ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC TÚ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TRƢỜNG HỢP
TỰ NGUYỆN HÒA GIẢI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC TÚ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TRƢỜNG HỢP
TỰ NGUYỆN HÒA GIẢI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Thị Trang Vân
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Ngọc Tú
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
TỪ VIẾT TẮT
ĐƢỢC HIỂU ĐẦY ĐỦ LÀ
1.
BLHS
Bộ luật hình sự
2.
BLTTHS
3.
TNHS
Trách nhiệm hình sự
4.
CTTP
Cấu thành tội phạm
Bộ luật Tố tụng hình sự
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu. .............................................................. 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. ........................................... 5
6. Kết cấu của luận văn. .................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG TRƢỜNG HỢP TỰ
NGUYỆN HÒA GIẢI TRONG LUẬT HÌNH SỰ ....................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và một số nội dung cơ bản liên quan đến vấn đề
miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải. ..................... 7
1.1.1. Bản chất và khái niệm miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự
nguyện hòa giải. ................................................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải. . 20
1.1.3. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải.... 21
1.2. Ý nghĩa của quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự
nguyện hòa giải ............................................................................................... 27
1.2.1. Ý nghĩa chung ....................................................................................... 27
1.2.2. Ý nghĩa riêng ......................................................................................... 28
1.3. Quy định về miễn TNHS trong trường hợp hòa giải tại một số quốc gia
trên thế giới ..................................................................................................... 30
1.3.1. Tại Liên bang Nga................................................................................. 31
1.3.2. Tại Kazakhstan ...................................................................................... 32
1.3.3. Tại Đức.................................................................................................. 34
1.3.4. Tại Australia .......................................................................................... 36
1.3.5. Tại Hoa Kỳ ............................................................................................ 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 40
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2015 VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG TRƢỜNG HỢP TỰ
NGUYỆN HÒA GIẢI ................................................................................... 41
2.1. Chủ thể tham gia hòa giải ........................................................................ 45
2.1.1. Người thực hiện tội phạm ..................................................................... 45
2.1.2. Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại .............. 47
2.1.3. Trung gian hòa giải ............................................................................... 54
2.2. Căn cứ và điều kiện miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự
nguyện hòa giải ............................................................................................... 55
2.2.1. Điều kiện của quy định miễn trách nhiệm hình sự khi các bên tự
nguyện hòa giải ............................................................................................... 55
2.2.2. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải .....57
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 74
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ TRONG TƢỜNG HỢP TỰ NGUYỆN HÒA GIẢI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................................................. 75
3.1. Thực trạng áp dụng quy định đối với một số tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự 2015. ............................................................................. 75
3.1.1. Những thành tựu đã đạt được................................................................ 76
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân............................ 81
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định liên quan đến
miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải. ......................... 89
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN...................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 107
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Miễn trách nhiệm hình sự là chế định quan trọng được nhiều quốc gia
trên thế giới ghi nhận, thuộc bộ phận của hệ thống các biện pháp tha miễn. Sự
tồn tại của chế định này thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối
với người phạm tội, bằng việc không buộc họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi do đã thực hiện tội phạm, mà vẫn đảm bảo được việc cải tạo, giáo dục
người phạm tội.
Ngày nay, những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại trực tiếp đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hay tài sản của con người ngày
càng gia tăng.
Bên cạnh những hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm cao, tồn tại
những hành vi tuy gây nguy hiểm cho xã hội nhưng ở mức độ ít nghiêm
trọng, lỗi vô ý, không có động cơ, mục đích…Đơn cử, thực tế hiện nay, trong
các vụ án liên quan đến vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ có
rất nhiều trường hợp do tài xế lái xe ngủ gật, tầm nhìn hẹp, sử dụng điện
thoại, phóng nhanh vượt ẩu,… gây ra tai nạn giao thông làm tổn hại đến sức
khỏe của người khác…Hay điển hình như những vụ án trộm cắp tài sản,
không ít những trường hợp, chủ thể nhìn thấy khối tài sản lớn, có giá trị đã
nổi lòng tham thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên ngay sau
đó chủ thể lại ra tự thú, trả lại tài sản đã chiếm đoạt….
Chiếm một phần không nhỏ trong những vụ án như thế này, sau khi gây
hậu quả, chủ thể đã tự nhận thấy rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật
và đã có những động thái nhất định cho thấy bản thân đã tự nguyện sửa chữa,
chủ động khắc phục hậu quả, chủ động bồi thường, được bên bị thiệt hại phối
hợp trong việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1
Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề miễn trách nhiệm hình sự trong trường
hợp tự nguyện hòa giải và việc áp dụng đối với tội vi phạm quy định trong Bộ
luật hình sự, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn, nhất là
trong bối cảnh, yêu cầu về cải cách tư pháp, đề cao hiệu quả đường lối xử lý
và cải tạo người thực hiện hành vi phạm tội. Đó là, làm sáng tỏ về mặt lý luận
quy định mới trong Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến vấn đề “miễn
trách nhiệm hình sự trong trường hợp các bên tự nguyện hòa giải”. Đồng
thời, việc nghiên cứu lý luận, cũng sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc
đóng góp triển khai, áp dụng quy định về miễn TNHS khi có sự thỏa thuận
giữa các bên của cơ quan có thẩm quyền trên thực tiễn được hiệu quả.
Quy định về thỏa thuận miễn trách nhiệm hình sự thể hiện sự ghi nhận
một cách chính thức của pháp luật về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, làm
cơ sở, tăng cường củng cố niềm tin cho các cơ quan, người có thẩm quyền
thực khi thực thi, áp dụng pháp luật. Quan trọng hơn, nó giúp chủ thể gây ra
thiệt hại có thể tiếp tục sống và làm việc trong môi trường xã hội, không buộc
phải chịu trách nhiệm hình sự, mà vẫn đảm bảo được chức năng giáo dục,
phòng ngừa của Luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Miễn trách nhiệm hình trong trường hợp tự nguyện hòa giải, là một vấn
đề mới, lần đầu tiên được quy định tại BLHS năm 2015, và tiếp theo là lần
sửa đổi bổ sung vào năm 2017 (từ đây để cho ngắn gọn sẽ thống nhất chỉ gọi
là “BLHS năm 2015”).
Các công trình nghiên cứu học thuật và thực tiễn về vấn đề miễn trách
nhiệm hình sự tại Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Hiện tại, ở nước ta,
chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề miễn trách nhiệm hình
sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải. Theo đó, quy định này đa phần chỉ
được nghiên cứu với tư cách là một căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, mang
2
những nét nhân đạo, tiến bộ, có lợi cho người phạm tội, mà chưa mang tính
chuyên sâu cao. Mặc dù, là một quy định mới, lần đầu tiên được quy định
trong BLHS năm 2015, nhưng vấn đề về hòa giải miễn TNHS là một chế định
đã tồn tại trên thế giới trong một khoảng thời gian dài, rất nhiều công trình đã
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Một số bài viết trong và ngoài nước mà người viết đã sưu tầm được là
cơ sở nghiên cứu trong luận văn này, có thể kể đến:
- Ths. Đặng Ngọc Huy, “Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Dak Lak”, Luận văn thạc sĩ
luật học (2015);
- Mark S. Umbreit (2000), “The Impact of Victim – Offender
Meadiation: Two Decades of research”, The handbook of Victim Offender
Mediation, Jossey – Bass Publisher;
- Mark S. Umbreit & Jean Greenwood (2000), “Guidelines for VictimSensitive Victim-Offender Mediation: Restorative Justice Through Dialogue”,
Prepared by The center of Restorative Justice & Peacemaking.
Bên cạnh đó còn có những bài báo như: “Được miễn trách nhiệm hình
sự nhờ luật mới”, “Tông xe làm chết người được thoát tù nhờ luật mới”, “Bốn
người thoát tù nhờ luật mới”…. đề cập tới các sự kiện diễn ra trên thực tiễn,
và đều tán thành một cách tích cực sự xuất hiện quy định về căn cứ mới của
miễn trách nhiệm hình sự.
Các tài liệu tham khảo, bài viết và các bài báo trên, được coi là tiền đề
và sự nỗ lực cho sự mở đầu về nghiên cứu vấn đề thỏa thuận miễn TNHS
trong luật hình sự ở nước ta. Luận văn này sau khi được hoàn thiện, hi vọng
sẽ đóng vai trò là chất nền cho những công trình nghiên cứu trong tương lai ở
mức cao hơn, chuyên sâu hơn.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận như:
- Một số vấn đề lý luận về vấn đề miễn TNHS trong trường hợp tự
nguyện hòa giải như: Khái niệm, đặc điểm, căn cứ, ý nghĩa của quy định miễn
TNHS trong trường hợp tự nguyện hòa giải;
- Quy định của một số quốc gia trên thế giới điều chỉnh vấn đề miễn
TNHS trong trường hợp tự nguyện hòa giải;
- Quy định của các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1985
đến này về vấn đề miễn TNHS trong trường hợp tự nguyện hòa giải;
- Đánh giá thực trạng áp dụng quy định miễn TNHS trong trường hợp
tự nguyện hòa giải làm nền tảng thực tiễn cho việc đề xuất một số giải pháp từ
việc nghiên cứu, đơn cử hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật…;
Việc tiếp cận, và giải quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự trong
trường hợp tự nguyện hòa giải, đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu luật thực
định, mối quan hệ biện chứng giữa các khái niệm, đa ngành, đa lĩnh vực.
Vì vậy, việc nghiên cứu trong đề tài này, dựa trên nền tảng là các quy
định của Bộ luật hình sự thực định, khoa học luật hình sự, cùng với sự kết hợp
nghiên cứu các ngành luật có liên quan như luật Tố tụng hình sự, Dân sự và
luật Hành chính, luật Giao thông đường bộ…. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
không chỉ dừng lại ở phạm vi pháp luật trong nước quy định, mà còn đẩy
mạnh việc so sánh, học hỏi sự tiến bộ từ sự quy định của pháp luật quốc tế về
vấn đề này.
Tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa liên quan đến vấn đến
miễn TNHS trong trường hợp tự nguyện hòa giải, cách thức vận dụng, chủ thể
áp dụng, sự ghi nhận trong luật thực định, thực trạng và những kiến nghị, đề
xuất tăng cường hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật, giải quyết những
vướng mắc trong thực tiễn.
4
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đó là:
- Phân tích, làm sáng tỏ những yếu tố cấu thành về mặt lý luận và bản
chất của vấn đề miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa
giải; Đồng thời nghiên cứu, tham khảo quy định của pháp luật một số nước về
vấn đề này.
- Phân tích quy định của hệ thống văn bản pháp luật hình sự Việt Nam
quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải.
Phân tích, đánh giá các căn cứ và điều kiện vận dụng quy phạm pháp luật,
cũng như thẩm quyền áp dụng trong trường hợp cụ thể này.
- Tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến một số tội phạm
có thể vận dụng phương thức hòa giải miễn trách nhiệm hình sự.
- Đưa ra những đề xuất và kiến nghị tăng cường hiệu quả trong việc áp
dụng pháp luật, giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn.
Với nhiệm vụ như vậy, mục đích của luận văn đó là làm sáng tỏ vấn đề
khoa học và thực tiễn, hướng tới áp dụng hiệu quả quy định về thỏa thuận
miễn TNHS vào tội phạm cụ thể, góp phần thực thi chức năng, nhiệm vụ của
luật hình sự. Bên cạnh đó, luận văn cũng đóng góp nền tảng kiến thức cho
hoạt động thực tiễn của cơ quan, người tiến hành tố tụng, và công dân. Đảm
bảo việc TNHS phải tương ứng với mức độ và tính chất của hành vi phạm tội,
góp phần thực hiện theo đúng tinh thần nghị quyết 49/2005 của Bộ Chính Trị:
“...đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội…”.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
5
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử,
nghiên cứu thực tiễn…
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề miễn trách
nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải trong luật hình sự.
Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 về miễn trách
nhiệm hình sự trong trường hợp tự nguyện hòa giải
Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng và những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự
nguyện hòa giải trong giai đoạn hiện nay.
6
CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TRƢỜNG HỢP TỰ NGUYỆN
HÒA GIẢI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và một số nội dung cơ bản liên quan đến vấn
đề miễn trách nhiệm hình sự đối với trƣờng hợp tự nguyện hòa giải.
1.1.1. Bản chất và khái niệm miễn trách nhiệm hình sự đối với trường
hợp tự nguyện hòa giải.
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, được thể
hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng
chế hình sự khác nhau của Nhà nước do Luật hình sự quy định. Tuy nhiên,
trên thực tế không phải tất cả các tội phạm và các trường hợp phạm tội đều
giống nhau. Do đó, để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu
quả cao, cùng với việc phân loại tội phạm, Luật hình sự Việt Nam cũng đồng
thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để
có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính xác, công bằng và đúng pháp
luật. Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người phạm tội còn
thể hiện ở chỗ, không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả người
phạm tội đều bị truy cứu TNHS. Đó là trường hợp khi có đầy đủ những điều
kiện nhất định, thì một người đã phạm tội họ có thể không phải chịu TNHS,
có thể được miễn TNHS [1, tr.103].
Miễn TNHS thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với
người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên,
khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục,
cải tạo nhanh chóng, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã
hội. Do đó, chế định miễn TNHS thể hiện phương châm đúng đắn của đường
lối xử lý về hình sự, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế
7
hình sự nghiêm khắc của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để
cải tạo, giáo dục người phạm tội, qua đó hạn chế áp dụng biện pháp mang tính
trấn áp về mặt hình sự.
Là một căn cứ thuộc quy định về miễn TNHS, do đó, trước khi phân
tích làm rõ nội hàm bản chất của quy định về miễn TNHS trong trường hợp tự
nguyện hòa giải, tác giả sẽ đề cập lại bản chất pháp lý và nội dung của quy
định miễn TNHS, cụ thể như sau:
Thứ nhất, bản chất pháp lý của miễn TNHS là việc không buộc một
người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm
tội, khi người đó đáp ứng được các căn cứ theo quy định của pháp luật. Theo
đó, các cơ quan có thẩm quyền tương ứng với giai đoạn tố tụng có thể căn cứ
vào các yếu tố như sự chuyển biến tình hình, hoàn cảnh, chủ thể thực hiện tội
phạm…. qua đó xem xét, đánh giá rằng việc buộc người thực hiện hành vi
phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp lý là không cần thiết, mà vẫn đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đảm bảo được chức
năng giáo dục người phạm tội.
Thứ hai, miễn TNHS là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất
nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự, thể hiện sự khoan hồng của Luật
hình sự đối với người phạm tội. Mức độ, phạm vi của sự khoan hồng của Luật
hình sự đối với người phạm tội được quyết định bởi điều kiện xã hội và bị
ràng buộc bởi các yêu cầu khác của Luật hình sự mà trước hết là công bằng và
công lý xã hội [2, tr.9].
Thứ ba, miễn TNHS phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người
phạm tội, thể hiện nguyên tắc cơ bản của luật hình sự “nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng”,“trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”. Sự phân
hóa trong luật hình sự được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau, trong
đó có miễn TNHS [3, tr.274 – 275]. Do đó, về cơ bản người thực hiện hành vi
8
phạm tội lẽ ra phải chịu TNHS, tuy nhiên do người phạm tội thỏa mãn điều
kiện nhất định mà pháp luật quy định, nên việc truy cứu TNHS và buộc họ
phải chịu TNHS trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó là không cần thiết, và vì
thế miễn TNHS vẫn đảm bảo tác dụng đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, cũng như cải tạo giáo dục họ tốt hơn.
Thứ tư, giữa miễn TNHS và trách nhiệm hình sự có mối liên hệ chặt
chẽ và thống nhất. Theo đó, miễn TNHS, là chế định thể hiện tính nhân đạo
sâu sắc với nội dung thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan
hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo người phạm tội”, còn TNHS là
chế định thể hiện sự lên án, nghiêm trị của Nhà nước, thông qua việc buộc
người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chấp hành hình phạt và mang án
tích. Tuy nhiên, chế định miễn TNHS và chế định TNHS đều hướng đến một
nhiệm vụ chung, xuyên suốt đó là nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm,
và được pháp luật hình sự quy định rõ ràng, cụ thể.
Thứ năm, miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với người mà trong hành vi
của họ đã thỏa mãn cấu thành của tội phạm cụ thể được pháp luật hình sự quy
định, đồng thời phải đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện trong từng
trường hợp mà pháp luật hình sự hiện hành quy định, cũng như tùy thuộc vào từng
trường hợp miễn TNHS đó là tùy nghi hay bắt buộc. Bởi lẽ, ngay cả trường hợp
khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện quy định trong điều luật, nhưng
nếu trường hợp đó là tùy nghi thì việc có áp dụng hay không áp dụng miễn TNHS
đều do các cơ quan có thẩm quyền quyết định [4, tr.55].
Thứ sáu, miễn TNHS do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
phải được thể hiện bằng văn bản.
Thứ bảy, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể,
miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cụ
thể, đó là cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án, và phải đáp ứng đầy
đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do pháp luật quy định.
9
Thứ tám, người được miễn TNHS đương nhiên không phải chịu các
hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của hành vi phạm tội do mình thực hiện. Cụ
thể, người phạm tội không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt hoặc
biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị
coi là có tội. Mặc dù vậy, người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu trách
nhiệm pháp lý của các ngành luật phi hình sự khác, đơn cử: Các biện pháp
ngăn chặn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; Buộc phải phục hồi lại
tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại…. theo quy định của pháp luật
dân sự; phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật
hành chính;…[5, tr.7].
Theo PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, để đưa ra một khái niệm đầy đủ và
chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về ngôn ngữ pháp lý, đồng
thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước,
khái niệm miễn TNHS dưới góc độ khoa học Luật hình sự phải thể hiện
được những nội dung cơ bản sau: a) Bản chất pháp lý; b) Điều kiện áp
dụng; c) Đối tượng bị áp dụng; d) Hậu quả pháp lý hình sự; đ) Chủ thể có
thẩm quyền áp dụng [6, tr.111].
Từ đó, căn cứ trên cơ sở quan điểm của các học giả trong nước và thế
giới, cùng với việc phân tích các đặc điểm của miễn TNHS, theo quan điểm
cá nhân người viết thì “Miễn trách nhiệm hình sự là việc cơ quan có thẩm
quyền tùy thuộc vào giai đoạn tiến hành tố tụng tương ứng không buộc một
người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do tội phạm mà họ thực hiện
khi đáp ứng những căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự quy định, mà vẫn
đảm bảo được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như
công tác cải tạo giáo dục người phạm tội”.
Từ những phân tích trên, liên quan tới vấn đề miễn TNHS trong trường
hợp tự nguyện hòa giải, như chúng ta được biết hòa giải là một thủ tục quen
thuộc trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự. Nội dung của việc hòa
10
giải nhằm giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Thủ tục hòa giải trong tố tụng dân sự xuất phát từ sự tôn
trọng của pháp luật dành cho các bên trong việc tự do, tự nguyện thỏa thuận,
định đoạt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình, miễn không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, xuất phát từ sự tôn trọng quyền tự định
đoạt của chủ thể đối với các quyền dân sự trong vụ án hình sự, cụ thể là việc,
người phạm tội đã nhận ra hành vi của mình là trái pháp luật, đã tự nguyện
thỏa thuận với nạn nhân về việc sửa chữa, khắc phục, bồi thường những thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra. Nạn nhân cũng đồng ý với việc thừa nhận
hành vi sai trái và việc bồi thường của người phạm tội, qua đó mà quyền và
lợi ích của nạn nhân được khôi phục một cách nhanh chóng nhất, mục đích
giáo dục, cải tạo người phạm tội cũng như yêu cầu phòng, chống đấu tranh
chống tội phạm cũng được đảm bảo. Vì vậy, hòa giải trong vụ án hình sự đã
được nhiều quốc gia ghi nhận, trong một thời gian dài trước đây, thậm chí, tại
một số nơi đã trở thành một nét đặc trưng trong việc giải quyết các vụ án hình
sự [7], nhằm khuyến khích người phạm tội có các hành vi tích cực sau khi
thực hiện tội phạm để có thể hưởng sự nhân đạo của pháp luật. Quy định này
hiện rất phổ biến ở các quốc gia như: Mỹ, Canada, Úc…
Mặc dù là một quy định tiến bộ, thể hiện nguyên tắc nhân đạo sâu sắc,
tuy nhiên tại một số quốc gia chế định về hòa giải trong vụ án hình sự vẫn còn
mang tính mới. Vì vậy, nghiên cứu về mặt khoa học pháp lý, sẽ tạo tiền đề
cho việc nhận thức đúng bản chất và nội dung của chế định này, từ đó có thể
giúp các quốc gia vận dụng vào hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng
pháp luật trong thực tiễn.
Là một trong các trường hợp của thuộc chế định miễn TNHS, do đó,
quy định về miễn TNHS khi các bên tự nguyện hòa giải mang bản chất
11
tương tự như chế định bao hàm nó, và đều là việc không buộc chủ thể phải
gánh chiu hậu quả pháp lý bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm tội, khi
chủ thể thỏa mãn những căn cứ nhất định do luật quy định. Xét trong
trường hợp này, người phạm tội có thể được xem xét miễn TNHS khi hòa
giải với người bị hại. Vậy có gì đặc biệt tại phiên hòa giải trong vụ án hình
sự, mà qua đó người phạm tội có thể được miễn TNHS? Trước hết ta đi tìm
hiểu từ khái niệm “Hòa giải”.
Theo từ điển Tiếng Việt, hòa giải là hành vi thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa [8]. Một định nghĩa
khác, có lẽ đầy đủ hơn cả khi lột tả được bản chất của hòa giải đó là “việc giải
quyết tranh chấp giữa hai bên thông qua sự can thiệp của bên thứ ba, hoạt
động một cách trung lập và khuyến khích các bên xóa bớt sự khác biệt” [9,
tr.XVII].
Từ những quan niệm trên, có thể rút ra một số đặc trưng chung của hòa
giải như sau:
Thứ nhất, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp, có thể
được triển khai sau khi giữa các chủ thể có những mâu thuẫn phát sinh mà
không thể tự thương lượng giải quyết được. Bởi vì lý do này, nên hòa giải
cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố
gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng [10].
Hai là, việc hòa giải được tiến hành thông qua chủ thể trung tâm là
bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau. Điều này
làm cho hòa giải có sự khác biệt với thương lượng. Người này phải có vị trí
độc lập với các bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp.
Bên thứ ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và
không có quyền đưa ra phán quyết.
Ba là, các bên tự do thỏa thuận, dàn xếp, thương lượng về việc giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên.
12
Thứ tư, thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hòa giải không
có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự
nguyện của các bên.
Như vậy, có thể hiểu hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp với
sự giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập, trong đó các bên tự do thỏa thuận,
thương lượng về việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quan
hệ, phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội.
Hòa giải luôn được coi là một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại quan trọng và có hiệu quả. Theo đó, những
lợi ích của hòa giải được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Sự linh hoạt về thủ tục;
Tính thân mật;
Đặt con người vào vị trí trung tâm;
Duy trì mối quan hệ hòa hảo;
Tạo sự kín đáo và bí mật [11].
Ở nhiều quốc gia, về mặt lập pháp, hòa giải ngày càng được quan tâm
thể chế hóa trên cả bình diện quốc gia, khu vực và quốc tế. Đây cũng là điều
giải thích cho sự ra đời của các trung tâm hòa giải, chẳng hạn như Trung tâm
hòa giải Bắc Kinh để giải quyết các tranh chấp thương mại và hàng hải quốc
tế... và các quy tắc hòa giải như Quy tắc hòa giải mẫu của UNCITRAL 2002,
quy trình hòa giải không bắt buộc của Phòng Thương mại quốc tế tại London,
Ủy ban quốc gia về thống nhất pháp luật Hoa Kỳ ban hành đạo luật Hòa giải
thống nhất năm 2001 [12].
Xuất phát từ những ưu điểm của phương pháp hòa giải, giờ đây hòa
giải không chỉ đơn thuần là một phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực dân sự, thương mại… mà nó đang được vận dụng và áp dụng vào các lĩnh
vực pháp luật khác. Trong đó, đặc trưng nhất có lẽ là lĩnh vực hình sự.
13
Theo đó, hòa giải trong vụ án hình sự (“Victim – Offender Mediation”)
được diễn ra giữa người phạm tội và nạn nhân của tội phạm (“Lƣu ý: Trong
Luận văn này chỉ đề cập nạn nhân dưới tư cách là thể nhân, là bị hại trong vụ
án hình sự”), thông qua một bên thứ ba trung lập về cả địa vị và lợi ích, đóng
vai trò trung gian, hỗ trợ các bên hòa giải. Việc hòa giải trong vụ án hình sự
mang lại kết quả có lợi cho cả nạn nhân và người phạm tội, trong đó, đối với
nạn nhân có thể là việc biết được nguyên nhân vì sao mà bản thân lại là đối
tượng của tội phạm, được chữa lành và khôi phục những quyền, lợi ích hợp
pháp đã bị tội phạm xâm phạm … đối với tội phạm thì việc tham gia phiên
hòa giải là cơ hội để họ có thể thừa nhận và gửi lời xin lỗi trực tiếp tới nạn
nhân của tội phạm, cùng với nạn nhân của tội phạm xây dựng một phương án
bồi thường thỏa đáng. Căn cứ trên kết quả và sự thực hiện của thỏa thuận của
người phạm tội, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét về mức độ truy cứu TNHS
đối với người phạm tội, trong đó miễn TNHS là một kết quả điển hình.
Hòa giải trong vụ án hình sự tại các quốc gia tiên phong trong việc ghi
nhận quy định này, được biết đến dưới dạng một chương trình hòa giải giữa
nạn nhân và người phạm tội. Ý tưởng đưa nạn nhân của tội phạm và người
phạm tội ngồi lại với nhau dựa trên những giá trị lâu đời về sự công bằng,
trách nhiệm và sự phục hồi. Chương trình hòa giải đầu tiên giữa nạn nhân và
người phạm tội bắt nguồn từ Kitchener, Ontario, Canada vào năm 1976. Sau
đó, chương trình hòa giải tiếp theo vào năm 1978 tại Elkhart, Indiana, Hoa
Kỳ. Vào năm 1990, có khoảng 150 chương trình hòa giải tương tự và đến năm
2000, đã có hơn 1200 chương trình hòa giải giữa nạn nhân và người phạm tội
trên toàn thế giới [13].
Cụ thể, theo Hiệp hội Victim – Offender Mediation (VOMA), hiểu một
cách đơn giản thì hòa giải giữa nạn nhân và người phạm tội, là một buổi gặp
mặt trực tiếp, dưới sự hiện diện của hòa giải viên [14]. Trên thực tiễn, nó còn
có các tên gọi khác nữa là “Đối thoại giữa nạn nhân và người phạm tội -
14
- Xem thêm -