Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lý thuyết về môi trường vĩ mô...

Tài liệu Lý thuyết về môi trường vĩ mô

.DOC
78
210
84

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 LỜI MỞ ĐẦU Thành công của một ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh đặc trưng của ngân hàng thương mại. Với tầm quan trọng và qui mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có một tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với sự gia tăng liên tục về số lượng và hoạt động ngày càng hiệu quả, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và chương trình xoá đói giảm nghèo cũng như giải quyết các vấn đề xã hội khác. Nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn và không ngừng tăng lên do mỗi năm có hàng ngàn doanh nghiệp ra đời. Tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của nhiều ngân hàng thương mại. Được tìm hiểu những chủ trương chính sách của NHNo&PTNT Việt Nam và trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, đã cho em hiểu rõ hơn tính đúng đắn của chính sách mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời gian vừa qua, chi nhánh Thăng Long đã có được những bước tiến đáng kể trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng chưa khai thác hết được những khả năng của chi nhánh. Vậy tại sao chi nhánh Thăng Long không đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay tới đối tượng khách hàng nhiều tiềm năng này? Với những trăn trở đó em đã chọn đề tài: "Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn nữa về hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp 1 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 một số ý kiến giúp mở rộng tín dụng tới đối tượng khách hàng này được tốt hơn. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu một số giải pháp chính nhằm mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long. Phạm vi nghiên cứu: Đó là các vấn đề tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Thăng Long trong những năm gần đây. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên các lý thuyết kinh tế kết hợp với thực tế, sử dụng phương pháp phân tích, lựa chọn, so sánh,… để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Kết cấu của luận văn: Chương 1: Hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long. Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long. 2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM 1.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của NHTM 1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đã và đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào các quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các quốc gia khác nhau các đối tượng khác nhau 3 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 có thể đưa ra những định nghĩa không giống nhau về ngân hàng. Ví dụ, Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa NHTM dựa trên các hoạt động chủ yếu: "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán ". 1.1.1.2. Các đặc điểm của ngân hàng thương mại  Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập vì thế họ là những người cần bổ xung vốn; và (2) là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai thấy cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian tài chính sẽ hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế rủi ro và giảm chi phí giao dịch. 4 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Là trung gian tài chính, ngân hàng thực hiện hai nghiệp vụ chính: nhận tiền gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền; trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Đa số các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng " thông tin không cân xứng", nó làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro và lợi nhuận hấp dẫn nhất. Khả năng tập hợp và phân tích thông tin tài chính của ngân hàng đã tạo ra một cách nhìn khác về vấn đề tại sao ngân hàng tồn tại trong xã hội hiện đại. Hầu hết người vay tiền và người gửi tiền đều muốn giữ bí mật tình trạng tài chính của họ, đặc biệt là trước các đối thủ cạnh tranh. Nhu cầu này của khách hàng gợi ý rằng các ngân hàng có thể thu hút người đi vay bởi vì họ cam kết giữ bí mật. Hơn nữa, khi một khách hàng vay một cách dễ dàng và tốn ít chi phí hơn việc huy động vốn ở bất kỳ nguồn nào khác. Điều này thông báo cho thị trường rằng người vay tiền là hoàn toàn đáng tin cậy và chắc chắn họ sẽ trả toàn bộ khoản vay. Tác dụng thông báo này trong việc cho vay của ngân hàng là rất quan trọng, không chỉ khi ngân hàng tiến hành cho vay đối 5 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 với một khách hàng mới mà cả khi ngân hàng gia hạn khoản vay cho khách hàng.  Hoạt động của ngân hàng thương mại tạo phương tiện thanh toán Một lý do quan trọng để giải thích tại sao ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức bị kiểm soát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế là vì hoạt động của ngân hàng tạo phương tiện thanh toán. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận: Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn... Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu mới (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa thì toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.  Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử kết nối các quĩ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán hiện đại 6 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 qua ngân hàng được các nhà quản lí áp dụng rộng rãi vì ngân hàng càng đạt hiệu qua cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp nhiều dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Tiền gửi của khách hàng được xem là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng và ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động khác. Vì vậy, để đảm bảo đủ nguồn tiền cho kinh doanh và thu hút được nguồn tiền chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau và luôn tăng cuờng thêm những tiện ích mới. - Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch) Tiền gửi thanh toán là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán là một nguồn 7 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 vốn có mức lãi suất huy động rất thấp (hoặc bằng không), nhưng chi phí đầy đủ cho việc huy động vốn lại khá cao. Một số ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức " biến tướng " của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại hình tiền gửi này nhằm tăng sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. - Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại rất thấp. Để đáp ứng yêu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có thoả thuận về thời gian rút tiền. Người gửi tiền theo hình thức này không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy người gửi tiền không được hưởng nhiều tiện ích bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn. Ngân hàng thương mại luôn lỗ lực cao nhất để gia tăng nguồn vốn này và đây cũng là nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất của ngân hàng thương mại. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Ngân hàng nhận thấy các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Loại hình tiền gửi tiết kiệm ra đời nhằm đáp ứng hai nhu cầu của cá nhân đó là bảo toàn và tăng thu nhập cho số tiền chưa sử dụng đó. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người gửi tiền nhiều trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không được dùng để thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ song nhiều ngân hàng cho phép khách hàng dùng nó để thế chấp vay vốn. Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác, nhưng qui mô nguồn này thường không lớn. 8 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng có thể có được vốn bằng cách vay mượn thêm: - Vay Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương): Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). - Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. -Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. - Vốn nợ khác: Loại này bao gồm nguồn tiền uỷ thác, tiền trong thanh toán và một số nguồn khác. 1.1.2.2. Hoạt động tín dụng Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức. Tín dụng ngân hàng cũng là một hình thức của tín dụng, là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Tín dụng của ngân hàng có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh, cả ngắn, trung và dài hạn. Hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản ở ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của NHTM. Ngân hàng thương mại luôn sử dụng mọi lỗ lực để tăng qui mô tín dụng như mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm là gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi… + Cho vay thương mại Cho vay thương mại là hoạt động cho vay truyền thống của ngân hàng. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là 9 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. + Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một đối tượng khách hàng tiềm năng. Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. + Tài trợ cho dự án Các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên năng động trong việc cho vay trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao, cho vay để đầu tư vào đất. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Phân tích (và thẩm định) dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đang tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản thuê. 1.1.2.3. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán 10 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho ngành ngân hàng phát triển thêm các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ,… 1.1.2.4. Các hoạt động khác Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dich vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Để đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng và căn cứ vào các quy định và khả năng của ngân hàng mà ngân hàng đó triển khai nhiều hay ít các dịch vụ. + Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ: Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. + Bảo quản tài sản hộ: Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két. Dich vụ này phát triển cùng với nhiều dich vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách hàng, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ… + Quản lý ngân quĩ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân quĩ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dich vụ quản lí ngân quĩ. Quản lý ngân quĩ là hoạt động ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư 11 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi hoặc tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. + Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp. + Hoạt động bảo lãnh, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dich vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lí… cũng đã được nhiều ngân hàng triển khai và đã đem lại cho ngân hàng khoản thu phí đáng kể. Để tồn tại và đứng vững được trong môi trường mang tính cạnh tranh cao các ngân hàng đang cố gắng phấn đấu cung cấp thêm nhiều dịch vụ tài chính để thoả mãn các nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các "Bách hoá tài chính". 1.1.3. Ý nghĩa của mở rộng tín dụng DNVVN trong hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng ngày nay đang phải đối phó với những áp lực thay đổi trong quy định, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, sự mở rộng trong xu thế quốc tế hoá thị trường ngân hàng và những đổi mới không ngừng trong trong công nghệ và tự động hoá. Tuy nhiên, các xu hướng kinh tế xã hội mạnh mẽ cũng có vai trò quan trọng không kém đối với tương lai của ngân hàng và nó ảnh hưởng trực tiếp tới cơ sở khách hàng của ngân hàng. Ngày càng nhiều công ty lớn - những khách hàng vay vốn lớn nhất và tốt nhất của ngân hàng - những năm gần đây đã từ bỏ hệ thống ngân hàng để tự huy động vốn, hoặc trực tiếp từ thị trường mở, hoặc thông qua các tổ chức phi ngân hàng (như các công ty chứng khoán và các công ty tài chính). Sự thay đổi cơ cấu đó chẳng những làm giảm doanh thu của ngân hàng trong hoạt động cho vay mà còn đưa tới sự chuyển dịch trong cơ cấu danh mục cho vay 12 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 trong đó các món vay lớn, chất lượng cao trên sổ sách giảm dần và các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ, cho vay tiêu dùng, chất lượng thấp, rủi ro cao lại tăng dần. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một lực lượng lớn của nền kinh tế, có nhiều tiềm năng phát triển. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy đây là khu vực phát triển năng động nhất, tạo ra nhiều việc làm nhất và có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở nước ta mỗi năm có hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, trong đó đại bộ phận là DNVVN. Theo số liệu thống kê năm 2005 tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện có ở nước ta là 160.000 doanh nghiệp chiếm khoảng 96% tổng doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp là rất lớn, nhưng khả năng huy động của doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp có qui mô vốn mô nhỏ, còn nhiều yếu kém trong quản lí và hoạt động, chưa xây dựng được uy tín trên thị trường. Lý luận và thực tiễn cho thấy chỉ những công ty lớn, thiết lập vững chắc mới với tới được thị trường chứng khoán để tài trợ cho các hoạt động của họ. Các doanh nghiệp nhỏ chưa được thiết lập vững chắc hầu như không bao giờ gom vốn bằng cách phát hành các chứng khoán có thể bán được. Như vậy, kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thu hẹp và vì thế tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ chủ yếu cho các hoạt động của doanh nghiệp. Tiềm năng của loại khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được sự quan tâm của các ngân hàng thương mại. Nhiều ngân hàng thương mại hàng đầu đã coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là khách hàng trọng tâm của mình, và đó là một hướng đi đúng. Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNVVN vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ, thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50 - 60% tổng dư nợ như ngân hàng Công thương Việt Nam. Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và 13 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nhỏ là hướng đi tất yếu của các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy nhiên, rủi ro cao hơn của loại khách hàng này là một thực tế. Để đáp lại, ngân hàng phải cải tiến phương pháp trong việc thẩm định và đánh giá các khoản cho vay nhỏ hơn, rủi ro hơn và cung cấp nhiều dịch vụ mới tạo ra các khoản phí mới. Chúng ta sẽ xem xét thêm một số lý do để tìm hiểu tại sao ngân hàng thương mại coi DNVVN là khách hàng tiềm năng và đẩy mạnh mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc tiếp cận vốn ngân hàng của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải là hầu hết các doanh nghiệp đều như vậy. Những khách hàng có nhiều tiềm năng, những dự án khả thi luôn được những ngân hàng tìm kiếm và sẵn sàng cấp vốn, vì chính họ là người đem lại thu nhập cho ngân hàng không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Các doanh nghiệp đó có nhiều sự lựa chọn ngân hàng để phụ vụ cho hoạt động của họ. Tuy vậy, khách hàng thường có xu hướng tiếp tục quan hệ với những ngân hàng mà trước đó họ đã thiết lập quan hệ để tiết kiệm thời gian làm thủ tục, chi phí đi lại,… làm giảm thời giam, chi phí để có đựơc khoản vay. Do đó, càng tiếp cận sớm với doanh nghiệp và xây dựng quan hệ với họ là càng tốt. Hơn nữa, khi đã có một số lượng khách hàng là doanh nghiệp đủ lớn ngân hàng triển khai thêm một số dịch vụ tiện ích phục vụ doanh nghiệp sẽ có khả năng thành công lớn hơn. Vì chính những doanh nghiệp đã quan hệ với ngân hàng sẽ là người sử dụng đầu tiên nếu họ thấy có lợi. Cách thức này rất phù hợp với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam khi mà các dịch vụ ngân hàng còn rất đơn điệu và không ít doanh nghiệp còn chưa biết đến nhiều dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn, như dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, dịch vụ môi giới chứng khoán, quản lý tài sản, vốn đầu tư của doanh nghiệp… Các ngân hàng đang cố gắng khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều dich vụ của mình để tăng thu nhập. Các doanh nghiệp cũng biết rằng sử dụng 14 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 các dich vụ trọn gói của một ngân hàng sẽ có lợi hơn là sử dụng ở các ngân hàng khác nhau vì sự thuận tiện trong giao dịch và còn được hưởng những ưu đãi nhất định. Chính sách tín dụng hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện thiện chí của ngân hàng trong việc tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Việc làm này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch. Tuy dòng tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp không lớn, nhưng lại khá thường xuyên và ngày càng gia tăng theo đà tăng trưởng của doanh nghiệp. Khi trình độ quản lý của doanh nghiệp được nâng lên, doanh nghiệp sẽ phải xây dựng kế hoạch hoạt động của họ một cách chặt chẽ. Lượng tiền chưa đầu tư thường được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi sẽ là một nguồn vốn không nhỏ cho ngân hàng. Mặt khác, thông qua tài khoản giao dịch, tài khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng còn theo dõi được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Cho vay tiêu dùng cũng là một hướng đi tất yếu của NHTM, nếu ngân hàng quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ thì có thể thực hiện dịch vụ mua bán trả góp trong cho vay tiêu dùng thông qua trung gian là doanh nghiệp sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho doanh nghiệp bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lí thu tiền cho ngân hàng. 1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm DNVVN 1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Thông thường để xếp loại qui mô một doanh nghiệp, các quốc gia căn cứ vào những tiêu chuẩn như: số lao động thường xuyên, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị công ty,... Các quốc gia khác nhau, tiêu thức để xếp loại DNVVN cũng khác nhau. Một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng ở nước khác nó lại 15 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 được coi là doanh nghiệp lớn hoặc cực nhỏ. Trên thực tế các nước thường dùng hai chỉ tiêu là vốn sản xuất và số lượng lao động thường xuyên để phân biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Từ trước tới nay, nước ta vẫn sử dụng hai tiêu thức để xếp loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là vốn sản xuất và số lao động thường xuyên. Để phù hợp với tình hình phát triển, phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế thì các tiêu chuẩn giới hạn của mỗi tiêu thức có sự thay đổi. Trước năm 2001, theo quy định của Chính phủ tại công văn số 681/CP_KTN ngày 20/06/1998 thì DNVVN được định nghĩa là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động hàng năm dưới 200 người, tuỳ theo từng lĩnh vực, từng ngành mà có giới hạn riêng cho mỗi tiêu chí. Kinh tế ngày càng phát triển, đồng nghĩa với nó là quy mô các doanh nghiệp cũng ngày càng được mở rộng, những quy định cũ không còn phù hợp nữa. Mở đầu cho chiến lược tổng thể hỗ trợ phát triển DNVVN, nhằm tháo gỡ những rào cản, phát huy tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ - CP quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN. Theo điều 3 của Nghị định này thì " DNVVN là cơ sở sản suất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có qui mô vốn đầu tư không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người". Theo định nghĩa trên thì DNVVN ở nước ta bao gồm: + Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo theo Luật Doanh nghiệp gồm có các loại hình doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. + Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước. + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. + Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp 16 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 + Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/ NĐ - CP + Cá nhân và nhóm sản xuất kinh doanh đăng ký theo Nghị định 66 HĐBT. 1.2.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ Thứ nhất, cũng là đặc điểm đặc trưng nhất của DNVVN là qui mô vốn chủ sở hữu, qui mô sản suất kinh doanh nhỏ, số lượng lao động ít. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và nhỏ, ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn lĩnh vực ngành nghề hoạt động kinh doanh, cơ cấu tổ chức, phương thức sản xuất kinh doanh… của doanh nghiệp. Thứ hai, các DNVVN có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Đa số các DNVVN ở nước ta hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ (chiếm trên 50%) do đây là ngành có vòng quay vốn nhanh, không cần số vốn đầu tư lớn, không cần lao động có trình độ cao, ra nhập và rút lui dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện gia công, lắp ráp… phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp thương mại chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, có kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức cầu lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nên tính cạnh tranh thường rất gay gắt. Thứ ba, để thích nghi với qui mô nhỏ, doanh lợi thấp, các DNVVN thường tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đơn giản, không quá cồng kềnh nhưng hiệu quả. So với các doanh nghiệp lớn thì mối liên kết giữa chủ doanh nghiệp với các nhân viên và giữa các nhân viên với nhau chặt chẽ hơn. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rõ ràng, thậm chí một người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí, nhiệm vụ. Điều kiện mặt bằng cho sản suất kinh doanh của DNVVN thường chặt hẹp, nhiều doanh nghiệp còn dùng nhà ở làm nơi sản xuất kinh doanh, giao dịch, giới thiệu, bán hàng... Thứ tư, nguồn tài chính hạn chế, việc tiếp cận vốn trên thị trường vốn của các DNVVN gặp nhiều khó khăn. 17 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Nguồn vốn của doanh nghiệp chia là hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới (chỉ những công ty cổ phần mới được huy động vốn bằng cách thức này). Nợ của doanh nghiệp từ các nguồn: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu.Vốn góp ban đầu thường chỉ đủ để hình thành nên tài sản cố định cho doanh nghiệp. Tín dụng thương mại là hình thức mua bán trả chậm hay trả góp. Hình thức vay mượn này chỉ mang tính bổ sung tạm thời, qui mô không lớn và chỉ có được từ các đối tác kinh doanh có quan hệ gắn bó tin tưởng lẫn nhau. Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay sửa chữa, mua sắm mới trang thiết bị… doanh nghiệp cần nguồn vốn có tính chất ổn định và mang tính dài hạn. Huy động vốn bằng cách thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu là nguồn vốn dài hạn cho doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ một số loại hình doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu công ty (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hộ kinh doanh không được phép huy động vốn bằng hai hình thức trên). Hơn nữa, các DNVVN chỉ mới được thành lập trong thời gian gần đây, chưa xây dựng được hình ảnh riêng cho công chúng, thông tin về doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chỉ những doanh nghiệp lớn có uy tín mới có thể huy động vốn qua thị trường chứng khoán với mức chi phí thấp, còn những doanh nghiệp nhỏ chưa tạo dựng được uy tín thì rất khó huy động vốn trên thị trường này, nếu huy động được đủ vốn thì chi phí bỏ ra sẽ rất cao. Không chỉ có lý do trên hạn chế doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thị trường chứng khoán, bảo vệ bí mật kinh doanh cũng là một yếu tố được cân nhắc để quyết định có huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán hay không. Nhiều doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong những lĩnh vực mang tính cạnh tranh cao, chủ doanh nghiệp không muốn các đối thủ cạnh tranh biết được chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, nên họ lựa chọn kênh ngân hàng để 18 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 huy động vốn. Từ những phân tích trên cho chúng ta thấy, vay vốn ngân hàng là hình thức tài trợ chủ yếu cho các DNVVN. 1.2.2. Các nghiệp vụ cho vay DNVVN của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn của DNVVN cũng thường cao hơn so các doanh nghiệp lớn. - Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. - Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. - Tín dụng trung hạn: Trên 5 năm chủ yếu tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà ở, cầu, đường , máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu. Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản. 1.2.2.2. Các phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ Trên cơ sơ nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng mà ngân hàng thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp. So với doanh nghiệp lớn các phương thức vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đơn điệu hơn. Phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức và cho vay theo dự án. Các ngân hàng đang thực hiện cho vay đối với DNVVN theo các phương thức sau: 19 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 + Chiết khấu thương phiếu Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và tỉ lệ phí chiết khấu. Nghiệp vụ chiết khấu được dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Do tối thiểu có hai người cam kết cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng - có tính thanh khoản cao). + Cho vay thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả: Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi Hình thức cho vay thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu chi của doanh nghiệp không phù hợp về thời gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào ngân quĩ song không chính xác. Do vậy hình thức cho 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan