những dịch vụ tiện ích đã thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của các nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán chỉ đạt 89.814 tài khoản, nhưng đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán (tăng 240.816 tài khoản, tương đương 279% so với cuối năm 2006). Bên cạnh sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới như: JP Morgan, Merrill Lynch, Citigroup… . Tính đến cuối năm 2007, số lượng nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại các công ty chứng khoán đã lên đến con số 7.900 tài khoản (cá nhân là 7.400 và tổ chức là 500). Năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến cuộc “chạy đua” niêm yết của các công ty cổ phần tận dụng cơ hội ưu đãi về thuế thu NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 nhập theo Thông tư số 100/2004/TT–BTC ngày 20/10/2004 và Thông tư số 72/2006/TT–BTC. Còn năm 2007 làn sóng lên sàn của các công ty cổ phần đã thay đổi về chất với mục tiêu chính: lên sàn để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Mặc dù tốc độ gia tăng số lượng cổ phiếu niêm yết tại thị trường tập trung trong năm 2007 không cao bằng năm 2006 nhưng các công ty niêm yết mới trên sàn năm 2007 phần lớn là những tập đoàn và doanh nghiệp có mức vốn điều lệ lớn và hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, còn rất nhiều công ty đã nộp hồ sơ niêm yết và đang chờ chấp thuận của Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Quy mô thị trường đang tăng lên một cách rõ rệt. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2007, tổng khối lượng chứng khoán niêm yết (không tính trái phiếu) trên thị trường tập trung đạt 5.521.092.015. 2.1. Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo quyết định 127/1998/QĐ–TTg ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Giữa năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã được chuyển thành Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đồng thời ngày 30/07/2007 Sở giao dịch thực hiện giao dịch liên tục và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng tình hình thị trường đang phát triển. Nếu như ban đầu chỉ có 2 cổ phiếu (REE và SAM) và một vài trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch thì tính đến thời điểm 31/12/2007, sở giao dịch đã có 141 chứng khoán niêm yết. Tính đến thời điểm 21/12/2007, tổng khối lượng niêm yết đạt 4.197.693.526 chứng khoán, trong đó có NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368 4.026.283.996 cổ phiếu của 138 công ty cổ phần và 171.409.530 chứng chỉ quỹ của 3 quỹ đầu tư chứng khoán. Trong năm 2007, tính đến ngày 28/12/2007, sở giao dịch chứng khoán đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. 2.2. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) Tháng 6/2004, Bộ Tài chính ra Thông báo số 136/TB–BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó định hướng xây dựng Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ. Ngày 08/03/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chức năng của trung tâm là:  Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp.  Tổ chức đấu thầu trái phiếu.  Tổ chức giao dịch theo cơ chế đăng kí giao dịch. Năm 2007, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thay đổi thời gian giao dịch tạo điều kiện nhà đầu tư có thêm nhiều thời gian và cơ hội để đầu tư. Với sự đổi mới này, sự “tắc nghẽn” của thị trường trong những phiên giao dịch “nóng” đã được giảm tải. Năm 2007, tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 25 cổ phiếu đăng ký giao dịch mới, nâng tổng số từ 87 cổ phiếu năm 2006 lên 112 cổ NguyÔn ThÞ Thu Ph-¬ng To¸n Tµi chÝnh 46
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan