Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luật phá sản việt nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố hà nội và phươn...

Tài liệu Luật phá sản việt nam năm 2004 - thực tiễn áp dụng tại thành phố hà nội và phương hướng hoàn thiện

.PDF
87
33186
84

Mô tả:

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI -------***------ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM NĂM 2004: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN Sinh viên thực hiện : Lê Hoàng Mai Lớp : Anh 8 Khoá : 44B Giáo viên hƣớng dẫn : GS.TS. Nguyễn Thị Mơ Hà Nội, tháng 05 năm 2009 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 2004 .................................................................................................... 3 I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .................................................................. 3 1. Khái niệm về phá sản ......................................................................................... 3 1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế ............................................. 3 1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật ............................................... 5 2. Sự tác động của phá sản ..................................................................................... 7 2.1. Về mặt tiêu cực .............................................................................................. 7 2.2. Về mặt tích cực .............................................................................................. 9 II. Pháp luật về phá sản ........................................................................................11 1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản .............................................................11 2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản .......................................................12 2.1 Mục đích của pháp luật phá sản: ....................................................................12 2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản .........................................................................13 3. Một số điểm lưu ý trong các quy định của pháp luật phá sản của các nước trên thế giới:..................................................................................................................18 3.1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản. ...............................................................18 3.2. Thế nào là tình trạng phá sản.........................................................................21 II. Luật phá sản Việt Nam năm 2004...................................................................24 1. Sự cần thiết phải ban hành Luật phá sản năm 2004 .........................................24 2. Những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004 .......................................26 2.1. Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản. .......................................................26 2.2. Điều kiện để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ..27 2.3. Thủ tục tiến hành một vụ phá sản thông thường ............................................28 i CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................34 I. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung và luật phá sản năm 2005 ở Việt Nam .............................................................................34 1. Những thuận lợi và kết quả ..............................................................................34 2. Những khó khăn và bất cập...............................................................................38 2.1. Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp ....38 2.2. Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài .........................................................39 2.3. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp đơn yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể ...40 3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004 ........41 3.1 Tính khả thi của luật không cao .....................................................................41 3.2 Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm ..................................................42 II. Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội ...........................................43 1. Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản các doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra. .................................43 2. Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra .......47 2.1. Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .......47 2.2. Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản ....................................................................................48 2.3. Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra không sát với thực tế. ...........................................................................................48 2.4. Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản50 2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản ..................................................................57 CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 ...............................................59 I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội trong thời gian tới ..................................................................................................................59 1. Cơ sở để dự báo .................................................................................................59 ii 2. Con số dự báo ....................................................................................................61 II. Các giải pháp cụ thể ........................................................................................62 1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004 ..............................................62 1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản ..........................................................62 1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản67 1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục phá sản.................................................................................................................69 1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ..................................................................................................71 2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội ......................................................74 2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.................................................................................74 2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với những doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả ..................................................74 2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản .......................................75 3. Nhóm giải pháp khác.........................................................................................76 3.1. Đối với Toà án .............................................................................................76 3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán ...........................................77 3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội về phá sản để đổi mới nhận thức ..........................................................................78 Kết luận .................................................................................................................79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................80 iii Danh mục các chữ viết tắt 1. LPSDN 1993 : Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 2. LPS 2004 : Luật phá sản năm 2004 3. CHLB : Cộng hoà liên bang 4. TNHH : Trách nhiệm hữu hạn 5. WTO : Tổ chức thương mại Thế giới 6. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ doanh nghiệp yếu kém, khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì những lý do khác nhau mà trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế pháp luật phá sản là một bộ phận không thể thiếu của pháp luật kinh doanh để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến tình trạng làm ăn quẫn bách của doanh nghiệp, tức là khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá sản đầu tiên của nước ta có tên gọi là Luật phá sản doanh nghiệp, được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ tư thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực ngày 1/7/1994. Tuy nhiên, trong hơn mười năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Sau môt thời gian nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục nhược điểm của Luật phá sản doanh nghiệp năm1993 và đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện tại. Luật phá sản mới đã ra đời: Luật này có tên gọi là Luật phá sản năm 2004. Luật phá sản năm 2004 đã được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ năm thông qua, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 và chính thức thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Mục tiêu của Luật phá sản năm 2004 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại mà quan trọng hơn là nhằm tìm kiếm giải pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế, mục tiêu này không phải là dễ thực hiện. Vì vậy, cần phải nắm vững nội dung của Luật phá sản và sự vận dụng đúng đắn những nguyên tắc của Luật phá sản nói chung và những quy định pháp lý có liên quan mới có thể thực thi Luật phá sản một cách có hiệu quả. 1 Đó là lý do để vấn đề “Luật phá sản Việt Nam năm 2004: Thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện” được lựa chọn làm đề tài cho Khoá luận tốt nghiệp đại học này. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ những nội dung cơ bản của Luật phá sản năm 2004 sau khi phân tích thực tiễn áp dụng luật này tại TP. Hà Nội trong những năm qua nhằm làm rõ bất cập và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện; từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp để Luật phá sản năm 2004 có hiệu quả hơn trong thực tiễn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứƣ: Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận là: Luật phá sản nói chung và Luật phá sản Việt Nam năm 2004 nói riêng. Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của Khoá luận giới hạn ở việc phân tích những vấn đề phát sinh từ việc áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: hệ thống hoá, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và nêu nhận xét cá nhân. 5. Kết cấu Khoá luận: Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khoá luận bao gồm ba chương: Chƣơng 1: Tổng quan về phá sản, pháp luật phá sản và Luật phá sản năm 2004 Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP Hà Nội và những vấn đề đặt ra. Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường khả năng thực thi Luật phá sản năm 2004. 2 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM NĂM 2004 I. Khái niệm và đặc điểm của phá sản 1. Khái niệm về phá sản 1.1 Phá sản theo các cách tiếp cận từ góc độ kinh tế Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới đã cho thấy rằng, phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Điều này giải thích tại sao, phá sản là hiện tượng bình thường, phổ biến trong nền kinh tế thị trường nhưng lại rất xa lạ với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Phá sản là khái niệm chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp, tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của thương gia. Về phương diện ngôn ngữ, hiện có khá nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái niệm này. Ở châu Âu khi nói đến phá sản người ta hay dùng danh từ “Bankruptcy” trong tiếng Anh hoặc “Banqueroute” trong tiếng Pháp. Cả hai từ này đều bắt nguồn từ chữ “Banca Rotta” của La Mã có nghĩa là “chiếc ghế bị gẫy”1. Vào khoảng thế kỷ VII, tại La Mã các thương gia của một thành phố thường họp nhau lại để xem xét việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất quyền tham gia Đại hội thương gia và chiếc ghế ngồi của họ theo đó cũng bị đem ra khỏi hội trường. Như vậy, “Banca Rotta” (chiếc ghế bị gẫy) được quan niệm như là một biểu tượng của việc mất khả năng thanh toán. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, con người làm ra sản phẩm tự phục vụ, tự đáp ứng nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có hiện tượng phá sản. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh TS. Trương Hồng Hải, Luận án tiến sĩ: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh và phương hướng hoàn thiện”, tr38-40 1 3 từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, còn ngược lại nếu lỗ thì được Nhà nước bù lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này hoạt động kém hiệu qủa, lãi giả, lỗ thật, nợ nần chồng chất. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp này bằng cách hoãn nợ, xoá nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính hành chính như giải thể, sáp nhập… Vì vậy, doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế bao cấp không bị mất khả năng thanh toán và do đó hiện tượng phá sản cũng không xảy ra. Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng kinh tế-xã hội tồn tại khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản được lý giải bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất, mặc dù có đời sống ngắn dài khác nhau nhưng doanh nghiệp luôn có một vòng đời nhất định: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn vinh và suy thoái. Cũng giống như một cơ thể sống, hàng triệu tế bào liên tục được sinh ra và chết đi. Và trong nền kinh tế thị trường hàng chục triệu doanh nghiệp được sinh ra, và trải qua nhiều giai đoạn cũng đến lúc tàn lụi, đó là lúc doanh nghiệp phá sản. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của sự vật, hiện tượng. Thứ hai, nền kinh tế thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà kinh doanh. Những doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải mạnh và phải đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động, linh hoạt nắm bắt được các quy luật kinh tế và chiếm lĩnh thị trường. Và dĩ nhiên các công ty nhỏ, không đủ sức cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng phá sản. Một doanh nghiệp phá sản có thể do nhiều nguyên nhân, cũng có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan tác động. Nguyên nhân khách quan như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, động đất, hay sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh…Ngoài ra, nguyên nhân chủ quan như năng lực quản lý, lãnh đạo công ty, chiến lược kinh doanh,…nhiều khi cũng là nguyên nhân của các vụ phá sản doanh nghiệp. 4 Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hệ quả kinh tế-xã hội nhất định. Ví dụ, sự phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất, thu nhập của một bộ phận lớn người lao động. Song sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Sinh- Tử, Thành lập- Phá sản là những quy luật của cuộc sống doanh nghiệp và thị trường. Một trong những quy luật cơ bản của triết học là quy luật phủ định của phủ định, phá sản cũng chính là sự phủ định cần thiết để kinh tế có bước phát triển cao hơn. Tóm lại, nhìn từ góc độ kinh tế, phá sản là một thuật ngữ chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ, quẫn bách đến mức không thể trả được các món nợ dù có bán hết mọi tài sản hiện có. Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường. 1.2 Phá sản theo cách tiếp cận từ góc độ pháp luật Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã rất được Nhà nước tôn trong, đề cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành lập doanh nghiệp; quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh; quyền tự do lựa chọn ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong khi hành nghề; quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế; quyền tự do lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp; quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Như vậy, tự do cạnh tranh như một bộ phận cấu thành rất quan trọng của quyền tự do kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc chiến khác, cuộc chiến giữa các nhà kinh doanh cũng mang lại những hậu quả nhất định cho bên thua cuộc: Phá sản. Xét trên quan điểm của pháp luật mà nói thì Phá sản cũng là một quyền của doanh nghiệp và đã là quyền thì được pháp luật bảo vệ. 5 Thêm vào đó, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì luôn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít gây ra hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung. Muốn thực hiện được các mục tiêu này thì Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc mà phải can thiệp bằng cách ban hành pháp luật để xử lý một loạt các vấn đề liên quan đến việc doanh nghiệp mắc nợ. Ví dụ, Nhà nước phải quy định khi nào và với điều kiện gì thì một doanh nghiệp con nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản; ai có quyền làm đơn yêu cầu việc giải quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước có nghĩa vụ giải quyết việc phá sản; thủ tục Toà án thụ lý và giải quyết vụ phá sản; cơ chế quản lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản; thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; tài sản phá sản gồm những gì; khi giải quyết phá sản thì có những tài sản nào của con nợ không được đem chia cho các chủ nợ; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản; con nợ có phải tiếp tục trả cho các chủ nợ các khoản nợ còn thiếu chưa được trả hay không, v.v … Tất cả những vấn đề đó cần phải được Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật mà giải quyết một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lý. Tổng hợp những văn bản pháp luật này tạo thành một lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà xương sống của nó là Luật Phá sản. Tóm lại, vì có phá sản nên phải có pháp luật về phá sản và pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về dấu hiệu của tình trạng phá sản; điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý); địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản; trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản; thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể. Nói cách khác từ góc độ pháp luật, khi một thương gia, một doanh nghiệp bị phá sản thì theo quy định của pháp luật Toà án sẽ tuyên bố thương gia, doanh nghiệp đó 6 bị phá sản. Tuyên bố phá sản là một thủ tục pháp lý bắt buộc với những quy trình, những bước cụ thể đã được pháp luật ấn định. Với cách tiếp cận này “tuyên bố phá sản là thủ tục thanh toán tài sản của con nợ bị phá sản để trang trải cho các chủ nợ bị liên quan” 2. Do đó, về mặt pháp lý, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, hàng loạt các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và kéo theo những hậu quả pháp lý khác nhau cho những người liên quan. 2. Sự tác động của phá sản Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nó là hiện tượng kéo theo những hệ quả kinh tế xã hội nhất định và tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội và pháp luật. 2.1. Về mặt tiêu cực Phá sản thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động. Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề nổi cộm được các quốc gia quan tâm và tìm cách hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp nhưng không có nguyên nhân nào khiến số người đang lao động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp nhiều và nhanh chóng như nguyên nhân phá sản. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc làm, mất thu nhập ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, miếng cơm manh áo của chính bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này các quốc gia cần có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất nghiệp, trả lương bảo hiểm, giúp họ tìm công việc khác… Bên cạnh những tác động trên, phá sản còn có nhiều tác động xấu đến sự phát triển kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền- người không GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết (2005), Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 115. 2 7 bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất ( nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ)… Thêm vào đó chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản không đòi được nợ dẫn đến thiếu vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc trang trải cho các khoản nợ mà họ vay từ chủ nợ khác. Đặc biệt nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn thì sự tác động của nó tới nền kinh tế là rất tồi tệ. Nói đến tác động tiêu cực của phá sản phải nói đến hai vụ phá sản điển hình trong lĩnh vực tài chính, một của Nhật Bản, một của Mỹ: Thứ nhất là trường hợp Ngân hàng SFCG (Nhật Bản) đệ đơn xin phá sản ngày 23/2/2009. Ngân hàng SFCG là ngân hàng chuyên cung cấp vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản. Đây là vụ phá sản lớn nhất ở Nhật kể từ tháng 3/2002 sau vụ sụp đổ của nhà thầu xây dựng Sato Kogyo với số nợ 450 tỷ Yên. Ngân hàng đang phải chịu một khoản nợ là 338 tỷ Yên, và phải đi vay nợ rất nhiều từ các ngân hàng ngoại quốc trong đó có đại gia Citigroup. Tính tới 31/7/2008 SFCG nợ Citigroup 31 tỷ Yên. Sự phá sản Ngân hàng SFCG cũng đồng nghĩa với việc 109 chi nhánh bị đóng cửa và 1.528 nhân viên bị mất việc 3. Thứ hai là vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ đã làm chấn động thị trường toàn cầu. Lehman Brothers (thành lập năm 1850 bởi ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman người Do Thái từ Đức di cư sang) là một tập đoàn chứng khoán và tập đoàn ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Lĩnh vực chính của tập đoàn là ngân hàng đầu tư, buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, nghiên cứu thị trường, quản lý đầu tư, và ngân hàng tư nhân. Tập đoàn đặt trụ sở chính ở Thành phố New York, và hai trụ sở khác ở London và Tokyo, cũng như nhiều văn phòng đại diện khắp thế giới. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tập đoàn tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ đôla Mỹ sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nguồn gốc của vụ phá sản này 3 Website của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: http://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=6186&Itemid=31 8 là từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Những năm đầu của thập niên 2000, BNC Mortgage - một công ty con của Lehman Brothers - đã tích cực cho vay thứ cấp đối với các dự án nhà ở. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã làm công ty này thua lỗ nặng. Lehman Brothers đã quyết định đóng cửa công ty con này của mình vào tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên không chỉ riêng BNC Mortgage mà cả tập đoàn Lehman Brother đều tích cực tham gia cho vay nhà ở thứ cấp. Việc chứng khoán hóa các khoản cho vay không gặp thuận lợi bởi lãi suất không hấp dẫn. Đến năm 2008, công ty lỗ nặng chưa từng thấy. Kết quả là riêng trong nửa đầu năm 2008, cổ phiếu của Lehman Brothers mất giá tới 70%. Lehman Brothers phá sản đồng nghĩa với việc có khoảng 26.200 nhân viên bị mất việc. Nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng dao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 4. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp. 2.2. Về mặt tích cực Dưới một cách nhìn khác, phá sản cũng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại” nền kinh tế, có thể ví phá sản như dọn vườn, dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển. Phá sản góp phần hình thành, duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp còn đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Phá sản góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả ra khỏi nền kinh tế và giữ lại những doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã 4 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml 9 chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem lại kết cục nghiệt ngã cho các doanh nghiệp yếu hơn nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh tế thị trường mà ở đó lợi nhuận là trung tâm còn cạnh tranh là động lực. Bên cạnh tác động trên, phá sản chưa phải là dấu chấm hết đối với một doanh nghiệp. Trên thế giới đã chứng kiến nhiều nhà đầu tư thành công từ những doanh nghiệp phá sản. Dưới đây là hai vụ phá sản điển hình của hai công ty đại chúng ở Mỹ minh chứng cho luận điểm trên: Thứ nhất là Công ty Kmart, một trong những hãng bán lẻ giá rẻ đầu tiên ở Mỹ, nộp đơn xin phá sản vào tháng 1/2002 sau khi doanh số và lợi nhuận sụt giảm, khiến công ty rơi vào tình trạng kẹt tiền mặt nghiêm trọng. Trái phiếu doanh nghiệp do Kmart phát hành không còn bán được nữa, trong khi các nhà cung cấp lưỡng lự giao hàng nhận tiền sau. Kmart coi suy thoái kinh tế Mỹ năm 2001 và sự cạnh tranh của các đối thủ khác là lý do dẫn tới khó khăn của hãng, nhưng trên thực tế là hãng không còn đủ sức hấp dẫn với người tiêu dùng. Trong quá trình phá sản, Kmart đóng cửa hàng trăm trong số khoảng 2.000 cửa hàng của mình - một hoạt động thường gặp trong trường hợp phá sản của các hãng bán lẻ. Bên cạnh đó, hãng còn cắt giảm việc làm, hợp nhất các văn phòng và thanh lý hàng tồn kho. Một nhà đầu tư là Eddie Lampert nhận thấy giá trị hấp dẫn ở nhiều tài sản bất động sản của công ty này nên đẩy mạnh mua vào trái phiếu của hãng. Sau khi Kmart hoàn tất quá trình phá sản kéo dài 455 ngày, Lampert trở thành chủ tịch của hãng. Ở vai trò này, Lampert đã bán phần lớn những tài sản bất động sản có giá trị nhất của Kmart, và sau đó, sáp nhập Kmart với hãng bán lẻ Sears vào năm 2004. Vụ sáp nhập trị giá lên đến 12,3 tỷ USD này đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và của Kmart lên 16% không lâu sau khi vụ sáp nhập công bố. Và kể từ ngày Kmart tự đứng dậy sau khi phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% tính đến mùa xuân 2005. Như vậy, bằng cách sáp nhập Công ty Kmart đã tìm lại được vị trí của mình sau khi tuyên bố phá sản. 10 Thứ hai là hãng hàng không Continental Airlines của Mỹ thì từng phá sản tới 2 lần, vào các năm 1983 và 1990. Đầu thập niên 1980, do phải đối mặt với suy thoái và sự nới lỏng giám sát trong ngành hàng không Mỹ, Continental rơi vào một cuộc chiến với các tổ chức công đoàn trong chuyện giảm tiền công và buộc phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Vào năm 1990, Continental lại phá sản tiếp lần nữa. Tuy nhiên, lần này, hãng phá sản vì những lý do khác. Giá nhiên liệu tăng cao cộng với nợ nần chồng chất vì chiến lược mua lại - “tác phẩm” của vị Chủ tịch đã phá vỡ thỏa thuận với công đoàn cách đó gần 1 thập kỷ - đã khiến Continental không còn lựa chọn nào khác. Vài tháng sau khi nỗ lực hết sức để thoát nguy cơ phá sản, chẳng hạn bán một số tuyến bay quốc tế cho hãng Delta, không đem lại kết quả, Continental lại nộp đơn lên tòa án xin tuyên bố phá sản. Vì mục tiêu của Luật phá sản Mỹ là tái tạo lại doanh nghiệp bằng cách cho phép doanh nghiệp, cá nhân đang ở trong tình trạng vỡ nợ có thể nộp “đơn xin bảo hộ phá sản”. Khi đó, các doanh nghiệp cá nhân này được phép hoàn nợ trong vòng 5 năm nên với đơn xin phá sản giúp Continental tiếp tục hoạt động, một phần do tòa án buộc các hãng hàng không là đối tác của Continental duy trì thực hiện nghĩa vụ đối với hãng hàng không này, trong khi Continental có thể từ chối thanh toán cho các chủ nợ. Hai năm rưỡi sau khi phá sản, Continental trở thành một hãng hàng không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới. Với hai ví dụ nêu trên, có thể thấy phá sản, ở một chừng mực nhất định, do những tác động của Pháp luật phá sản thông qua sự hỗ trợ tích cực của Toà án, nhiều doanh nghiệp đã phục hồi hoạt động kinh doanh, được tái tạo lại tốt hơn và do đó hoạt động hiệu quả hơn trước. II. Pháp luật về phá sản 1. Sự cần thiết phải có pháp luật phá sản Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp khổng lồ, các đơn vị kinh doanh 11 không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình này có thể nhận thấy khi các doanh nghiệp "vượt rào", ngày càng giành lấy nhiều quyền tự chủ trong hoạch định và tổ chức kinh doanh. Cùng với sự gia nhập của đầu tư nước ngoài, sự tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa, vai trò của Nhà nước với tư cách là một chủ đầu tư chịu trách nhiệm hữu hạn trong các doanh nghiệp Nhà nước mới dần dần hiện rõ. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu điều tiết vỡ nợ các đơn vị kinh tế vốn thuộc quyền quản lý của Nhà nước mới trở nên cấp bách. Đáng lưu ý: nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá sản trong các quốc gia chuyển đổi chính là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ hàng loạt khi bước vào cạnh tranh với một tư thế thiếu năng động so với khu vực kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài. Năm 1986 Trung Quốc ban hành một đạo luật phá sản, chỉ áp dụng riêng cho khối doanh nghiệp Nhà nước. Vì thế, đối với nhiều quốc gia như ở Liên Xô cũ, Trung và Đông Âu và Việt Nam, pháp luật phá sản trước hết được dùng như một công cụ tái cơ cấu, giải quyết sự vỡ nợ hàng loạt của các doanh nghiệp Nhà nước đang chuyển đổi sang các hình thức doanh nghiệp khác. Ngoài ra, như đã nói ở trên, phá sản là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường nên việc một công ty bị phá sản ảnh hưởng đến nhiều đối tượng liên quan, gây ra nhiều tác động đối với các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy cần thiết có một đạo luật điều chỉnh về vấn đề này. Đó là lý do cho thấy sự cần thiết khách quan phải có pháp luật về phá sản như là một lĩnh vực pháp luật độc lập. 2. Mục đích và vai trò của Pháp luật phá sản 2.1 Mục đích của pháp luật phá sản: Mục đích chính của pháp luật phá sản ở hầu hết các quốc gia là chính phủ muốn tạo lối thoát nhân đạo cho những doanh nghiệp lâm vào tình trạng tài chính khó khăn, hoặc không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, tuỳ theo luật pháp từng nước mà pháp luật phá sản còn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động. 12 2.2 Vai trò của Pháp luật phá sản 2.2.1. Pháp luật phá sản là công cụ pháp lý bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh nghiệp nào có thể tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Toà án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Toà dân sự, Toà kinh tế nhiều khi không thể giải quyết được một cách thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục phá sản. Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi nợ được bảo đảm bằng việc Toà án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Mặc dù ngày nay, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục tiêu giúp doanh nghiệp con nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh. Từ khi có Luật phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ. Pháp luật phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản (Điều 13, LPS 2004), quyền khiếu nại Danh sách chủ nợ (Khoản 2, Điều 52, LPS 2004), quyền có đại diện trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản (Khoản 1, Điều 83, LPS 2004), quyền đề xuất, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ (Điều 70,71 13 LPS 2004), quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản (Khoản 1, Điều 91, LPS 2004), v.v... 2.2.2. Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, tạo cơ hội để con nợ rút khỏi thương trường một cách trật tự. Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả phạt tù. Ví dụ, Luật phá sản đầu tiên của Anh năm 1542 quy định “phải treo cổ tất cả con nợ” để răn đe các thương gia làm ăn thua lỗ. Ngày nay, quan niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với nhà kinh doanh. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lựa chọn, áp dụng nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phục hồi lại khả năng kinh doanh của mình. Đặc biệt ở Mỹ, pháp luật phá sản nước này rất khoan hồng đối với các cá nhân và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Đối với cá nhân chúng ta thì có hai loại phá sản: Loại thứ nhất được quy định tại chương VII cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ- hầu hết các khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài 14 sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình; Loại thứ hai được quy định tại chương XIII cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá hạn mà không bị mất tài sản thế chấp. Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại chương XI khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định về phá sản trên thế giới, luật pháp Mỹ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ. Ở Việt Nam, pháp luật phá sản cũng đã được xây dựng theo khuynh hướng này. Cụ thể là, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và gần đây là Luật Phá sản 2004 đã không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể thấy qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết theo một thủ tục chung duy nhất do Toà án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng phá sản để trở lại hoạt động bình thường, mà không quy định bắt buộc Toà án phải tuyên bố phá sản ngay khi có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua (Điều 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan