Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh Miền Tây Nam Bộ - thực trạng...

Tài liệu Mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh Miền Tây Nam Bộ - thực trạng và giải pháp phát triển (dựa trên tư liệu khảo sát ở Vĩnh Long và An Giang)

.PDF
144
758
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯỚC MẠNG LƯỚI PHÁT THANH, TRUYỀN THANH CƠ SỞ Ở CÁC TỈNH MIỀN TÂY NAM BỘ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN (dựa trên tư liệu khảo sát ở Vĩnh Long và An Giang) LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ Hà Nội, 2010 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 6 1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài 6 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7 3. Tình hình nghiên cứu đề tài 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 11 7. Cấu trúc luận văn 11 CHƢƠNG 1: 13 PHÁT THANH CƠ SỞ - 13 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 13 1.1 Một số khái niệm cơ bản 13 1.1.1 Phát thanh và đài phát thanh 13 1.1.2 Truyền thanh và đài truyền thanh 15 1.1.3 Phát thanh, truyền thanh cơ sở 17 1.2 Mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở 17 1.2.1 Đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện 18 1.2.2 Đài truyền thanh cấp xã 19 1.2.3 Vai trò của mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở 20 1.3 Phát thanh, truyền thanh cơ sở ở miền Tây Nam Bộ 1.3.1 Điều kiện kinh tế - xã hội ở miền Tây Nam Bộ 20 20 1.3.2 Văn hóa, trình độ và thói quen tiếp cận thông tin của cư dân miền Tây Nam Bộ25 1.3.3 Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phát thanh, truyền thanh cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long 27 1.3.4 Vấn đề đặt ra hiện nay 28 Tiểu kết chƣơng 1 30 3 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG MẠNG LƢỚI PHÁT THANH, TRUYỀN THANH CƠ SỞ Ở CÁC TỈNH MIỀN TÂY NAM BỘ 31 2.1 Mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ hiện nay 31 2.1.1 Khái quát về mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ 31 2.1.2 Mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở Vĩnh Long 35 2.1.3 Mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở An Giang 39 2.2 Những đóng góp của phát thanh, truyền thanh cơ sở đối với các tỉnh miền Tây Nam Bộ 43 2.2.1 Phát thanh, truyền thanh cơ sở là mạng lưới chân rết của phát thanh các cấp, là nguồn thông tin phong phú, là cầu nối giữa lãnh đạo và bà con địa phương 43 2.2.2 Phát thanh, truyền thanh cơ sở đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó của bà con nông dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa 45 2.2.3 Phát thanh, truyền thanh cơ sở góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho bà con 46 2.3 Những hạn chế của phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ 47 2.3.1 Những hạn chế về công tác tổ chức và quản lý 47 2.3.2 Những hạn chế về cơ sở vật chất 49 2.3.3 Những hạn chế về nội dung chương trình 49 2.3.4 Hạn chế của phương thức truyền thanh bằng mạng lưới loa công cộng 51 2.4 Nguyên nhân những hạn chế của phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ 52 2.4.1 Phương thức quản lý chưa thực sự hiệu quả 52 2.4.2 Chất lượng đội ngũ 54 2.4.3 Chú trọng tuyên truyền, chưa thực sự hiểu thính giả và chú trọng đáp ứng nhu cầu của thính giả 55 Tiểu kết chƣơng 2 59 4 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN PHÁT THANH, TRUYỀN THANH CƠ SỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 60 3.1 Xu thế phát triển của báo chí và những vấn đề đặt ra đối với truyền thanh cơ sở 60 3.1.1 Tốc độ thông tin tạo lợi thế hàng đầu trong quá trình cạnh tranh giữa các loại hình báo chí 60 3.1.2 Xu hướng đối tượng hóa của truyền thông đại chúng 62 3.1.3 Xu hướng tích hợp các loại hình truyền thông và tích hợp công nghệ 63 3.2 Một số khuyến nghị nhằm phát triển phát thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ 65 3.2.1 Cần thống nhất nhận thức về vai trò của phát thanh cơ sở và yêu cầu tất yếu duy trì mạng lưới này 65 3.2.2 Cần sự phối hợp hành động để nâng cao hiệu quả mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở 66 3.2.3 Một số giải pháp cụ thể 68 Tiểu kết chƣơng 3 77 KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC 87 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài Từ năm 1956, một hệ thống phát thanh 4 cấp từ trung ƣơng là Đài Tiếng nói Việt Nam đến các đài phát thanh cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và dƣới đó là các đài trạm truyền thanh cấp huyện, cấp xã đã bắt đầu hình thành. Số liệu công bố tại Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam tháng 8/2010 cho thấy, tính đến tháng 12/2009, cả nƣớc có 600 đài cấp huyện, hàng nghìn trạm truyền thanh cấp xã. Dù cho đến nay chƣa có một văn bản chính thức nào ghi nhận sự tồn tại của mạng lƣới phát thanh 4 cấp, nhƣng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc, các đài, trạm phát thanh, truyền thanh cơ sở vẫn tiếp tục tồn tại và phát huy tác dụng của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển địa phƣơng. Đài, trạm phát thanh, truyền thanh cơ sở không chỉ đơn thuần là một phƣơng tiện thông tin tuyên truyền mà còn là công cụ điều hành, chỉ đạo đắc lực của cấp ủy, chính quyền các cấp, là diễn đàn để phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng và Nhà nƣớc. Mạng lƣới này là một phần của tổng thể mạng lƣới phát thanh, giúp Nhà nƣớc thống nhất về mặt chính trị, văn hóa và các phƣơng diện khác trên phạm vi cả nƣớc. Thế nhƣng, trong thực tế phát triển, mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở dần dần bộc lộ những yếu kém, thiếu chuyên nghiệp về nhiều mặt, khiến hoạt động kém hiệu quả. Trong thời gian qua, giữa các loại hình báo chí diễn ra sự cạnh tranh mạnh mẽ. Trong khi truyền hình trở nên ngày càng phổ cập, báo trực tuyến đƣợc giới trẻ ƣa chuộng, thì báo in và báo phát thanh chật vật hơn. Sự kém ƣu thế của báo phát thanh trong cuộc cạnh tranh khiến nhiều ý kiến chuyên môn 6 nhận định rằng, báo phát thanh ở Việt Nam đang gần nhƣ đi đến điểm cực âm trong sơ đồ phát triển. Hiện trạng phát thanh ảm đạm đòi hỏi cấp thiết những giải pháp phát triển loại hình báo chí này. Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức hệ phát thanh có hình, lập kênh riêng chuyên về giao thông. Trên website của Đài quốc gia và một số đài phát thanh tỉnh (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vĩnh Long…), thính giả có thể nghe trực tuyến cùng lúc với chƣơng trình đƣợc phát sóng thực tế. Phƣơng thức làm phát thanh trực tiếp đƣợc ứng dụng ngày càng rộng rãi ở nhiều đài. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, các đài cấp huyện phần lớn chỉ hoạt động đều đều, không ít đài chỉ duy trì công tác làm truyền thanh cầm chừng, ít vận động phát triển. Thực tế đó cho thấy cần có một khảo sát đầy đủ để nhìn nhận thực trạng mạng lƣới phát thanh, truyền thanh ở cơ sở, từ đó đề xuất những khuyến nghị, giải pháp để phát triển và hoàn thiện mạng lƣới phù hợp xu thế phát triển báo chí, góp phần vào sự phát triển chung của báo phát thanh. Ngƣời nghiên cứu chọn địa bàn Tây Nam Bộ, nơi mà Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam Vũ Văn Hiền nhận xét “sự bắt gặp giữa đặc tính vùng miền và nhu cầu thông tin bằng loại hình báo chí phát thanh gần gũi hơn tất cả mọi vùng khác trên cả nƣớc” để khảo sát thực hiện đề tài: “Phát thanh, truyền thanh cơ sở ở miền Tây Nam Bộ - Thực trạng và giải pháp phát triển”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu “Phát thanh, truyền thanh cơ sở ở miền Tây Nam Bộ - Thực trạng và giải pháp phát triển” nhắm đến mục tiêu khái quát đƣợc hiện trạng của mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở Tây Nam Bộ và đƣa ra những giải pháp khả thi khắc phục những yếu kém hiện tại và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lƣới. Do đó, đề tài nghiên cứu là để phát triển, hoàn 7 thiện mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở trên địa bàn nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phƣơng. Đề tài có nhiệm vụ tổng hợp thông tin về hiện trạng của mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở miền Tây Nam Bộ với những thành tựu, những tồn tại để đƣa ra cái nhìn khái quát về mạng lƣới truyền thanh cơ sở trong khu vực. Những nguyên nhân gây hạn chế trong hoạt động của các đài, trạm sẽ đƣợc phân tích để từ đó đề xuất những giải pháp khả thi nâng cấp và hoàn thiện mạng lƣới này. 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số khóa luận tốt nghiệp đại học và sau đại học nghiên cứu về phát thanh, nhƣ tìm hiểu về những chƣơng trình phát thanh cụ thể, những đài phát thanh cụ thể. Nhƣng cho đến nay chƣa có đề tài nghiên cứu về mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở. Tại Đài Tiếng nói Việt Nam, năm 2004, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ phát thanh trực thuộc Đài đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ phát thanh trực tiếp vào hệ thống phát thanh truyền thanh cơ sở’’. Mục tiêu của đề tài là nhằm chuyển giao công nghệ phát thanh trực tiếp cho hệ thống phát thanh truyền thanh cấp cơ sở ở Việt Nam để phát huy hiệu quả của công tác tuyên truyền, điều hành, chỉ đạo của cấp ủy chính quyền các cấp cơ sở ở Việt Nam. Để thực hiện đƣợc mục tiêu đề ra, đề tài đề cập những vấn đề: - Hiện trạng hoạt động của của các đài phát thanh truyền thanh cơ sở trong phạm vi cả nƣớc tại thời điểm thực hiện đề tài. - Xây dựng các chỉ tiêu kỹ thuật cho studio cấp huyện, cẩm nang đào tạo về phát thanh trực tiếp cho cấp cơ sở, mô hình về trang bị kỹ thuật phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng miền để thực hiện phát thanh trực tiếp. 8 - Các đề xuất kiến nghị nhằm ứng dụng phát thanh trực tiếp cho các đài cơ sở. Hoạt động nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ phát thanh địa phƣơng Việt Nam” do tổ chức SIDA (Swedish International Development Cooperation Agency - Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển) tài trợ. Dự án đƣợc thực hiện qua 3 giai đoạn: thử nghiệm (19931995), giai đoạn 1 (1997-1999), giai đoạn 2 (2000-2003), tổng cộng trong gần 10 năm để chuyển giao phƣơng thức phát thanh hiện đại này đến 30 trong số 61 đài tỉnh, thành phố của Việt Nam. Trung tâm đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đã biên soạn sách “Hƣớng dẫn nghiệp vụ phát thanh, truyền thanh địa phƣơng nông thôn”. Sách này đề cập những kiến thức tổng quát về phát thanh, truyền thanh địa phƣơng nông thôn, hƣớng dẫn một số nghiệp vụ về thực hiện chƣơng trình cũng nhƣ tổ chức, quản lý phát thanh, truyền thanh địa phƣơng nông thôn. Ở các tỉnh, trong đó có các tỉnh miền Tây Nam Bộ, nhiều tỉnh cũng thực hiện những nghiên cứu, đề án về xây dựng và phát triển mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở. Ví dụ, đầu năm 2009, Sở Thông tin và Truyền thông An Giang đã xây dựng “Đề án phát triển hệ thống đài truyền thanh cơ sở đến năm 2010 và một số định hƣớng đến năm 2015”. Những nghiên cứu dạng này chỉ khoanh vùng trong phạm vi một tỉnh. Nhƣ vậy, chƣa có đề tài nào đi sâu khảo sát, nghiên cứu về mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng mạng lƣới đài phát thanh, truyền thanh cấp cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, dựa trên kết quả khảo sát lấy mẫu ở hai tỉnh Vĩnh Long, An Giang và những khuyến nghị nhằm phát triển, hoàn 9 thiện mạng lƣới này. Luận văn chú trọng khảo sát hiện trạng phát thanh, truyền thanh cơ sở ở Tây Nam Bộ tại thời điểm thực hiện đề tài. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát, xuyên suốt, ngƣời nghiên cứu đã tìm hiểu thêm về sự vận động của mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở tại địa bàn trong thời gian trƣớc đó. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận báo chí truyền thông, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển sự nghiệp thông tin - báo chí, các tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, báo và tạp chí trong và ngoài nƣớc có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu này sử dụng những phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp quan sát – miêu tả – tổng hợp. - Phƣơng pháp điều tra xã hội học với phỏng vấn sâu, khảo sát với bảng hỏi điều tra thính giả. Ngƣời thực hiện luận văn thực hiện thu thập thông tin bằng bảng hỏi đối với 200 thính giả của các đài phát thanh, truyền thanh cơ sở đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên ở những khu vực chọn lọc. Để ghi nhận kết quả chính xác, trung thực, nhanh chóng thu đƣợc tất cả số phiếu phát ra, tác giả đã áp dụng hình thức hỏi trực tiếp những đối tƣợng chọn khảo sát và đánh dấu vào bảng hỏi. Hình thức này rất hiệu quả khi áp dụng tại địa bàn nông thôn, nhiều ngƣời dân không quen với việc điền các bảng biểu. Thông tin sau khi thu thập đƣợc xử lý toán học đối với các thông tin định lƣợng, xử lý logic đối với thông tin định tính. Ngƣời thực hiện đề tài cũng đã thực hiện nhiều phỏng vấn sâu với những giám đốc đài phát thanh truyền hình tỉnh, trƣởng đài truyền thanh huyện, cán bộ làm truyền thanh cơ sở, chuyên viên của Sở thông tin và truyền thông tỉnh… để thu thập thông tin, số liệu phục vụ việc phân tích, đánh giá. 10 Các phỏng vấn sâu này đƣợc đính kèm trong phần phụ lục luận văn. - Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ngƣời nghiên cứu đã hình thành khung lý thuyết về mạng lƣới truyền thanh cơ sở, khái quát về thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển mạng lƣới ở một khu vực phù hợp với lý luận báo chí truyền thông. Thực trạng mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở Tây Nam Bộ và những khuyến nghị để phát triển mạng lƣới mà đề tài tổng kết sẽ hữu ích cho các đài, trạm phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và những cơ quan liên quan trong việc nâng cấp, hoàn thiện mạng lƣới. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể ứng dụng cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý trong việc hoạch định chính sách hoàn thiện, phát triển mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở phục vụ nhiệm vụ chính trị. 7. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Phát thanh cơ sở - một số vấn đề lý luận và thực tiễn Chƣơng này chứa đựng hệ thống kiến thức lý luận và thực tiễn để làm cơ sở xem xét mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở dƣới góc độ một phƣơng tiện truyền thông đại chúng với những đặc trƣng riêng phù hợp với địa bàn nông thôn ở Tây Nam Bộ. Sau khi giới thiệu các khái niệm phát thanh và đài phát thanh, truyền thanh và đài truyền thanh, chƣơng 1 sẽ phác thảo mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở nói chung với những mắt lƣới từ các cấp huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn đến tận các xã, ấp. Phần tiếp theo của chƣơng sẽ trình bày về những điều kiện kinh tế - xã hội, về văn hóa, trình độ và thói quen tiếp nhận thông tin của cƣ dân, từ đó đi sâu phân tích những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phát thanh, truyền thanh cơ sở ở địa phƣơng. 11 Chương 2: Thực trạng mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ Với kết quả khảo sát lấy mẫu ở hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang, kết hợp với những thông tin thu thập đƣợc về hoạt động phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các địa phƣơng khác ở Tây Nam Bộ, chƣơng 2 mô tả khái quát hiện trạng mạng lƣới ở đồng bằng sông Cửu Long, tổng kết những đóng góp quan trọng về nhiều mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa….) của mạng lƣới tại địa phƣơng. Những hạn chế chủ yếu của phát thanh, truyền thanh cơ sở sẽ đƣợc nêu ra cùng các phân tích những nguyên nhân gây hạn chế. Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và những khuyến nghị phát triển phát thanh, truyền thanh cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long Từ bức tranh thực trạng phát thanh, truyền thanh cơ sở đã mô tả ở chƣơng 2, theo xu thế phát triển của báo chí và những vấn đề đặt ra đối với truyền thanh cơ sở, chƣơng này sẽ đƣa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển phát thanh, truyền thanh cơ sở ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Các khuyến nghị kêu gọi sự thống nhất trong nhận thức, sự phối hợp đồng bộ các ban ngành liên quan để thực hiện những giải pháp phát triển phát thanh cơ sở từ xây dựng nguồn nhân lực, cải tiến nội dung và phƣơng thức thực hiện chƣơng trình đến chọn lựa giải pháp công nghệ phù hợp. 12 CHƢƠNG 1: PHÁT THANH CƠ SỞ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Phát thanh và đài phát thanh Theo giáo trình “Báo phát thanh” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khái niệm báo phát thanh đƣợc dùng từ việc mở rộng và phát triển khái niệm báo chí. Khái niệm báo chí khởi nguyên đƣợc dùng để chỉ kênh truyền thông đại chúng chuyển tải, phát tán thông điệp định kỳ bằng kỹ thuật in ấn trên vật liệu giấy và mực với ký hiệu ngôn tự. Ngày nay, khái niệm báo chí đƣợc dùng để chỉ các kênh truyền thông đại chúng chuyên phản ánh các sự kiện và vấn đề thời sự đƣợc xuất bản định kỳ. Do đó, báo chí nói chung bao gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và báo trực tuyến. “Báo phát thanh đƣợc hiểu nhƣ một kênh truyền thông, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trƣng cơ bản của nó là dùng thế giới âm thanh phong phú và sinh động (lời nói, tiếng động, âm nhạc) để chuyển tải thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh, tác động vào thính giác của công chúng”. [12, tr.51] TS. Phạm Thành Hƣng trong cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền thông” cũng đã định nghĩa phát thanh nhƣ sau: “Phát thanh là một phƣơng tiện truyền thông đại chúng dựa trên nguyên tắc kỹ thuật truyền âm thanh để chuyển tải các chƣơng trình tin tức, tri thức, nghệ thuật tới đông đảo công chúng thính giả cũng nhƣ cho các nhóm thính giả đặc thù”. [16, tr.132] 13 Qua lịch sử tồn tại hơn một thế kỷ, phát thanh đã xác lập vị trí là một loại hình báo chí độc lập với những thế mạnh riêng - nhanh, rẻ, gần gũi và dễ tiếp nhận đối với mọi đối tƣợng, mọi lứa tuổi, mọi vùng miền. Sự sinh động của lời nói, âm nhạc, tiếng động truyền qua làn sóng điện đã từng đƣợc thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt, giúp phát thanh trải qua một thời hoàng kim khá dài ở vị trí loại hình truyền thông đại chúng hiệu quả nhất trƣớc khi đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các loại hình xuất hiện sau. Hiện nay, khi các nguồn thông tin trở nên đa dạng hơn bao giờ hết, giữa các phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng xuất hiện sự cạnh tranh mạnh mẽ. Ở Việt Nam, trong khi truyền hình phủ sóng rộng khắp và đƣợc nhà nhà yêu thích, báo trực tuyến chiếm cảm tình của giới trẻ, báo in vẫn giữ đƣợc một lƣợng độc giả trung thành, thì phát thanh lâu nay đang mất dần vị thế của mình trong đời sống truyền thông. Thói quen nghe phát thanh đang dần mất đi ngay trong “thị phần” truyền thống của phát thanh Việt Nam là ngƣời dân nông thôn. Trong xu thế cạnh tranh mạnh mẽ giữa các loại hình báo chí với nhau, loại hình nào cũng phải tìm lối đi riêng để hƣớng đến giới độc giả mục tiêu của mình. Thực tế trên khiến việc xác định hƣớng đi của phát thanh có phần khó khăn hơn những loại hình khác. Bên cạnh việc duy trì, phát huy những ƣu thế vốn có nhƣ tính tiện lợi, kỹ thuật đơn giản, thiết bị gọn nhẹ và phƣơng thức tiếp nhận thông tin linh hoạt, phát thanh đồng thời phải luôn tự điều chỉnh để hạn chế những nhƣợc điểm nhằm thích ứng với bối cảnh của đời sống báo chí truyền thông hiện đại. Những bƣớc tiến trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là những tiến bộ về công nghệ thông tin đã tạo điều kiện kỹ thuật cho sự phát triển của phát thanh. Trong hệ thống báo chí nƣớc ta hiện nay, phát thanh cùng với truyền hình là hai loại hình báo chí quan trọng và đƣợc đầu tƣ nhiều nhất. Phát thanh 14 là phƣơng tiện thông tin đại chúng thuận tiện, gần dân nhất, với mạng lƣới phủ khắp quốc gia, vƣơn tới tận từng xóm làng, thôn bản. Các cơ quan hoạt động báo chí phát thanh đƣợc gọi là các đài phát thanh (radio station). 1.1.2 Truyền thanh và đài truyền thanh Động từ truyền thanh đƣợc từ điển tiếng Việt định nghĩa là truyền âm thanh đi xa bằng sóng điện từ hoặc bằng đƣờng dây (loa truyền thanh, đài truyền thanh). Tài liệu chuyên môn “Nghề phát thanh” (Making radio) của Michael Kaye và Andrew Popperwell giải thích quá trình từ miệng nói của phát thanh viên đến tai nghe của thính giả nhƣ sau: - Dây thanh đới của ngƣời nói rung lên để tạo ra sóng âm thanh trong không khí, sóng này lan truyền ra mọi hƣớng. - Lúc đó, micro biến đổi các sóng âm thanh đó thành dòng điện chạy vào dây dẫn đến… - Bàn trộn, tại đó các âm thanh khác (từ micro khác, từ các đĩa hay băng ghi âm) cũng đƣợc truyền đến. Từ bàn trộn này các âm thanh chạy theo các dây dẫn đến… - Máy phát, là nơi biến đổi các tín hiệu dƣới dạng dòng điện thành sóng radio và thoát ra ngoài qua một hệ thống trên không trung là ăng ten. Máy phát có thể là loại sóng dài, sóng trung hay sóng ngắn (AM) hoặc sóng tần số rất cao (VHF, thƣờng đƣợc biết đến là FM - điều chế tần số). - Các sóng này thƣờng truyền đi mọi hƣớng, và tới những khoảng cách khác nhau tùy thuộc vào công suất và vị trí đặt máy phát, cũng nhƣ tần số phát sóng và địa hình nơi phát sóng. 15 - Tiếp đó, ăng ten của máy thu thanh sẽ thu các sóng radio đƣợc phát ra và các thiết bị điện tử trong máy thu sẽ biến đổi sóng đó thành tín hiệu âm thanh. Loa và tai nghe lại chuyển các tín hiệu này thành sóng âm thanh. - Sóng này có thể nghe đƣợc và phân tích bởi tai và trí não của ngƣời nghe. [33, tr.12] Nhƣ vậy, sóng âm thanh không trực tiếp truyền đến tai ngƣời nghe mà phải đƣợc biến đổi thành bức xạ để có thể truyền đi trong không gian. Quá trình phát sóng phát thanh đƣợc bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia mô tả là quá trình truyền phát âm thanh dùng sóng cao tần (một dạng bức xạ điện từ) phát qua không khí, từ một máy phát tới một anten thu. Các đài (trạm) phát thanh có thể đƣợc kết nối trong một mạng lƣới phát thanh để phát các chƣơng trình chung, bằng cách hoặc là tập trung chƣơng trình về một đài để phát, hoặc là các đài đồng thời phát và tiếp phát lại một chƣơng trình, hoặc bằng cả hai hình thức trên. Phát sóng phát thanh cũng có thể đƣợc thực hiện thông qua điều chế tần số FM trên đƣờng truyền cáp, qua mạng đƣờng dây truyền thanh cục bộ, qua vệ tinh và qua đƣờng truyền internet.1 Do những giới hạn về công suất phát sóng của máy phát, tần số phát sóng và địa hình, sóng phát thanh luôn bị giới hạn trong một phạm vi phủ sóng nhất định. Ở Việt Nam, để tiếp phát chƣơng trình của đài quốc gia, đài tỉnh đến từng đơn vị hành chính nhỏ hơn, ở các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đã hình thành mạng lƣới những đài đóng vai trò chủ yếu là truyền thanh tiếp sóng các đài phát thanh quốc gia hay tỉnh và phát lại cho cả vùng, đƣợc 1 Nguyên văn: Radio broadcasting is an audio (sound) broadcasting service, broadcast through the air as radio waves (a form of electromagnetic radiation) from a transmitter to a receiving antenna. Stations can be linked in radio networks to broadcast common programming, either in syndication or simulcast or both. Audio broadcasting also can be done via cable FM, local wire networks, satellite and the Internet (http://en.wikipedia.org/wiki/Radio). 16 gọi là đài truyền thanh hay trạm truyền thanh. Các đài truyền thanh thuộc huyện, thị, thành phố (thuộc tỉnh) cũng sản xuất chƣơng trình riêng nhƣng chỉ có thời lƣợng rất ngắn. Trƣớc đây, các đài truyền thanh sử dụng mạng đƣờng dây truyền thanh cục bộ. Hiện nay, các đài thƣờng sử dụng các máy phát công suất thấp với bán kính phủ sóng vài ki lô mét, các trạm thu phát FM trong khu dân cƣ sẽ thu tín hiệu và phát trên hệ thống loa công cộng. 1.1.3 Phát thanh, truyền thanh cơ sở Từ “cơ sở” đƣợc giải thích trong Từ điển tiếng Việt có khá nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là “đơn vị ở cấp dƣới cùng”. Trong phạm vi đề tài này, khái niệm phát thanh – truyền thanh cơ sở đƣợc dùng để chỉ chung cho mạng lƣới đài, trạm truyền thanh từ cấp huyện trở xuống. Trong đó, mỗi đài truyền thanh huyện là một mắt xích trong mạng lƣới truyền thanh để đồng thời phát (chƣơng trình của đài huyện nhà) và tiếp phát lại chƣơng trình của những đài khác (chƣơng trình Đài Tiếng nói Việt Nam, chƣơng trình đài tỉnh nhà). Trong mỗi huyện lại có các trạm truyền thanh cấp xã chỉ thuần túy tiếp âm, tức là tiếp phát lại chƣơng trình đƣợc phát sóng từ đài huyện, bao gồm chƣơng trình truyền thanh huyện, tỉnh và quốc gia nhƣ đã liệt kê ở trên. Đó chính là những mắt lƣới trong mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở sẽ đƣợc phân tích ở mục tiếp theo. 1.2 Mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở Ở mỗi tỉnh, sự phân bố rộng khắp các đài truyền thanh cấp huyện và các trạm truyền thanh xã tạo thành một mạng lƣới truyền thanh cơ sở. Cả nƣớc có 612 đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện, trong đó có khoảng 288 đài phát sóng FM và 7916 đài truyền thanh cấp xã. [55, tr.12] 17 Quá trình hình thành và phát triển của mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở tùy theo tình hình thực tế của mỗi địa phƣơng. Có nơi chú trọng đầu tƣ xây dựng, phát triển có định hƣớng; nơi lại tự phát, manh mún. Phát thanh, truyền thanh cơ sở do vậy chỉ là một mạng lƣới tuy rộng nhƣng không đồng đều, vẫn còn có nhiều vùng lõm. Cách tổ chức, quản lý mạng lƣới này từng lúc, từng vùng cũng chƣa thật sự thống nhất, chƣa phải một hệ thống hoàn chỉnh với cấu trúc chặt chẽ. Mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở tỏa xuống từng thôn xóm, từng cụm dân cƣ, gồm có hai cấp: 1.2.1 Đài phát thanh, truyền thanh cấp huyện Đài truyền thanh huyện, thành phố, thị xã là tiếng nói, là công cụ, phƣơng tiện thông tin tuyên truyền của cấp ủy và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã về chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nƣớc đến với nhân dân; và là kênh giao tiếp của công chúng địa phƣơng với các cấp chính quyền cơ sở. Hiện nay, theo số liệu thống kê đơn vị hành chính có đến 31/12/2009 phân theo địa phƣơng của Tổng cục Thống kê, nƣớc ta có: - 48 thành phố trực thuộc tỉnh; - 47 quận; - 46 thị xã; - 556 huyện. Tổng cộng là 697 đơn vị hành chính cấp huyện. Trừ một số các quận ở các thành phố loại 1 nhƣ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các huyện lị đều có các đài, trạm truyền thanh hoạt động với quy mô cấp huyện. Theo tài liệu của Đài Tiếng nói Việt Nam “Ứng dụng phƣơng thức phát thanh trực tiếp vào hoạt động phát thanh cơ sở ở Việt Nam”, nhiệm vụ trọng tâm của các đài huyện là: 18 - Sản xuất và phát sóng hàng ngày các chƣơng trình, bản tin, chuyên mục phản ánh các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của địa phƣơng. - Tiếp âm bản tin thời sự của đài tỉnh và Đài Tiếng nói Việt Nam. - Phục vụ nhu cầu thông tin của địa phƣơng từ thông tin về các văn bản, quy định, chỉ thị, thông báo đến định hƣớng, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, dịch vụ của địa phƣơng, giải đáp thắc mắc của cƣ dân địa phƣơng. - Cộng tác tin bài cho đài phát thanh truyền hình tỉnh nhà. - Rao vặt, quảng cáo – rất ít thực hiện. - Ngoài ra, còn làm nhiệm vụ hỗ trợ các đài, trạm truyền thanh xã, phƣờng, khóm, ấp trên địa bàn. [42, tr.11] Hệ thống đài huyện trong những năm qua đƣợc xây dựng và duy trì hoạt động từ nhiều nguồn kinh phí khác nhau, từ ngân sách địa phƣơng, chƣơng trình mục tiêu của chính phủ, phần hỗ trợ của các dự án phát triển phát thanh. Ở nhiều nơi còn có phần nhân dân tự đóng góp. Nhìn chung, nguồn ngân sách cho các đài huyện đều thấp hơn nhiều so với nhu cầu thực tế nên hoạt động nghiệp vụ rất khó khăn. Không những vậy, các đài cấp huyện chƣa đƣợc công nhận là một cơ quan báo chí2 nên ngoại trừ một số trƣởng, phó đài, các phóng viên, biên tập viên đƣợc ngành dọc quản lý vẫn chƣa đƣợc cấp thẻ nhà báo để có điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động. 1.2.2 Đài truyền thanh cấp xã Ở mỗi xã có lại có đài truyền thanh cấp xã. Đài truyền thanh xã thực chất là mạng lƣới những trạm truyền thanh nội bộ xã, là các điểm thu phát để tiếp âm chƣơng trình phát thanh các đài phát thanh ba cấp phát trên hệ thống loa công cộng rải trong các khu dân cƣ. Thông tƣ liên tịch 06/1997/TTLT-BVHTT-TCBĐ giữa Bộ Văn hóa – Thông tin và Tổng cục bƣu điện về việc hƣớng dẫn thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với các đài phát thanh, truyền hình ban hành năm 1997 xếp các đài phát thanh, truyền hình huyện, xã vào diện đối tƣợng “chƣa đƣợc xếp loại cơ quan báo chí nhƣng có hoạt động báo chí”. 2 19 1.2.3 Vai trò của mạng lưới phát thanh, truyền thanh cơ sở Mạng lƣới phát thanh, truyền thanh cơ sở chuyển tải đến từng nhà tiếng nói các cấp từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Mỗi buổi tiếp âm, ngƣời dân đón nhận những tin bài chọn lọc phản ánh toàn diện tình hình thời sự quốc tế và trong nƣớc (chƣơng trình thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam) – tỉnh nhà (chƣơng trình thời sự đài phát thanh tỉnh) – huyện nhà (chƣơng trình đài truyền thanh huyện) – xã nhà (những thông báo cần biết). Những chỉ đạo, những định hƣớng quan trọng của các cấp đƣợc thông tin xuyên suốt, rộng khắp đến từng cƣ dân, chỉ duy nhất có mạng lƣới truyền thanh cơ sở mới thực hiện đƣợc vai trò này. Những chƣơng trình đài huyện sản xuất giới thiệu tin tức nổi bật trên địa bàn, chuyển tải chủ trƣơng chính sách của địa phƣơng, tâm tƣ nguyện vọng của bà con trên địa bàn. Một số đài huyện tổ chức đối thoại trực tiếp giữa chính quyền và ngƣời dân, đƣợc nhiều thính giả quan tâm, hƣởng ứng. Việc thực hiện hài hòa hai nhiệm vụ tiếng nói của chính quyền và diễn đàn của nhân dân địa phƣơng khiến mạng lƣới truyền thanh cơ sở trở thành nhịp cầu nối giữa chính quyền và bà con trên địa bàn. Điều đó giúp truyền thanh cơ sở trở thành phƣơng tiện hữu hiệu góp phần xây dựng dân chủ cơ sở. 1.3 Phát thanh, truyền thanh cơ sở ở miền Tây Nam Bộ 1.3.1 Điều kiện kinh tế - xã hội ở miền Tây Nam Bộ Do đặc điểm cấu tạo tự nhiên, Nam Bộ chia làm hai khu vực lớn: - Khu vực thứ nhất là miền Đông Nam Bộ, là vùng phù sa cổ đệm giữa cao nguyên đất đỏ và châu thổ sông Cửu Long, rộng khoảng 26.000 km2, gồm các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, Tây Ninh. Địa hình nơi đây gồm những dải đất đỏ và xám xen kẽ giữa những ngọn núi 20 thƣa thớt, những triền đồi lƣợn sóng nhấp nhô, riêng phía Bắc tiếp giáp với cao nguyên – rừng rậm. Trong lịch sử khẩn hoang Nam Bộ, khu vực này là nơi dừng chân đầu tiên của nhiều đoàn lƣu dân từ miền ngoài vào, trƣớc khi di chuyển xa hơn về phía Nam. - Khu vực thứ hai thuộc châu thổ sông Cửu Long, diện tích 39.734km², có tên gọi quen thuộc là miền Tây Nam Bộ. Đây là vùng bình nguyên bát ngát đƣợc tƣới tắm bởi một hệ thống kênh rạch dày đặc mà khắp đất nƣớc không nơi nào có thể bì đƣợc. Nhìn chung, vùng này đƣợc khai phá muộn hơn. Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở khu vực đệm giữa hai miền. Bản đồ các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan