Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Microsoft word bài tiểu luận ảnh hưởng của truyền thống dân tộc đến sự ...

Tài liệu Microsoft word bài tiểu luận ảnh hưởng của truyền thống dân tộc đến sự hình thành tư tưởng hồ chí minh

.PDF
26
46
132

Mô tả:

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG I. VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 1.2. Ảnh hưởng của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 1.3. Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 1.4. Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh II. HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI 3 3 5 8 10 12 2.1. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới 2.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 12 15 23 24 MỞ ĐẦU Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là một bộ phận hợp thành nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Nghiên cứu và nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền đề vững chắc để nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của Người. Theo đó, cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ những mối quan hệ có tính quy luật, nguyên tắc về sự ra đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam với tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng để thấy sự tác động của giá trị truyền thống dân tộc ta đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò, công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, trong nước đã và đang đặt ra một tất yếu khách quan, mang tính cấp thiết, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam và vận dụng trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức hiện nay, để khắc phục những hạn chế và góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và phản bác lại những tư tưởng, luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng ta. 2 NỘI DUNG I. VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. 1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, ra đời từ rất sớm cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang từ thời thượng cổ và trở thành dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, do chính con người Việt Nam qua các thế hệ tạo dựng và trở thành sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn ngàn thử thách trong chống giặc ngoại xâm và thiên tai, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Do là một nước nhỏ, lại nằm ở vị trí địa lý có giá trị chiến lược về kinh tế, quân sự, ngoại giao và giàu có về tài nguyên, khoán sản, “rừng vàng, biển bạc”, nên từ thời cổ đại cho đến hiện đại nước ta luôn bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lược và chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta. Trải qua rất nhiều cuộc “đụng đầu lịch sử” với các thế lực lớn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần trong gần 12 thế kỷ đã hung đút và bồi đắp nên chủ nghĩa yêu nước cho dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đất nước ta tuy phì nhiêu, trù phú nhưng cũng lắm thiên tai, hạn hán, bão lụt. Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê để chống lũ lụt, đào kênh mương, làm thủy lợi để chống hạn hán...Tất cả những thành tựu đó trong quá trình xây dựng quê hương đều thắm đượm mồ hôi, nước mắt và xương máu của bao thế hệ, vì thế mà người Việt Nam rất nặng tình, nặng nghĩa với quê hương, xứ sở của mình. Cho thấy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam không những được hình thành trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà còn là sản phẩm của hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai để xây dựng và phát triển đất nước. Hình thành từ rất sớm và được bồi đắp liên tục trong thử thách của mấy nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. Bởi nó đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm thức của con người Việt Nam. Yêu nước là tình cảm lớn nhất, bao trùm nhất, trở thành lẽ sống, thành tư duy chính trị và hành động ứng xử tự nhiên của mỗi người Việt Nam. Với người Việt Nam, không có gì quan trọng hơn là Tổ quốc được độc lập, thống nhất, không một ai và lý thuyết nào có thể kéo người Việt Nam ra khỏi trách nhiệm đối với đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không tách rời “nước” với “dân”, “nước” là nước của “dân” nên yêu nước luôn gắn liền với thương dân. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam được biểu hiện rõ nét nhất qua lịch sử hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện qua bản sắc văn hóa của dân tộc luôn được bảo tồn, phát triển từ văn hóa dân gian cho đến văn hóa bác học, từ những nhân vật truyền thuyết như Thánh Gióng đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch 3 sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đều phản ánh hùng hồn chân lý đó. Chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện ở mỗi con người Việt Nam yêu nước, luôn mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, sự kế thừa và phát huy nó trong điều kiện đất nước có chiến tranh và trong cả thời bình. Theo dòng chảy lịch sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được lưu truyền và phát triển qua các thế hệ, là “dòng sữa” nuôi dưỡng tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của con người Việt Nam, là động lực tinh thần chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi thời đại. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam vì thế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tình yêu quê hương, đất nước đã nảy nở trong tâm hồn Hồ Chí Minh từ thuở nhỏ qua ảnh hưởng của gia đình, quê hương và đất nước. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Nguyễn Sinh Cung sớm thấu hiểu sự cao đẹp của tình yêu quê hương, đất nước qua lời dạy của người cha, lời ru của mẹ và từ tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân của thân phụ, thân mẫu. Đặc biệt, Người sinh ra, sống tuổi thơ tại quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, một vùng quê có “một bề dày lịch sử” yêu nước, chống giặc ngoại xâm và là cái nôi sản sinh ra các anh hùng, hào kiệt cho đất nước. Cũng tại nơi đây, Bác trực tiếp nếm trải tình cảnh người dân của một nước nô lệ; đau xót trước cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương và tận mắt chứng kiến thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại triều đình, những thất bại của các phong trào cách mạng. Với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở về sự bế tắc đường lối cứu nước của dân tộc ta và quyết chí ra đi tìm một con đường cứu nước mới cho dân tộc. Lúc ấy, Người khẳng định rõ mục đích của chuyến đi: “Tôi muốn ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[49, tr.3]. Cho thấy, tình cảm yêu nước trong Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa bằng ý chí và hành động tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước không những là động lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mà còn giúp Người xác định hướng đi và cách đi đúng, đó là đi về phương Tây và đi bằng con đường lao động. Người hiểu rõ, chỉ có đi sang phương Tây, mà trước hết là sang Pháp mới hiểu rõ kẻ thù của dân tộc mình và chỉ có đi bằng con đường lao động thì mới đi được xa và được lâu. Thực tế, nếu không có tấm lòng yêu nước nồng nàn và một ý chí kiên cường, bất khuất thì làm sao Nguyễn Tất Thành dám dấn thân “vào hang cọp mới bắt được cọp” như thế được. Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Tất Thành đến được với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm thấy lời giải đáp đầy thuyết phục về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính tình yêu nước vô bờ bến đó đã không kìm nén được cảm xúc của Người khi bắt gặp Luận cương của Lênin. Sau này, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng kín mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con 4 đường giải phóng chúng ta”[39, tr. 127]. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi theo Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[39, tr.128]. Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước kết tinh trong Hồ Chí Minh là cầu nối giữa Người với chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định đến bản chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Các giá trị truyền thống dân tộc còn là động lực chủ yếu chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Bác lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chính là tự đặt cho mình nhằm nhắc nhở Người và đồng bào luôn luôn yêu nước, suốt đời phấn đấu vì nước, vì dân. Thật vậy, suốt cuộc đời Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặt, ai cũng được học hành. Đến khi sắp về cỏi vĩnh hằng, trong bản Di chúc lịch sử, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[26, 512]. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một truyền thống quý báu, là động lực tinh thần to lớn góp phần vào sự trường tồn của dân tộc và sự phồn vinh của đất nước. Đồng thời, các giá trị ấy, đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Với cách nhìn biện chứng cho thấy, nếu như không có chủ nghĩa yêu nước là động lực để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ không đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó không thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước như con thuyền lớn đã đưa Bác đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. 1.2. Ảnh hưởng của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái là một truyền thống quý báu được hình thành, phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của dân tộc Việt Nam; được tạo dựng, bồi đắp và phát triển bền vững từ đời này qua đời khác. Giá trị truyền thống ấy cho phép dân tộc Việt Nam quy tụ sức mạnh tổng hợp to lớn để chiến thắng thiên tai và giặc ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên chứa đựng nhiều tiềm năng, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức lớn đối với con người. Bên cạnh đó, dân tộc ta cũng luôn đứng trước nguy cơ mất độc lập do các thế lực ngoại bang lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần xâm chiếm. Từ thời cổ đại cho đến thời hiện đại, với độ dài thời gian gần 12 thế kỷ trong hơn 22 thế kỷ và số lượng các cuộc kháng chiến quá lớn so với các nước trên thế giới, buộc dân tộc ta phải biết huy động sức mạnh của toàn dân thì mới có thể chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ non sông. Đúc kết từ thực tiễn đấu tranh chống 5 thiên tai và địch họa, dân tộc Việt Nam đã động viên nhau: “đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết”. Hơn nữa, văn hóa nhà - làng - nước tồn tại lâu đời trong lịch sử dân tộc ta là cơ sở để sinh sôi, nảy nở truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái. Làng, xã là đơn vị quần cư chủ yếu và là đơn vị kinh tế - xã hội cơ sở của người Việt. Nơi đây, những tình cảm cao quý giữa người với người, giữa người với quê hương có điều kiện phát triển trở thành những giá trị cao quý đó là “tình làng, nghĩa xóm”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “lá lành đùm lá rách” hay “tắt lửa tối đèn có nhau” … “Làng” thực sự trở thành “chất keo” bền chặt gắn bó, tạo dựng nên truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam. Truyền thống nhân nghĩa thấm đượm trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, phát triển trong quan hệ làng xóm và mở rộng ra cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam lấy tình nghĩa làm cơ sở để đối nhân, xử thế ở đời: khen ngợi những tấm gương vì nghĩa cả và lên án mạnh mẽ những kẻ ác nhân, ác đức. Trước những tình cảnh khó khăn, họ cảm thấy thương mình và thương người cùng cảnh ngộ, sẳn sàng “nhường cơm sẻ áo”. Đồng thời, họ luôn kiên quyết đấu tranh chống lại mọi sự chà đạp lên phẩm giá cao đẹp của con người. Tuy nhà, làng là cơ sở ban đầu nảy sinh tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết nhưng với người Việt Nam, “nước” là trên hết. Họ luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, nhà, làng. Với quan niệm “nước mất thì nhà tan”, nên đất nước ta tuy có nhiều làng, xã khác nhau; nhiều dân tộc với những phong tục, tập quán khác nhau; nhiều giai tầng có địa vị xã hội khác nhau, nhưng họ luôn chung một điểm tương đồng để cố kết lại với nhau đó chính là vì “nước”. Họ thường khuyên nhũ nhau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Thật vậy, “nước” trở thành tiếng nói chung và là cơ sở để “vua tôi đồng lòng”, “cha con nhất trí”, một khi cần có thể động viên cả nước chống giặc. Có lúc “làng” là thành lũy vững chắc để ngăn cản bước tiến, vùi thây sát quân thù, nhưng có lúc người dân sẳn sàng bỏ nhà, bỏ làng để thực hiện “vườn không, nhà trống” trong chiến lược đánh giặc, giữ nước. Với ý nghĩa đó, quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta luôn là thành quả của cả dân tộc, là sự thống nhất ý chí và hành động của cả lãnh tụ và dân chúng, trong đó “dân vi bản” - dân là gốc. Dân tộc Việt Nam không bao giờ cho phép và dung thứ âm mưu chia cắt đất nước hay tư tưởng cát cứ địa phương, chia rẽ đoàn kết toàn dân tộc…Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, triều đại nào không biết phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc sẽ phải chịu cái giá rất đắt. Sau thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ: “Nhân họ Hồ gây sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận”. Sau này, trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi với tư tưởng “tập hợp bốn phương manh lệ” đã giúp Lê Lợi khắc phục sai lầm của nhà Hồ, phát huy sức mạnh toàn dân chúng trong kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi vẽ vang. Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái không những được thể hiện trong trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, mà còn được phản ánh vô cùng 6 phong phú qua nền văn học dân gian, văn học hiện thực từ xưa đến nay. Văn học dân gian có huyền thoại “Âu Cơ và Lạc Long Quân”, truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”…. Văn học hiện thực có “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Cho đến nay, tư tưởng : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem trí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi, hay: “…anh em hòa thuận, cả nước chung sức” của Trần Quốc Tuấn…vẫn còn nguyên giá trị. Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam luôn được thế hệ người Việt Nam từ đời này sang đời khác nối tiếp nhau, kế thừa và phát triển, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh đánh giá cao truyền thống đoàn kết của dân tộc, đồng thời khẳng định đó là một chân lý bất diệt: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Chân lý ấy, đã tác động mạnh mẽ đến con người, tư tưởng và cả cuộc đời Hồ Chí Minh. Thấm nhuần truyền thống đoàn kết của dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp nhằm dễ bề cai trị đất nước ta. Ngay khi thiết lập nền thống trị ở Việt Nam, thực dân Pháp đã thi hành chính sách “chia để trị”. Thủ đoạn thâm độc đó nhằm làm suy yếu sức mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Người không những nhận thấy mà còn chỉ cho nhân dân ta thấy rõ thủ đoạn thâm độc đó: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn “chia để trị” của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia rẽ ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt”[29, tr. 116] Hồ Chí Minh thấy rõ một trong nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do chưa có phương pháp đúng đắn để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết. Từ đó, Người quyết định không theo con đường cứu nước của các bật tiền bối, mà chọn hướng đi riêng cho mình, với mong muốn sau khi trở về nước sẽ quy tụ được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Thực tế, khi đang hoạt động ở nước ngoài, Người nói sau này sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”[26, tr.192]. Có thể thấy, truyền thống đoàn kết của dân tộc kết tinh trong Hồ Chí Minh là cơ sở ban đầu và quan trọng để Người tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng lý luận đó vào giải quyết đúng đắn, sáng tạo những vấn đề mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Thông qua những bài nói, bài viết và thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh, cho thấy truyền thống đoàn kết trong tư tưởng của Người có bước phát triển cao hơn về chất, và mang đậm nét truyền thống dân tộc sâu sắc, như: tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” trước đây được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển: “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[33, tr. 410]. 7 Cùng với truyền thống đoàn kết, truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành, phát triển tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Hồ Chủ tịch lãnh tụ kính yêu của giai cấp vô sản và nhân dân Việt Nam”, đồng chí Trường Chinh có viết: “Một điều nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là lòng thương người”[14, tr. 263]. Tình thương của Người trước hết dành cho tất cả mọi người, trong đó dành tình cảm nhiều hơn cho những người lao động nghèo khổ, những người chịu thiệt thòi trong xã hội. Người còn dành tình cảm yêu thương đối với tất cả những người lầm đường lạc lối. Tình yêu thương con người của Bác luôn xác định yêu - ghét rõ ràng. Hồ Chí Minh bày tỏ thái độ căm ghét quân xâm lược, những kẻ áp bức bóc lột đã gây ra sự đau khổ cho nhân dân và phải bằng những hành động thiết thực, hiệu quả để đấu tranh giải phóng con người, dù có phải hy sinh bản thân mình. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng nhân văn cao cả, trên cơ sở tiếp nối và phát huy lên tầm cao mới của đức thương người, thương dân trong truyền thống dân tộc Việt Nam đã có từ hàng nghìn năm về trước. Truyền thống đó không những ảnh hưởng đến tư tưởng mà còn tác động mạnh mẽ đến nhân cách Hồ Chí Minh, một nhân cách vĩ đại luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, lý trí và tình cảm. Đó là nhân cách của một người trọng tình nghĩa và giàu lòng nhân ái. Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống với nhau phải có tình, có nghĩa. Theo Người: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”[43, tr. 554]. Không những thế, Người còn nêu một gương sáng về giàu lòng nhân ái, nhân đạo, sống có tình, có nghĩa. Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ và Toàn quyền Đông Dương, nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy. Sau đó, có một bức thư cho biết Người gửi cho cha mình ba ngân phiếu, nhưng chỉ mới nhận được một lần trả lời. Một việc nhỏ ấy thôi, cũng đã cho thấy Người lo việc cứu nước, nhưng không quên đạo làm con. Năm 1950, nghe tin anh cả Nguyễn Sinh Khiêm mất nhưng Bác không về được vì đang bận chỉ đạo chiến dịch Biên giới, Người đã gửi một bức thư về cho dòng họ với những lời lẽ thống thiết: “Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước vong hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”[34, tr. 114]. Qua đó cho thấy, truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc không những ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh mà Người còn là hiện thân của giá trị truyền thống ấy. 1.3. Ảnh hưởng của truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Lạc quan, yêu đời là truyền thống vốn có từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam và được phát triển bền vững cho đến ngày hôm nay. Nó được hình thành là do đòi hỏi khách quan từ thực tiễn cuộc sống mang lại; cho phép dân tộc Việt Nam luôn có đủ bản lĩnh, niềm tin hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc cho dù phía trước còn gặp muôn ngàn khó khăn, thách thức. Tinh thần lạc quan đó không phải là sự chủ quan, tự dối mình và dối người mà là dựa trên những cơ sở của niềm tin vững chắc vào sức 8 mạnh của chính bản thân mình có thể nắm được vận mệnh của mình chứ không cúi đầu cam chịu số kiếp bị quy định sẵn từ đâu đâu; là tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù có thể trải qua những thất bại tức thời và còn nhiều những thách thức lớn phía trước. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: “Trong tư tưởng lạc quan có một lòng tin mãnh liệt. Nhưng lòng tin đó không phải là một sự tin tưởng có tính chất tôn giáo, mà là một sự tin tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có căn cứ thực tế, dựa trên những suy lý chắc chắn, bằng vào kinh nghiệm lịch sử”[14, tr. 226]. Truyền thống lạc quan, yêu đời không phải chỉ riêng dân tộc ta mới có. Nhưng đối với dân tộc ta, truyền thống ấy được hình thành từ rất sớm và được thử thách bởi một điều kiện chiến tranh chống giặc ngoại xâm có tiềm lực lớn hơn ta, thường xuyên và lâu dài, hiếm có trong lịch sử nhân loại, cùng với điều kiện thiên nhiên hà khắc luôn đe dọa đến sự sinh tồn, phát triển của dân tộc ta. Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ thời Hai Bà Trưng đến thời Ngô Quyền có hàng trăm cuộc khởi nghĩa của dân tộc, với tinh thần lạc quan, dân tộc ta quyết “thua keo này, bày keo khác”, cuối cùng ta đã chiến thắng. Sau này, trong kháng chiến chống quân Nguyên - kẻ từng chinh phạt từ Âu sang Á, nổi danh bách thắng, nhưng khi đưa quân đến xứ ta, nó bị liên tiếp đánh bại ba lần, điều đó không thể là do may, rủi được. Mặt dù quân, dân ta có lúc phải bỏ thành, bỏ làng để chiến đấu, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn lạc quan vì tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của “chính nghĩa” nhất định thắng “hung tàn”. Cho thấy, trong mọi hoàn cảnh, điều kiện, dân tộc Việt Nam luôn giữ cho mình một lối sống lạc quan yêu đời, yêu quê hương, đất nước…và luôn tin tưởng vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần đoàn kết dân tộc; tin vào sự tất thắng của chính nghĩa, của chân lý, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam. Truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người không những tiếp thu truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc mà còn là hiện thân của truyền thống ấy. Đồng chí Phạm Văn Đồng có viết: “Hồ Chủ tịch rất vui tính, vì vốn có cái tính lạc quan của những người quyết chiến, quyết thắng ngày nay và xây đắp đời sống tốt đẹp cho dân tộc ngày mai”[13, tr. 11]. Thực vậy, chúng ta thấy tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc ở niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, Người khẳng định: Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người nhận định: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”[44, tr. 506]. 4iềm tin đó hoàn toàn có cơ sở khoa học từ tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào đến việc Bác nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững xu thế thời đại và tin vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần đoàn kết toàn dân…Trên thực tế, ngay khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã thấy được “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” và xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo phương hướng của cách mạng tháng Mười Nga. Tin vào sức mạnh to lớn của nhân dân, Người khẳng định: “dân khí mạnh thì không quân lính nào, súng 9 ống nào chống lại”[30, tr. 274]. Lạc quan, yêu đời là động lực mạnh mẽ giúp Hồ Chí Minh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để vươn tới mục đích cao cả của cuộc đời hoạt động cách mạng. Càng trong khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, Hồ Chí Minh càng có thái độ ung dung, thư thái, tự tin, bình thản. Đọc “Nhật ký trong tù” thấy rõ tinh thần ấy: “Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao, muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Tinh thần lạc quan, yêu đời của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc đến người Việt Nam yêu nước, giúp họ vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. “Tư tưởng lạc quan đã khuyến khích biết bao nhiêu là nghị lực của nhân dân, đã làm bao nhiêu triệu người tránh khỏi cạm bẩy của Pháp, Nhật. Đã củng cố lòng tin của quần chúng vào Đảng tiền phong biết nhìn xa, trông rộng và hướng dẫn đồng bào đi đúng đường trong những lúc khó khăn nhất, trong những đoạn đường dễ vấp nhất”[14, tr. 238]. 1.4. Ảnh hưởng của truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh Từ khi mới ra đời, dân tộc Việt Nam đã cần cù, dũng cảm trong chống chọi với thiên tai, địch họa, mới tạo ra nơi sinh tụ của dân tộc và giữ yên bờ cõi. Thực vậy, nghiên cứu lịch sử văn hóa sông Hồng, sông Mã, cho thấy, dân Lạc Việt hình thành một cộng đồng lớn từ rất lâu đời và đã cùng nhau tự mình lao động để sinh tụ, chứ không phải thừa hưởng từ một cộng đồng nào khác. Chính vì công lao, mồ hôi tạo dựng rất lớn, từ đời này đến đời khác nên họ rất gắn bó với quê hương. Cùng với khai phá mở mang đồng ruộng, dân tộc Việt Nam phải thường xuyên chống chọi với bão, lụt, hạn hán. Thần thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ là điển hình cho khai phá đất đai lên rừng, xuống biển; truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh là minh chứng cho chống chọi với thiên tai còn lưu truyền cho đến hôm nay. Công lao của các thế hệ xây dựng cái nôi dân tộc lớn bao nhiêu, thời gian các thế hệ sinh sống dài bao nhiêu thì lòng yêu nước càng đậm đà bấy nhiêu. Đó là động lực lớn để họ bám trụ với quê hương, đất nước. Vì vậy, cần cù, dũng cảm trong lao động bao nhiêu thì trong chiến đấu chống giặc giữ nước, tinh thần ấy càng phát huy bấy nhiêu. Nếu không cần cù, dũng cảm sao ta có thể đủ sức chiến đấu chống lại bọn xâm lược lớn mạnh và lâu dài đến thế. Truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc Việt Nam được biểu hiện sâu sắc ở con người Việt Nam luôn yêu quý lao động, người lao động, thành quả lao động; tinh thần dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, hy sinh, gian khổ chiến thắng mọi kẻ thù của dân tộc. Câu chuyện Mai An Tiêm, truyền thuyết Thánh Gióng…đến các nhân vật lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…là biểu hiện sinh động của truyền thống cần cù, dũng cảm của dân tộc. Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam cũng rất thông minh và sáng tạo trong sản xuất và trong chiến đấu. Trải qua nhiều năm bị giặc phương Bắc đô hộ, nhưng dân tộc Việt Nam không những không bị đồng hóa mà còn giữ vững và phát triển một nền văn minh Trống Đồng, nền văn hóa Lạc Việt nổi tiếng, điều đó chứng tỏ sự thông minh tài giỏi của dân tộc ta. Người Việt Nam còn có năng lực sáng tạo trên mọi lĩnh vực, nhất 10 là trên lĩnh vực quân sự. Để chiến thắng đối phương có tiềm lực lớn hơn ta gấp nhiều lần, có nhiều kinh nghiệm và thủ đoạn trong chiến đấu, đòi hỏi dân tộc ta phải không ngừng sáng tạo ra nghệ thuật đánh giặc giữ nước. Đó là nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy đoản binh thay trường trận; nghệ thuật toàn dân đánh giặc; nghệ thuật tiên phát chế nhân; nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời…Những sáng tạo ấy đã góp phần làm nên chiến công hiển hách của dân tộc ta, tiêu biểu như: năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; Năm 1077, Lý Thường Kiệt dùng đạo quân 10 vạn người đánh tan 30 vạn quân của Quách Quỳ; hơn 200 năm sau, Trần Quốc Tuấn với vài vạn quân tiêu diệt 50 vạn quân của Thoát Hoan; năm 1416, Lê Lợi khởi nghĩa đánh thắng quân Minh; Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân Thanh năm 1789... Cùng với cần cù, dũng cảm, thông minh và sáng tạo, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp có từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Biểu hiện trước hết của truyền thống hiếu học là tinh thần ham học hỏi, thích hiểu biết một cách tự nguyện. Với ý thức: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (Học không biết chán, dạy người không biết mỏi), ông cha ta xưa dù nghèo mấy cũng cố cho con đi học kiếm dăm ba chữ để làm người. Biểu hiện thứ hai của truyền thống hiếu học là thái độ luôn coi trọng sự học, coi trọng người có học: “Kho vàng không bằng một nang chữ”, “Người không học như ngọc không mài”. Từ đó hình thành đạo lý tôn sư trọng đạo “kính thầy mới được làm thầy”. Nguyễn Trãi đã chỉ ra rằng: “Nên thợ nên thầy vì có học, có ăn có mặc bởi hay làm” ý nói làm nghề gì cũng cần học, có học mới tinh thông nghề nghiệp. Tìm hiểu lịch sử giáo dục Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận biết dân tộc ta có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Truyền thống ấy đã góp phần tạo dựng, bồi đắp và phát triển các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng phong phú, bền vững. Chính đức tính cầu học, cầu tiến, dân tộc ta sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ từ bên ngoài. Những tinh hoa văn hóa nhân loại từ phương đông đến phương tây khi vào Việt Nam đều được lựa chọn, cải biến những cái hay, cái đẹp thành giá trị riêng phù hợp với đặc điểm của dân tộc. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học có ảnh hưởng sâu sắc đến hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp thu truyền thống cần cù, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước với đôi bàn tay trắng. Với đôi tay ấy, Người đã làm rất nhiều việc để sống và thực hiện mục đích cao cả của mình. Về sau khi trở thành Chủ tịch nước, bên cạnh gánh nặng việc nước, Người vẫn tranh thủ giờ rỗi để tăng gia sản xuất. Bên cạnh, Người còn là một tấm gương mẫu mực về lòng dũng cảm, bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy vẫn không ngăn cản được bước tiến của Người trong quá trình tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng. Thật vậy, “đời sống và những tư tưởng lớn, những tình cảm lớn của Hồ Chí Minh thể hiện sáng tỏ phẩm chất của một người cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh với khí phách của người chiến thắng, khí phách của chủ nghĩa Mác - Lênin, khí phách của những người mà sứ mạng lịch sử là đánh đổ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa”[14, tr. 294]. 11 Cùng với lòng dũng cảm, trí tuệ thông minh và sáng tạo cho phép Người lựa chọn hướng đi cứu nước đúng và đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo lý luận đó phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam; kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Với tư duy độc lập, sáng tạo, thông minh hơn người, Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc nguyên nhân thất bại của các phong trào đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Từ đó, Bác không theo con đường cứu nước của các bậc tiền bối mà có hướng đi riêng, đúng đắn nhất. Hồ Chí Minh còn là hiện thân của truyền thống hiếu học. Kế thừa truyền thống hiếu học của dân tộc từ quê hương, gia đình, trong những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, Người luôn thể hiện một nghị lực phi thường, bền bỉ tự học, tự đào tạo. Người đã học và làm rất nhiều nghề khác nhau, bắt đầu từ việc làm thợ đốt lò trên tàu viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái Lan, viết báo, viết truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Nhờ tinh thần tự học mà việc Người làm cũng giỏi. Hồ Chí Minh học ngoại ngữ, học viết báo, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Người biết và sử dụng thông thạo nhiều ngoại ngữ nhờ tự học chứ không qua một trường đào tạo chính quy nào. Người học ở sách báo, đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người học từ thực tiễn sinh động ở các nước đế quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng trên thế giới. Chính quá trình tự nghiên cứu, học tập và khảo sát mà Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Ngay cả những năm tháng cuối đời trên giường bệnh, mặc dù sức khỏe đã già yếu nhưng Hò Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần hiếu học. Đại tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm 1969, mỗi lần đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn con bên giường của Người để đầy sách báo đang xem. Ông lo lắng đến sức khỏe của Người, nên đề nghị Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả cho lại sức, nhưng Bác trả lời: “Chú bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và nhất là để nắm vững tình hình chứ!”. Như vậy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam được hun đúc, bồi đắp, phát triển bền vững và trở thành sức mạnh nội sinh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua các thời kỳ. Những giá trị truyền thống ấy là cội nguồn tư tưởng lý luận quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh; góp phần khẳng định tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và làm nên sức sống mãnh liệt tư tưởng của Người. “Hồ Chủ tịch là kết tinh của giá trị tinh thần của nhân dân ta suốt bốn nghìn năm lịch sử”[14, tr. 287]. II. HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI. 2.1. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới 2.1.1. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 12 Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định Patơnốt (1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới, trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Nói là một nước thuộc địa, nửa phong kiến là vì nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp đặt ách thống trị, còn triều đình phong kiến tồn tại để làm tay sai cho chúng. Trong lòng xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến không những không thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà còn hình thành nhiều mâu thuẫn mới đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924 rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được” [28, tr. 464]. Tuy triều đình Nguyễn đã đầu hàng Pháp nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Với lòng yêu nước và căm thù giặc, các phong trào đấu tranh chống Pháp nổ ra liên tiếp trong khắp cả nước theo nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng phong kiến có Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Tôn Thất Thuyết…Các phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng tư sản như: phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam phục hội…Phong trào nông dân có khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, tất cả các phong trào trên đều bị thất bại. Nguyên nhân sâu xa của sự thất bại đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do cho dân tộc. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước. Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nói lên một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp ấy đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế 13 giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ. 2.1.2. Bối cảnh thế giới Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu). Riêng diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người). Qua đó cho thấy, chủ nghĩa đế quốc là một hiện tượng quốc tế, một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành xâu xé thuộc địa, vừa hùa nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp của chúng và mỗi dân tộc thuộc địa là một mắt khâu của chủ nghĩa đế quốc. Do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa sẽ không không bao giờ giành thắng lợi được nếu đó chỉ là hành động riêng lẽ của từng dân tộc mà phải trở thành một mặt trận chung chống đế quốc thực dân. Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Lúc này, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922). Từ đó cho thấy, cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[37, tr. 562]. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin được công bố. Bản luận cương này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức đó là đi theo con đường cách mạng vô sản. Vấn đề thời đại đặt ra yêu cầu đối với mỗi dân tộc thuộc địa là muốn cứu nước và giải phóng dân tộc mình phải bằng con đường cách mạng vô sản và phải biết đoàn kết trong phong trào cách mạng vô sản thế giới. Lúc này, chủ nghĩa yêu nước của dân tộc không cho phép tự giới hạn trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược để giải phóng dân tộc mà phải tiến tới xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, mọi nghèo nàn, lạc hậu để giải phóng giai cấp và giải phóng con người; yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã 14 hội, sức mạnh dân tộc phải kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên tầm cao mới như thế nào? 2.2. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới 2.2.1. Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Đồng thời, các giá trị truyền thống đó luôn là niềm tự hào lớn lao của người Việt Nam nói chung và đối với Hồ Chí Minh nói riêng. Theo Hồ Chí Minh, các giá trị truyền thống dân tộc là sức mạnh tinh thần to lớn của Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử. Trong các giá trị truyền thống ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, coi đó là một chân lý bất diệt: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[35, tr.171]. Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, dân giàu, nước mạnh. Nó thể hiện trong phong trào thi đua của những người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội, cho sự tổ chức công việc một cách khoa học… Nó còn biểu hiện qua sự đấu tranh không khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất đề cao truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc ta. Người khẳng định đoàn kết là quy luật sống còn đối với dân tộc: “Sử ta dạy ta rằng: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tư do, trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[42, tr. 217]. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là sức mạnh vô địch, là cơ sở nền tảng, là điều kiện tất yếu đưa sự nghiệp kháng chiến đi đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công. Người cho rằng, đoàn kết mới có lực lượng tiến hành cách mạng, theo đó đoàn kết càng chặt chẽ thì sức mạnh càng cao, đoàn kết càng rộng rãi thì thắng lợi càng vĩ đại. Từ nhận thức giá trị truyền thống đoàn kết nên Bác luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết, coi đó là chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam và là cội nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bác khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[40, tr. 350]. Trong kháng chiến chống Pháp, Người chỉ rõ: Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc, 15 dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại. Đến thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta…Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu, sức mạnh đoàn kết vĩ đại của chúng ta sẽ đánh thắng chúng”[42, tr. 287]. Theo Người, sức mạnh đoàn kết không chỉ tất thắng trong kháng chiến mà còn tất thắng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết toàn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục…Người kêu gọi: “Các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các tôn giáo, các dân tộc, các nhân sỹ tiến bộ, đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc”[40, tr. 348]. Ngoài ra, Hồ Chí Minh luôn xem trọng truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam. Người không những là tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo và hiếu học, đồng thời, Người cũng luôn quan tâm giáo dục cho mọi người tiếp thu, lĩnh hội và hiện thực hóa các giá trị truyền thống ấy trong thực tiễn cuộc sống và hoạt động cách mạng. “Đồng chí Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, một người theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời là một người tượng trưng cho dân tộc mình - Một dân tộc anh hùng, yêu hòa bình, có lòng tự hào chính đáng và có tinh thần độc lập tự chủ, một dân tộc khiêm tốn thực sự và hết sức coi trọng những giá trị tinh thần - Một vị lãnh tụ mất mà để lại bản “Di chúc” căn dặn đồng bào phải giữ gìn những giá trị đó. Lời hiệu triệu cuối cùng của Người là một văn kiện có sức mạnh tinh thần và gây xúc động lớn lao”[14, tr. 289]. Nhận thấy rõ sức mạnh to lớn của các giá trị truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối…cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khỡi nghĩa năm 1917”[28, tr.466]. Chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh nói đến đó chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Thực vậy, “Giá trị truyền thống dân tộc là một sức mạnh vĩ đại không thể xem thường. Huy động các gái trị của truyền thống để làm cách mạng và kháng chiến hiện đại, là huy động sức mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ tổ tiên ông cha ta cổ vũ và trợ chiến cho con cháu hoàn thành sự nghiệp dân tộc”[14, tr.52]. Tự hào về các giá trị truyền thống dân tộc là cơ sở quan trọng để xây dựng niềm tin vào khả năng của con người Việt Nam. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ các giá trị truyền thống dân tộc vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, đoàn kết, 16 thủy chung, thông minh, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn... Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ và nó đã nuôi dưỡng, làm lớn lên những giá trị tinh thần cao quý trong mỗi con người Việt Nam. Đây chính là nguồn lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi thử thách, vững bước tiến lên. Chính vì thế trong hoàn cảnh đen tối nhất, Hồ Chí Minh vẫn lạc quan tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[25, tr. 28]. 2.2.2. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam sở dĩ vẫn tồn tại và phát triển bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều biến cố chính là do các thế hệ người Việt Nam không ngừng ra sức bảo vệ, giữ gìn. Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược các nước thuộc địa nói chung và nước ta nói riêng, chúng đã thi hành chính sách cai trị dã man và thâm độc trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam. Chúng không những muốn hủy điệt tất cả sự sống của đất nước mà còn hòng thủ tiêu các giá trị truyền thống của dân tộc để dễ bề cai trị. Bên cạnh thực hiện chính sách “chia để trị”, “ngu dân dễ trị”, đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện, thủ tiêu tinh thần đấu tranh của nhân dân… chúng còn ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam, đem văn hóa phản động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta. Trong khi đó bọn chúng vẫn hô hào khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, “khai phá văn minh” để che đậy bản chất xấu xa đó của mình. Phát huy tinh thần của dân tộc, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, hơn ai hết Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc trong điều kiện mới. Theo Người, đó chính là cơ sở để phát huy sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến và kiến quốc. Thông qua đó sẽ khơi dậy và làm sống lại các giá trị truyền thống trong mỗi con người Việt Nam; đấu tranh loại bỏ các văn hóa xấu độc của kẻ thù, văn hóa lỗi thời, lạc hậu của chế độ củ; xây dựng một nền văn hóa mới có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nói chung là phải biết kết hợp giữa xây và chống, trong đó “xây” là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Để bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người mà nhất là cán bộ, đảng viên trước hết phải hiểu biết về lịch sử: “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Bởi vì, người ta chỉ bảo vệ những cái gì người ta biết. Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử nhất định cho nên chỉ trên cơ sở hiểu biết về lịch sử mới có thể cảm nhận đầy đủ và sâu sắc giá trị của truyền thống dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng người nước ngoài”[43, tr. 557]. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, tài liệu 17 tuyên truyền, nói chuyện ở nhiều nơi, mở nhiều lớp bồi dưỡng, huấn luyện để giáo dục truyền thống. Trong đó Người chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc thông qua các tấm gương cụ thể như: “Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh Đông, dẹp Bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ có Bà Trưng, Bà Triệu ra tay khôi phục giang san”[42, tr. 216]. Bảo vệ, giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc không có nghĩa là cất giữ khư khư mà theo Người, phải biết khơi dậy biến nó thành hành động trên thực tế: Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong cửa kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín trong giương, trong hòm, bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý (kín đáo ấy) đều được đưa ra trưng bày. Đồng thời, theo Hồ Chí Minh bảo vệ và giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, khép kín mà phải đi đôi với tiếp thu các giá trị văn hóa nhân loại xưa và nay. Bởi vì, nếu không mở mang đầu óc với thế giới bên ngoài thì sớm hay muộn sẽ suy thoái. Theo Người, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy không phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, còn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ. Thực tiễn về sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phát huy sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Nhưng chủ nghĩa yêu nước đó, trong thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng lên một tầm cao mới và trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc làm nên chiến thắng vĩ đại. Vì “ở Người, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác Lênin - đỉnh cao của tư tưởng loài Người trong thời đại mới”[14, tr. 287]. 2.2.3. Hồ Chí Minh coi trọng việc kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới Là một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Hồ Chí Minh không những có công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà còn có vai trò quan trọng trong kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã “khơi dậy những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy những sức mạnh sẳn có, làm nảy nở những cái mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”[10, tr. 27]. Chính điều đó đã “làm cho tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong thời đại Hồ Chí Minh”[14, tr. 288]. Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam dù đã khẳng định sức mạnh to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta thì các giá trị truyền thống ấy đã bộc lộ những hạn chế trước yêu cầu của lịch sử trong thời cận hiện đại. Sự thất bại của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản chứng tỏ chỉ có lòng yêu nước thôi thì chưa thể giải phóng được dân tộc, đòi hỏi chủ nghĩa yêu nước, 18 truyền thống đoàn kết và các giá trị truyền thống khác của dân tộc phải có sự phát triển phù hợp với thời đại mới. Vậy đứng trước yêu cầu cấp bách đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên tầm cao mới như thế nào? Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên một trình độ cao, khác về chất, đó là yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân. Chỉ có yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân thì chủ nghĩa yêu nước mới phát huy tối đa sức mạnh. Vì chủ nghĩa yêu nước luôn phản ánh tính chất giai cấp sâu sắc. Trong khi đó, giai cấp công nhân là sản phẩm của thời đại mới, là giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất và là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Giai cấp công nhân Việt Nam, tuy còn nhỏ bé trong điều kiện nước thuộc địa, nhưng ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn được kế thừa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, lại sớm tiếp thu ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và rất gần gũi với nông dân, nên Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ có giai cấp công nhân Việt Nam mới có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Do vậy chủ nghĩa yêu nước chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân mới phát huy sức mạnh chiến thắng kẻ thù vốn là một lực lượng có tính quốc tế. Người chỉ rõ: vấn đề dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[39, tr. 128]. Từ đó, Bác yêu cầu: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình ngày một no ấm thêm, tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm”[38, tr.173]. Trên cơ sở kế thừa và có sự phát triển chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh thần đó được thể hiện khi xác định mục tiêu của cách mạng ngay trong cương lĩnh đầu tiên do Người soạn thảo: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” hay tinh thần “dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải đấu tranh giành cho kỳ được độc lập dân tộc”. Theo Người “ Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Khi nền độc lập bị huy hiếp thì “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người chỉ ra, vấn đề trước mắt cho các nước thuộc địa ở phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, sau đó mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì theo Hồ Chí Minh, dân tộc chưa được giải phóng thì giai cấp cũng chưa được giải phóng; Giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc là tiền đề đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ 19 nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Từ đó, muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”[24, tr.452]. Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng lên một tầm cao mới, khác về chất so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản chỉ hướng tới giải phóng dân tộc chứ chưa hướng tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập cho dân tộc chưa gắn liền với ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân…rõ ràng như thế không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới và không cho phép phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Kế thừa có chọn lọc và phát triển chủ nghĩa yêu nước trong thời đại mới, Hồ Chí Minh khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc, biến nó thành sức mạnh vật chất to lớn, “làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[35, tr. 172]. Bên cạnh đó, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc cũng được Hồ Chí Minh phát huy tối ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[41, tr.108]. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người cũng khẳng định ý chí và quyết tâm chiến thắng kẻ thù: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”[44, tr. 510]. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc lên tầm cao mới. Hồ Chí Minh cũng luôn coi trọng việc kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc, Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta”[44, tr. 510]. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc nhưng tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh đã có sự phát triển phù hợp với thực tiễn của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Nếu như trước đây, dân tộc ta chỉ quan tâm xây dựng khối đoàn kết toàn dân thì trong thời đại Hồ Chí Minh đoàn kết được phát triển ở phạm vi rộng hơn bao gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Điều đó cho phép Đảng và Bác Hồ không những huy động sức mạnh dân tộc mà còn huy động sức mạnh của thời đại để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng. Sự kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy trên một số vấn đề sau: Thứ nhất, kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc trong điều kiện mới, điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến có nhiều tầng lớp, giai cấp, có 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan