Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luật tục với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của vài dân tộc ít người ở việ...

Tài liệu Luật tục với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của vài dân tộc ít người ở việt nam

.PDF
103
120
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN QUYNH Luật tục với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP QUYỀN HÀ NỘI, 2003 Mục lục trang 1 Lời mở đầu Chương 1. Khái quát về Luật tục của một số dân tộc ít người ở Việt 5 Nam 1.1. Khái niệm Luật tục 5 1.2. Nguồn gốc, nội dung và đặc điểm của Luật tục 8 1.3. Vai trò của Luật tục trong đời sống các dân tộc ít người ở Việt Nam 19 Chương 2. Những quy định của Luật tục về bảo vệ tài nguyên và môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam 24 2.1. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong đời sống các dân tộc ít 24 người ở Việt Nam 2.2. Một số quy định truyền thống dân gian về tài nguyên môi trường trong 29 Luật tục 2.3. Tính hiệu quả của Luật tục trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường 34 2.4. Các quy định xác định quan hệ sở hữu các nguồn tài nguyên và môi 35 trong Luật tục 2.4.1. Các quan niệm của đồng bào về vấn đề sở hữu 2.4.2. Sở hữu chung (tập thể) 35 36 2.4.3. Sở hữu riêng 39 2.5. Vấn đề quản lý, bảo vệ , khai thác và sử dụng tài nguyên và môi trường 42 2.5.1. Những quy định của Luật tục về quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên và môi trường mang tính truyền thống dân gian 2.5.2. trường 42 Các quy định của Luật tục về bảo vệ tài nguyên và môi 45 2.5.2.1. Quản lý, bảo vệ và khai thác sử dụng tài nguyên rừng 45 2.5.2. 2. Quản lý, bảo vệ và khai thác sử dụng tài nguyên nước 52 2.5.2.3. Quản lý, bảo vệ và khai thác sử dụng đất đai, sông 57 suối 2.5.2.4. Quản lý, bảo vệ và khai thác động thực vật 61 2.5.3. Một số biện pháp xử lý vi phạm về bảo vệ tài nguyên môi trường trong Luật tục 65 Chương 3. Luật tục và hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam 3.1. Giá trị pháp lý của Luật tục trong mối quan hệ với pháp luật bảo vệ tài nguyên môi trường 3.2. 69 69 Vấn đề kế thừa và duy trì luật tục trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường 75 3.2.1. Sự phát triển của hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường 75 3.2.2. Vấn đề kế thừa và duy trì Luật tục trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên môi trường 80 3.2.3.Một số kinh nghiệm sử dụng tập quán của một số nước trong khu vực và trên thế giới 83 3.3. Một số kiến nghị và giải pháp 85 Kết luận 88 Tài liệu tham khảo 90 Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái là nền tảng cơ bản nhất để con người có thể sinh tồn. Ngay từ khi mới ra đời, con người với thế giới tự nhiên đã trở thành một khối thống nhất không thể tách rời. Có thể nói trong lịch sử tiến hoá và phát triển của mình, con người chưa bao giờ và không thể “bước ra khỏi” môi trường tự nhiên xung quanh mình. Bởi vì, thực chất con người cũng là một sinh vật của tự nhiên mà lại là một loại sinh vật có ý thức. Cho nên, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mãi mãi vẫn sẽ là quan hệ sống còn. Đối với dân tộc ít người ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng thì mối quan hệ đó càng quan trọng hơn, thân thiết hơn. Có thể nói, cho đến nay điều kiện tự nhiên vẫn là một lực lượng to lớn chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào. Tuy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật đã hạn chế và loại bỏ khá nhiều những ảnh hưởng và sự chi phối của điều kiện tự nhiên đến phong tục tập quán và lối sống của đồng bào các dân tộc ít người. Song, đối với các dân tộc ít người và miền núi, nhất là các vùng xa xôi hẻo lánh vẫn chưa thể hoàn toàn tách khỏi những tác động cũng như sự chi phối sâu sắc của điều kiện tự nhiên xung quanh họ. Thực tế hiển nhiên đó đã khiến loài người nói chung và các dân tộc ít người phải có cách ứng xử với tự nhiên một cách hợp lý. Thế ứng xử khôn khéo nhất, thông minh nhất ở đây là tạo ra sự hài hoà giữa con người và thế giới tự nhiên. Để giữ được sự hài hoà đó một cách bền vững, con người đã sáng tạo ra những nguyên tắc, cách ứng xử được gọi là “Luật tục”, được áp 1 dụng trong cuộc sống của đồng bào dân tộc ít người để nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn sự hài hoài giữa con người và thế giới tự nhiên. Nhưng, trong thực tế, những nguyên tắc đó luôn luôn bị vi phạm bởi nhiều nguyên nhân. Thậm chí, những điều khoản cụ thể (nhất là những điều liên quan đến tín ngưỡng) ngày càng bị mờ nhạt đi rồi biến mất hẳn. Thực trạng đó đã dẫn tới sự tôn trọng và những biện pháp bảo vệ tự nhiên ngày càng bị giảm sút. Hậu quả tai hại của thực trạng trên và nhiều lý do khác đã dẫn tới sự suy thoái của môi trường sinh thái - điều kiện sống tối cần thiết của nhân loại. Do khai thác một cách bừa bãi những nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho lợi ích trước mắt của một số người không những đã làm cạn kiệt dần nguồn của cải trong tự nhiên mà còn thúc đẩy nhanh hơn quá trình suy thoái môi trường sinh thái của loài người. Đứng trước nguy cơ trên, từ lâu loài người đã tìm ra nhiều biện pháp nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường sinh thái của mình. Ngoài những quy định chung mang tính quốc tế hay quốc gia như hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường (Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật tài nguyên nước, Luật đất đai...), tuỳ điều kiện cụ thể của từng khu vực, từng địa phương, mỗi dân tộc đều tìm ra những biện pháp bảo vệ môi trường sống của mình cho phù hợp và có hiệu quả. Đối với các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong điều kiện tự nhiên và văn hoá - xã hội cụ thể, đồng bào cũng đã có những biện pháp riêng của mình. Ngoài những quy định của hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường, ở các địa phương, các tộc người đều có những biện pháp bảo vệ riêng của mình mà một trong những biện pháp được coi là có hiệu quả nhất chính là các điều khoản của Luật tục dân gian đã tồn tại hàng ngàn đời nay trong xã hội của họ. Để góp phần tìm hiểu thêm và chắt lọc từ những Luật tục đó những điều khoản hay nhằm giúp cho việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên 2 và môi trường trong xã hội các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay, tôi chọn đề tài: “Luật tục với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam ” để làm luận văn thạc sĩ. 2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau: - Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: sưu tầm, hệ thống và phân loại các nguồn tư liệu đã thu thập được trong thực địa và qua các nguồn tư liệu thư tịch do sách, báo cung cấp. - Tiến hành đối chiếu, so sánh, phân tích và tổng hợp thành những vấn đề liên quan đến đề tài, đồng thời khái quát và nêu bật những nội dung chính của đề tài về cả lý luận lẫn thực tiễn. Từ đó có thể rút ra những vấn đề có giá trị và thích hợp ứng dụng vào thực tiễn bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái của các dân tộc ít người ở nước ta. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng chủ yếu của đề tài này nhằm giới thiệu và phân tích những vấn đề chung nhất về Luật tục và những quy định cụ thể của Luật tục của một số dân tộc ít người ở Việt Nam về vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng chỉ tập trung phân tích vào những quy định của Luật tục bảo vệ thế giới tự nhiên chứ không giới thiệu tất cả Luật tục liên quan đến vấn đề xã hội các dân tộc ít người. Ngoài ra, đề tài còn phân tích những nét cơ bản nhất về Luật tục và hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, có thể khẳng định rằng, Luật pháp nhà nước là rất cần thiết và quan trọng trong sự phát triển đất nước, của cộng đồng dân tộc. Cùng với sự thực hiện một cách đúng đắn và nghiêm chỉnh những quy định của luật pháp do Nhà nước ban hành thì việc duy trì, bảo vệ và phát triển các Luật tục thích hợp về bảo vệ tài nguyên môi trường trong đời sống 3 của đồng bào các dân tộc ít người vẫn được coi là những biện pháp cấn thiết làm cho đất nước, cho cộng đồng phát triển một cách bền vững và lâu dài. 4. Bố cục của luận văn: Trên cơ sở những tư liệu đã có, luận văn được bố cục thành ba chương. Ngoài lời mở đầu, kết luận và phần phụ lục, nội dung luận văn được trình bày như sau: - Chương 1: Khái quát về Luật tục của một số dân tộc ít người ở Việt Nam. - Chương 2 : Những quy định của Luật tục về bảo vệ tài nguyên và môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam - Chương 3 : Luật tục và pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường ở Việt Nam . Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặc biệt là sự hướng dẫn cụ thể của TS. Hoàng Thị Kim Quế. Trong quá trình thực hiện luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo và các bạn quan tâm. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 - 2003 4 Chương 1 Khái quát về luật tục của một số dân tộc ít người ở Việt Nam 1.1. Khái niệm luật tục Hiện nay, khái niệm về Luật tục có nhiều quan niệm khác nhau của các nhà luật học, văn hoá dân gian, dân tộc học… Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu luật học: Luật tục là những phương ngôn, ngạn ngữ diễn đạt bằng lời nói có vần điệu, chứa đựng các quy tắc xử sự, thể hiện, phản ánh quy chuẩn phong tục, tập quán, ý chí, nguyện vọng của cộng đồng bảo đảm thực hiện trong cộng đồng dân tộc ít người, được cộng đồng bảo đảm thực hiện. [45] Đói với các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, các quan niệm của họ lại đi sâu phân tích làm rõ nội hàm của luật tục. Thuật ngữ Luật tục hay tập quán pháp ở Việt Nam có thể gọi với nhiều tên gọi khác nhau, như là "Luật địa phương", "Luật dân gian". Đây là một hiện tượng xã hội phổ quát của nhân loại ở thời kỳ phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến ngày nay với những mức độ khác nhau ở nhiều tộc người trên thế giới, nhất là các tộc người châu á và châu Phi. Luật tục về cơ bản là một hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương về cách ứng xử và quản lý cộng đồng còn tồn tại ở hầu khắp các dân tộc ở nước ta, không kể đó là dân tộc gì, ít người hay đa số [53]. Luật tục là một thuật ngữ chuyển dịch từ "droit coutumier" (tiếng Pháp) và "Customary Laws" (tiếng Anh). Luật tục còn được gọi là "Folk Laws" (luật 5 dân gian). Chúng bao hàm một ý nghĩa chung. Đây là một loại luật được nhân dân sử dụng, lưu truyền trong dân gian, bắt nguồn từ phong tục, gắn liền với phong tục tập quán và khác biệt với luật pháp do Nhà nước ban hành. Nội dung của các điều khoản trong Luật tục được toàn thể cộng đồng xây dựng nên. Hội đồng thi hành Luật tục do nhân dân trực tiếp cử ra và cũng chính tập thể cộng đồng trực tiếp kiểm soát việc thi hành Luật tục, ngăn ngừa những sai phạm và khuyến khích ứng xử tốt [38]. Luật tục là một tác phẩm dân gian có giá trị trong kho tàng văn hoá dân tộc, là sự quy định phép ứng xử của mọi người trong cộng đồng, là sự trừng phạt những tội phạm, là những quy ước về trách nhiệm đối với người đứng đầu và người già, là những điều cần phải làm, là bổn phận của mỗi người trong xã hội, và là những quy tắc để bảo vệ đất đai, rừng núi, nguồn nước, gia súc.... của cả cộng đồng [12]. Luật tục còn gọi là luật dân gian hay luật truyền thống, cũng như các hình thức pháp luật khác thường động chạm đến các lĩnh vực phân chia tài nguyên và quyền lực, bình đẳng và công bằng, trật tự xã hội và hành vi chuẩn mực. Một bộ phận của Luật tục mà trước đây ít được chú ý tới là mối quan hệ giữa Luật tục và quản lý tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là quản lý đất đai. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do chính phủ thường rất tích cực trong việc xây dựng một bộ luật chính thức để kiểm soát việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong khuôn khổ một quốc gia. Sức mạnh pháp lý và sự hiện hữu của pháp luật thường làm lu mờ một thực tế là Luật tục liên quan đến tài nguyên thiên nhiên có tồn tại hoặc nó có thể ảnh hưởng mạnh đến người dân địa phương. Luật tục chỉ là một trong nhiều hệ thống giá trị. Một trong các cách đơn giản để khái niệm hoá luật pháp là phân chia nó thành các hệ thống luật pháp chính: Luật thành văn, luật tôn giáo, Luật tục, luật địa phương hiện hành. Sự 6 phân loại này không có giới hạn hoàn toàn rõ ràng. Một số các quan hệ xã hội chỉ nằm trong giới hạn của một hệ thống luật - như tham gia bầu cử các cấp chính quyền, trong khi các lĩnh vực xã hội khác lại có thể bị tác động cả bởi bốn hệ thống, như vấn đề thừa kế. Các hệ thống luật pháp này luôn biến đổi và đan chéo nhau. Hơn nữa Luật tục hiện hành có thể ảnh hưởng đến việc hình thành pháp luật và pháp luật có thể dẫn đến những sửa đổi trong Luật tục. Có những Luật tục được nhà nước công nhận chính thức trong khi những Luật tục khác không được thưà nhận. Và giữa Luật tục và luật tôn giáo cũng có mối quan hệ như vậy. Nhà nước thường cho rằng pháp luật của mình đứng trên hết các loại luật lệ khác, nhưng ở địa phương, Luật tục hoặc luật tôn giáo, hoặc sự kết hợp cả hai luật này có thể tác động lớn hơn trong việc tổ chức cuộc sống thường ngày của người dân. Luật tục cần phải được nghiên cứu trong bối cảnh đa luật lệ và lĩnh vực nhân chủng học luật pháp đã phát triển tới mức sẵn sàng để nghiên cứu mối tác động tương hỗ giữa các hình thức luật pháp này [25]. Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác về khái niệm Luật tục, nhưng trên cơ sở các quan điểm khác nhau đó, sau một thời gian dài tìm hiểu, nghiên cứu, thảo luận, thông qua tại nhiều cuộc hội thảo quốc tế cũng như trong nước và các cuộc thảo luận chuyên đề, các nhà khoa học nước ta tạm thời chấp nhận khái niệm Luật tục của PGS.TS Ngô Đức Thịnh như sau: "Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, được hình thành trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này qua đời khác bằng trí nhớ qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội, nó hướng đến việc hướng dẫn các quan hệ xã hội, quan hệ con người với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy của Luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống nhất và cân 7 bằng trong mỗi cộng đồng. Luật tục như hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức sơ khai của luật pháp" [58]. Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, đối tượng điều chỉnh của Luật tục là những quan hệ xã hội tồn tại khách quan của đời sống cộng đồng, Luật tục có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Như lĩnh vực tổ chức và quản lý cộng đồng xã hội, lĩnh vực ổn định trật tự an ninh và bảo đảm lợi ích cộng đồng; việc tuân thủ phong tục, tập quán; các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình; lĩnh vực giáo dục nếp sống văn hoá tín ngưỡng; lĩn vực quản lý sử dụng đất đai, bảo vệ sản xuất, tài nguyên môi trường. Và cần được khẳng định luật tục là một bộ phận, một hình thức biểu hiện của phong tục tập quán. Phong tục, tập quán là những thói quen trong suy nghĩ, ứng xử của cộng đồng địa phương hoặc tộc người, được xem là khuôn mẫu, quy tắc chi phối hành vi của các thành viên trong cộng đồng, hình thành, phát triển, khẳng định trong quá trình phát triển của xã hội. Trong phong, tục tập quán có chứa đựng các quy phạm xã hội dưới dạng quy ước, quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng tộc người. Tính cưỡng chế của phong tục, tập quán được thể hiện hoặc ở sự tác động về mặt dư luận, niềm tin, tín ngưỡng của cá nhân của cộng đồng hoặc ở các hình phạt, các biện pháp xử lý do cộng đồng áp dụng đối với người có hành vi vi phạm. Như vậy, Luật tục là một hệ thống các quy tắc xử sự mang tính dân gian, quy định về mối quan hệ ứng xử của con người đối với môi trường tự nhiên và con người với con người trong cộng đồng, thể hiện ý chí của toàn thể cộng đồng, được thực hiện một cách tự giác, theo thói quen, nhưng vẫn có tính cưỡng chế và bắt buộc đối với những ai không tuân theo. Luật tục là những quy định của quần chúng trong cộng đồng đặt ra để điều hoà mối quan 8 hệ của tập thể cộng đồng một cách tự nguyện và dân chủ, không phải là luật lệ do một tầng lớp người đặt ra và thực thi để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. 1.2. Nguồn gốc, nội dung và đặc điểm của Luật tục 1.2.1. Nguồn gốc của Luật tục Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê Nin, từ xưa, trong xã hội nguyên thuỷ chưa có pháp luật, nhưng xã hội cũng cần đến trật tự, ổn định để tồn tại và phát triển. Do đó đã xuất hiện những quy tắc xử sự chung. Đây chính là các quy phạm xã hội bao gồm tập quán và các tín điều tôn giáo. Tập quán xuất hiện một cách tự phát, dần dần được cộng đồng chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung mang tính chất đạo đức và xã hội [60, 209]. Theo quan điểm của thuyết tiến hoá luận, con người là sản phẩm của tự nhiên hay còn được coi là một sinh vật trong giới tự nhiên. Nhưng, ngay từ lúc sinh ra, con người cũng đồng thời là một sinh vật mang tính xã hội hay thường gọi là "sinh vật xã hội". Như vậy, trong bản thân con người tồn tại phần con và phần người (bản năng và ý thức). Để điều chỉnh cuộc đấu tranh giữa phần bản năng và ý thức, loài người ngay từ khi sinh ra đã cần đến những "luật định" mang tính chất nguyên tắc để duy trì sự tồn vong của mình. Những "luật định" đó dần dần đã được thể chế hoá bằng cơ chế tổ chức, có hội đồng để thực hiện việc khen ngợi hoặc xử phạt với đủ sức mạnh để mọi người tuân theo dưạ trên một quyền lực được cả cộng đồng thừa nhận. Xét đến cùng, Luật tục sinh ra cùng với loài người và được bắt nguồn từ cuộc đấu tranh gay gắt giữa bản năng và ý thức để con người ngày càng phát triển hơn. Cuộc đấu tranh đó diễn ra trên phạm vi rất rộng của đời sống xã hội loài người mà tựu chung là thế ứng xử giữa con người với tự nhiên và giữa con người với chính tất cả mối quan hệ giữa con người và con người. 9 Luật tục của các dân tộc ít người ở Việt Nam được hình thành và phát triển nhằm thực hiện chức năng trên, rất đa dạng, đơn giản tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng dân tộc. Theo TS. Lê Hồng Sơn, Luật tục của đồng bào các dân tộc có nguồn gốc ra đời từ xã hội thị tộc mẫu hệ. Trong quá trình tồn tại, phát triển của cộng đồng, các thói quen trong suy nghĩ, ứng xử, các quy chuẩn điều chỉnh hành vi của các thành viên hình thành nên một hệ thống phong tục, tập quán phong phú. Một bộ phận quan trọng nhất, cơ bản, thiết yếu nhất của phong tục tập quán có ý nghĩa sống còn đối với cộng đồng được nâng lên thành Luật tục. Những nội dung này chủ yếu được ghi nhớ chủ yếu dưới dạng không thành văn, được lưu truyền, hoàn thiện dần từ đời này qua đời khác bằng cách truyền miệng mà người có trách nhiệm giữ gìn, hoàn thiện, lưu truyền chính là các già làng, chủ đất, chủ bến nước, thầy cúng, thầy mo…. Là kết tinh, là linh hồn, cốt lõi của phong tục, tập quán. Nội dung của luật tục có tính tổng hợp, chứa đựng các chuẩn mực về phần lớn các quan hệ xã hội hình thành trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng như về chế độ sở hữu, hôn nhân gia đình, giao lưu dân sự, tài nguyên môi trường… Từ sự lưu truyền đó đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước sưu tầm, ghi chép, tổng hợp lại thành một số bộ Luật tục của một số dân tộc hiện nay. 1.2.2. Nội dung của Luật tục Luật tục dù tồn tại ở hình thức nào, nội dung của Luật tục về cơ bản tập trung giải quyết hai vấn đề chính của xã hội loài người là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người. Trong đó, nội dung thứ nhất liên quan đến những quy định về sở hữu tự nhiên (đất đai, rừng núi, sông suối...), bảo vệ và khai thác, phát huy thế mạnh của tự nhiên. Nội dung thứ hai là mối quan hệ giữa con người với con người như về vấn đề hôn nhân gia đình, quan hệ cộng đồng, quy định về tài sản, về những sai phạm... Nói 10 chung, nội dung của Luật tục đã phản ánh được tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của các cộng đồng dân cư đó. Hiện nay, Luật tục của các dân tộc ít người đã được sưu tầm và một số đã được công bố. Qua các bộ Luật tục này chúng ta thấy sự phong phú của nội dung Luật tục. Các bộ Luật tục đều được chia thành những chương quy định về từng lĩnh vực cụ thể. Nội dung quan trọng nhất của Luật tục là duy trì, củng cố quan hệ cộng đồng. Người ta quan tâm đến việc giữ gìn trật tự xã hội, chống tệ ăn cắp, chống việc gây rối... Để cho xã hội yên ổn Luật tục còn chú ý đến việc giữ gìn các phong tục tập quán, các tục lệ... Ngoài ra, vấn đề quan hệ gia đình cũng được quan tâm chú ý. Những điều luật đặt ra chủ yếu nhằm củng cố gia đình là nền tảng tạo nên sự ổn định bền vững cho xã hội. Quy định chặt chẽ về quản lý, bảo vệ và sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đây là môi trường sống chủ yếu của các dân tộc miền núi. Ví dụ: - Luật tục Êđê gồm 11 chương và 236 điều, Luật tục M’nông gồm 8 chương và 215 điều, Luật tục Jrai gồm 15 chương … Nội dung của Luật tục các dân tộc ít người được tập trung vào một số nội lĩnh vực mà các cộng đồng tộc người quan tâm như sau: 1.2.2.1. Về Lĩnh vực tổ chức và quản lý cộng đồng: Các dân tộc ít người thường có những thiết chế xã hội rất cơ bản, đó là những tàn dư của hình thái công xã nguyên thuỷ. Nó vừa là một cộng đồng cư trú, vừa là một tổ chức xã hội và văn hoá. Luật tục có những quy định về mối quan hệ của người có vị trí quan trọng của cộng đồng vơí các thành viên đó là các già làng, trưởng bản, người chủ buôn… và các chế định về những người này thường được Luật tục quy định ở các chương đầu như trong luật tục Êđê quy định các tội xúc phạm đến người đầu làng (33 điều chương II), quy định các tội của người trưởng buôn (11 điều ở chương III). Các tội chống chủ làng ở chương II Luật tục Xrê). Về quan hệ với thủ lĩnh (ở chương II Luật tục 11 M’nông)… ngoài ra còn rải rác ở những điều luật khác quy định về vị trí vai trò của người thủ lĩnh, người chủ làng, buôn, quyền lợi và nghĩa vụ của người đầu làng, buôn, về nghĩa vụ tôn trọng, chấp hành mệnh lệnh của người chủ làng, buôn… 1.2.2.2. Về lĩnh vực ổn định trật tự an ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng: Đây là một nội dung lơn gắn bó thiết thực đối với đời sống của các dân tộc. Nhà nước có Luật hành chính và Luật hình sự để điều chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội này nhưng ở các dân tộc ít người xưa không phân biệt rạch ròi hành chính, hình sự, dân sự, song vẫn có cả một hệ thống các quy định về đảm bảo an toàn, an ninh xã hội. Các mối quan hệ cộng đồng, giữa các thành viên của cộng đồng với nhau, giữa thành viên với cộng đồng chiếm một vị trí quan trọng trong các bộ Luật tục. Như Luật tục Êđe có tới 1/3 số điều quy định về các mối quan hệ cộng đồng (điều 24 - điều 94), Luật tục M’nông 29 điều ở chương III, quy định các vi phạm lợi ích cộng đồng (chương 4 Luật tục Êđê), Quy đinh về trật tự an ninh xã hội (chương 3, Luật tục Jrai), Luật Hit khong của người Thái…. Như vậy, nắm được vị trí, tầm quan trọng của lĩnh vực này các cộng đồng có những quy định rất cụ thể. Họ xác định được mối quan hệ cộng đồng là vấn đề then chốt bảo vệ sự tồn tại và sự vận hành của xã hội cổ truyền. Về cơ bản các quan hệ này còn phù hợp với các quan hệ cộng đồng và xử lý các mối quan hệ cộng đồng hiện nay. Đây là những quy định mang tính tiến bộ cả về nội dung và hình thức, thể hiện ý chí, trách nhiệm của cộng đồng các dân tộc trong việc bảo vệ sự tồn tại và phát triển của đời sống cộng đồng. Đặc biệt là các quy định của Luật tục về các tội gây bệnh truyền nhiễm, tội lang thang, không chịu lao động. Các quy định về khai sinh , khai tử, về cư trú, quan hệ 12 láng giềng, trách nhiệm của cá nhân trước các tai hoạ đe doạ sự bình yên của cộng đồng. 1.2.2.3. Những quy định mang tính hình sự trong luật tục: Luật tục không đưa ra khái niệm hành vi vi phạm, khái niệm tội phạm mà thông qua việc mô tả hành vi vi phạm trong điều luật cụ thể để kết luận một người bị coi là có tội và phải đưa ra xét xử, khi các hành vi do người đó thực hiện thoả mãn những yếu tố của vi phạm đã được điều luật dự liêụ trước. Khai niệm về tội có hầu hết trong các điều luật. Khai niệm này không đồng nghĩa với khái niệm “tội phạm” mà chỉ là sự xác định một hành vi là đúng hay sai luật lệ, đạo đức.Theo quan điểm của luật học, tội phạm chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có phân chia giai cập. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ nó được xem là hiện tượng vi phạm, tiêu cực và được giải quyết bằng ý kiến tập thể với những người có liên quan [43]. Còn về lỗi cũng được các luật tục rất chú ý, khái niệm lỗi ở đây được gắn với ý chí, nhận thức của chủ thể và cũng có sự phân biệt giữa lỗi cố ý và lõi vô ý. Lỗi cố ý: người vi phạm hiểu rõ tính chất và hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn nó xảy ra (Điều 160 Luật tục M’nông). Lỗi vô ý: người vi phạm không nhận thức được tính chất hành vi, hậu quả do mình gây ra (Điều 166 – Luật tục M’nông). Ngoài ta các khái niệm về chứng cứ, khái niệm đồng phạm, về chủ thể vi phạm, các biện pháp xử phạt cũng được thể hiện trong các bộ luật tục của các dân tộc ít người. 1.2.2.4. Vấn đề phong tục tập quán: Vấn đề tuân thủ, tôn trọng các phong tục tập quán trong sinh hoạt đảm bảo tính thống nhất và ổn định của mối quan hệ cộng đồng. Do vậy, trong Luật tục các dân tộc thường dành nhiều điểm quy định về lĩnh vực này. Như Luật tục M’nông có tới 30 điều đề cập đến phong tục tập quán như “tội vi phạm tập quán” , Điều tục lệ ăn uống, 13 Điều tục lệ trang điểm… , Chương V Luật tục Jrai, Luật tục Êđê, Luật tục Thái… Các phong tục tập quán của các dân tộc được bảo vệ trong Luật tục thể hiện ý nghĩa rất lớn của nó đối với đời sống nhằm thiết lập ổn định và trật tự xã hội. Chính nhờ những quy phạm như vậy nên nhiều truyền thống tốt đẹp của họ được lưu giữ và lan truyền. Nhất là khi trong Luật tục những quy phạm thường răn dạy con người sống tốt, sống thiện và sống đúng với đạo đức, với cộng đồng. 1.2.2.5. Lĩnh vực hôn nhân gia đình: Đây là lĩnh vực mà hầu hết các Luật tục quy định rất chặt chẽ, chiếm vị trí cơ bản trong các bộ Luật tục của các dân tộc. Như Luật tục Êđê dành một chương quy định về các quan hệ hôn nhân (Điều 95 đến điều 142, chương V), quy định vè các quan hệ gia đình (từ điều 143 đến 148, chương IV); quy định về hôn nhân và quan hệ gia đình (chương IV, Luật tục Jrai); Quy định về hôn nhân và quan hệ nam nữ (chương V, Luật tục M’nông)… Hôn nhân và gia đình được coi là vấn đề phức tạp và tế nhị nhất trong quan hệ cộng đồng của bất cứ dân tộc nào, Do vậy, các dân tộc đã dành nhièu điều luật để quy định. Luật tục quy định loạn luân là một tội lớn vì các dân tộc rất nghiêm ngặt trong việc bảo vệ và gìn giữ nòi giống. Ngoài ra Luật tục rất quan tâm tới hai lĩnh vực rất quan trọng của đời sống gia đình đó là quan hệ vợ chồng và quan hệ cha mẹ con cái. Như có các điều luật về giáo dục vợ chồng, tội xúi giục vợ hoặc chồng người khác… (Luật tục Êđê); Tội con bỏ cha mẹ không chăm sóc, điều con đánh cha mẹ, điều bán trẻ mồ côi…(Luật tục M’nông). Ngoài ra Luật tục còn đề cập nhiều đến lĩnh vực ngoại tình, gian dâm đây là hiện tượng thường thấy và là nguyên nhân chính phá hoại hạnh phúc gia đình. Có những điều luật xử phạt những người vu khống người khác ngoại tình, thông dâm, dẫn đến mâu thuẫn và tan vỡ gia đình, có những 14 điều luật quy định về chiếm vợ người khác, ngược đãi với vợ con, hành vi phá thai… 1.2.2.6. Lĩnh vực quan hệ dân sự: Quan hệ dân sự theo nghĩa rộng là những quan hệ rất cơ bản trong đời sống cộng đồng. Luật tục của các dan tộc ít người chú trọng hơn về điều chỉnh các quan hệ tài sản và sở hữu tài sản. Tìm hiểu Luật tục có thể thấy các giao lưu dân sự thể hiện qua một số nội dung như xác định quyền sở hữu, thừa kế, mua bán, trao đổi hàng hoá, vay mượn. Chế độ sở hữu luôn là chế đinh trọng tâm của dân luật trong mọi thời đại vì quan hệ dân sự gồm hai nhóm, nhóm quan hệ nhân thân và nhóm quan hệ tài sản. Ba bộ phận hợp lại của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt được phân biệt rõ trong luật tục. Xác lập quyền sở hữu là một nội dung đã đưa vào Luật tục các dân tộc. Quyền sở hữu được Luật tục bảo vệ rất chặt chẽ qua hàng chục điều luật nhất là những điều luật quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu (từ điều 199 - điều 216, Luật tục Êđê). Luật tục quy định về những kẻ giấu thuyền của người khác khi bị nước cuốn đi mà không báo cho chủ thuyền biết (Điều 211, Luật tục Êđê), hoặc điều luật về việc giấu giếm đồ vật bắt được (Điều 213, Luật tục Êđê)… Luật tục còn quy định về các vấn đề như thừa kế, các nguyên tắc cơ bản trong giao lưu dân sự, vấn đề năng lực hành vi dân sự, giao dịch dân sự, bồ thường thiệt hại… 1.2.2.7. Lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Ngoài các quy định về các quan hệ cộng đồng, quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình… vấn đề quản lý, và sử dụng đất đai, bảo vệ nguồn tài nguyên, moi trường cũng được Luật tục các dân tộc đề cập đến rất nhiều. 15 Về vấn đề sở hữu đất đai, đây là vấn đề mà Luật tục có rất nhiều quy định như ở chương XI từ Điều 239 đến 236 Luật tục Êđê. Như các quy định về chăm nom đất đai, không được để mất người chủ đất, quyền lợi của người chủ đất, tội xâm chiếm đất đai… Luật tục Jrai quy định tại điều 7 chương II, phần I tội chiếm đoạt rẫy của người khác; điều về việc tranh chấp đất rừng, đất rẫy (điều 1 chương II phần III). Luật tục M’nông cũng có những quy định về sở hữu như ở chương III, về quan hệ sở hữu, có các điều về tội bán đất rừng: Đất rừng là sở hữu nhiều đời, ai đem bán là có tội. Ngoài ra các vấn đề quản lý, bảo vệ các nguồn tài nguyên, môi trường cũng được các Luật tục quy định rất cụ thể và chặt chẽ, như bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, động thực vật… Tóm lại, Chúng ta thấy, nội dung của Luật tục các dân tộc ít người đẫ đề cập được hầu hết các quan hệ xã hội của cộng đồng, từ những hành vi nhỏ nhất như những điều luật về ăn cắp vặt, chửi bới nhau… đến những hành vi mang tính chất bao quát liên quan đến lợi ích của cả cộng đồng, như có những điều luật về tổ chức và quản lý cộng đồng, bảo vệ nguồn tài nguyên, môi trường, về việc xâm phạm tài sản của nhau,… Nội dung quan trọng nhất trong các bộ luật tục của các dân tộc ít người mà chúng ta thấy là việc duy trì củng cố quan hệ cộng đồng. Họ quan tâm đến việc giữ gìn trật tự xã hội, chống tệ nạn ăn cắp, chống việc gây rối, to tiếng cãi cọ, xô xát. Các điều luật quy định nhiều về các tội phạm về tính dục, về loạn luân cũng là để giữ gìn trật tự và ổn định xã hội. Họ luôn nghĩ rằng hành động ngoại tình gian dâm sẽ gây rối ren trong xã hội, loạn luân sẽ dẫn đến những tai hoạ khủng khiếp như hạn hán, mất mùa, dịch bệnh,... Ngoài ra vấn đề quan hệ gia đình cũng được các Luật tục quy định, quan tâm , bởi vì họ cho rằng gia đình là nền tảng tạo nên sự ổn định bền vững cho xã hội. Do đó phải có nhiều điều luật đặt ra để củng cố gia đình. 16 Đặc biệt các quy định của Luật tục xác định được nhiệm vụ tương hỗ giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ phải có nghĩa vụ, trách nhiệm với con cái, còn con cái cũng phải đối xử ngược lại, phải vâng lời cha mẹ, phải chăm sóc khi cha mẹ già yếu, phải kính trọng ông bà cha mẹ. Một trong những vấn đề cũng không kém phần quan trọng trong Luật tục của các dân tộc là vấn đề quản lý, bảo vệ đất đai, tài nguyên, môi trường. Các lĩnh vực này được gắn liền với cuộc sống hàng ngày của họ, họ phải dựa vào núi rừng, sông suối để sống. Với vị trí vai trò quan trọng như vậy, bắt buộc họ phải có những quy định chặt chẽ về bảo vệ, quản lý, sử dụng các nguồn tài nguyên môi trường. 1.2.3. Đặc điểm của Luật tục Luật tục của các dân tộc ít người có những đặc điểm chung như sau: - Theo PGS.TS Ngô Đức Thịnh [53], Luật tục chưa phải là “luật” và tất nhiên nó cũng không phải hoàn toàn là “tục” mà là hình thức trung gian giữa Luật và Tục, hay nói cách khác nó là hình thức phát triển cao của phong tục, tập quán và là hình thức sơ khai, hình thức tiền pháp luật. Vì vậy hình thức Luật tục này phù hợp với xã hội tiền công nghiệp, phù hợp với các cộng đồng nhỏ hẹp, gắn với từng nhóm tộc người, từng địa phương cụ thể. - Khác với luật pháp, Luật tục cũng là một bộ phận của hệ thống văn hoá cổ truyền, nó ra đời, biến đổi và tham gia điều chỉnh các hành vi của cá nhân và cộng đồng dưới sự tác động của hệ thống xã hội và văn hoá tộc người, nó trở thành tình cảm, lương tâm và trách nhiệm thiêng liêng của mỗi thành viên với cộng đồng mà trước hết là cộng đồng gia tộc, dòng họ, làng xã. Nó không phải là sự áp đặt của hệ thống cai trị đối với mỗi cá nhân, mà là sự tự nguyện, tự giác của mỗi cá nhân với tư cách là chủ nhân của cộng đồng ấy. Đây là một thứ văn hoá có tính pháp luật, thông qua văn hoá để điều chỉnh 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan