Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY...

Tài liệu Luận văn YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY

.PDF
104
359
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------------ VŨ ÁNH TUYẾT YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------------------------ VŨ ÁNH TUYẾT YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG THÁI NGUYÊN - 2008 1 Phần 1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể sáng tác truyện thơ hay đến vậy. Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn. Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông quan tâm chú ý. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh trong nhà trường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 2. Lịch sử vấn đề Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao, dân ca với những đặc điểm thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình trước những vấn đề xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca cùng các vấn đề xung quanh nó từ lâu đã được khoa lịch sử văn học soi sáng, phân tích dưới nhiều góc độ: Chủ đề, tư tưởng, đề tài, thi pháp, ngôn ngữ… Tuy nhiên về mặt loại hình còn có thể đi sâu hơn nữa về một đặc điểm góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu này. Đó là yếu tố tự sự và sự xâm nhập mạnh mẽ của nó vào trong ca dao, dân ca. Đây có thể nói là một vấn đề độc đáo nên từ lâu đã thu hút được sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này có thể kể đến những ý kiến, bài viết sau: Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên: “...Khác với phong cách của nhiều tác phẩm thơ ca trữ tình, trong văn học thành văn, phong cách của ca dao, dân gian trữ tình biểu lộ khá rõ rệt xu hướng kể chuyện, nghĩa là xu hướng miêu tả tình cảnh không chỉ qua tâm trạng mà còn qua cả hành động nhân vật nữa” [492, 16]. Về đặc điểm của yếu tố tự sự, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Lê Trường Phát đã gián tiếp kể ra trong khi viết về lối kể chuyện. Tìm hiểu về lối kể chuyện trong ca dao, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị rất chú ý tới phân biệt kể chuyện - trữ tình với kể chuyện - tự sự. Nét khác biệt giữa hai loại này chung quy gồm mấy đặc điểm sau: “1. Trong ca dao (ở đây đang nói về ca dao kể chuyện) nhân vật trữ tình kể chuyện mình, còn trong vè, câu chuyện về nhân vật (tất nhiên là nhân vật tự sự) lại do người khác kể lại. 2. Câu chuyện được kể trong ca dao là chuyện tâm tình - đó là nỗi niềm được kể nhiều hơn là câu chuyện được thuật lại” [207, 31]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Cũng giống như nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, nhà nghiên cứu Lê Trường Phát trên cơ sở viết về lối kể chuyện, đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất của những bài ca viết theo lối này: “Trong bài ca dao kể chuyện tuy cũng có sự nhưng nổi lên bình diện thứ nhất việc kể và tả là “tình” là nỗi niềm của nhân vật (và là nhân vật trữ tình). Ở đây câu chuyện đựơc kể không cần mang vẻ ngoài của nó như trong thực tại, điều đáng chú ý hơn cả vẫn là những cảm xúc tâm lí của nhân vật trữ tình phản ứng lại những biểu hiện, những vẻ ngoài của sự việc.” [139, 26]. Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy lối kể chuyện mà hai nhà nhà nghiên cứu trên đề cập tới có nội hàm rất gần với yếu tố tự sự trong ca dao. Do vậy, những ý kiến nhận định trên là những gợi ý quan trọng và quý báu cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài. Về các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự, dù chỉ nghiên cứu ở mức độ khái quát nhưng trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao”, Phạm Thu Yến đã bước đầu chỉ ra rằng yếu tố tự sự xuất hiện trong ca dao có những dạng thức biểu hiện khác nhau. Trong bài viết: “Học viết truyện ngắn trong ca dao cổ” Vũ Tú Nam qua việc phân tích bài ca dao “Mình ta nói với ta mình hãy còn son” đã chỉ ra những “đức tính” cần có của một truyện ngắn. Cũng trong bài viết này tác giả đã nêu một cấp độ biểu hiện của yếu tố tự sự trong ca dao: Cấp độ có cốt truyện. Riêng bàn về “sự” và “tình”, Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra một cách rất hình ảnh cũng khá cụ thể mối quan hệ giữa hai yếu tố này: “Có thể nói “sự” là thể xác “tình” là linh hồn của ca dao. Muốn lập ý, diễn tình và cấu tứ nói chung phải nhờ đến “sự”. Mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời thì sẽ mất hết nội dung, ý nghĩa, chẳng là cái gì cả. Nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ, tứ cũng khó mà hình thành, cho nên chỉ có thể nói “sự” là cơ sở, là điểm tựa của tư tưởng tình cảm trong ca dao”[32, 34]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Tổng hợp các ý kiến trên, dễ nhận thấy có một điểm chung là từ cách gọi tên cho đến nội dung vấn đề được đưa ra, các nhà nghiên cứu mới chỉ gián tiếp nhắc đến yếu tố tự sự và cũng chỉ nhắc đến một khía cạnh nào đó của yếu tố này trong ca dao mà chưa tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể vấn đề này. Với bài viết “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Nguyễn Bích Hà đã bước đầu nhìn nhận, tìm hiểu yếu tố tự sự trên một số phương diện: Các dạng thức biểu hiện, đặc điểm vai trò của nó trong ca dao nói chung. Tuy nhiên do dung lượng có hạn của bài báo nên bài viết còn khá khái quát, chưa đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này. Trên đây là một số bài viết về yếu tố tự sự trong kho tàng ca dao người Việt. Dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những kết quả nghiên cứu trên thật sự là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Bên cạnh mảng ca dao người Việt, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến việc tìm hiểu sự hiện diện của yếu tố này trong kho tàng dân ca của các dân tộc anh em khác. Có thể kể đến một số bài viết sau: Trong khi tìm hiểu về “Đặc điểm kết cấu dân ca Hmông”, tác giả Phạm Thu Yến nhận định rằng: “Một đặc điểm rất quan trọng, khi quan sát kết cấu dân ca Hmông là các bài dân ca này dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật, kể lể, phô diễn đậm nét hơn” và “Dân ca Việt, dân ca Trung Quốc kết cấu thường ngắn, gọn, các yếu tố cốt truyện không rõ như dân ca Thái, dân ca Hmông có nhiều bài rõ yếu tố cốt truyện, đôi chỗ còn có lời trần thuật của người dẫn truyện” [60, 39]. Tìm hiểu về dân ca trữ tình Thái, tác giả này cũng cho rằng: “Một đặc điểm dễ nhận thấy ở dân ca Thái là chất trữ tình kết hợp hài hòa với lối tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Thái vừa giản dị, hồn nhiên vừa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 lãng mạn, thơ mộng. Một bài dân ca Thái thường kể về một tình huống, diễn tả tâm trạng, nhiều khi như kể cả câu chuyện có lời thoại, tả cảnh, tả tình” [153, 39]. Riêng về dân ca sinh hoạt của người Tày, đối tượng mà đề tài hướng tới, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng có sự tham gia của yếu tố tự sự. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng đã khẳng định rằng: “Sli, lượn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa nam nữ thanh niên, nhưng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự sự” và “chính do hình thức diễn xướng nối tiếp này mà các bài lượn trữ tình vẫn mang hơi thở của thể loại tự sự” [193, 14]. Tìm hiểu về “lượn sách”, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cũng khẳng định: “Loại lượn này mặc dầu được trình bày trong các cuộc sli, lượn nhưng lại mang yếu tố tự sự đậm đà hơn tính trữ tình” [49, 33]. Như vậy, dù trong kho tàng ca dao người Việt hay ở bộ phận dân ca sinh hoạt của người Tày, trên cấp độ loại hình, cần nhận thấy có sự xâm nhập mạnh mẽ của yếu tố tự sự vào loại hình tưởng như đối lập với nó về phương thức biểu hiện - loại hình trữ tình dân gian. Nhưng cho đến nay vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, những nhận định của nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu một cách tương đối toàn diện về yếu tố tự sự trong điệu hát dân ca trữ tình Tày. Từ đó chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó trong việc biểu lộ cảm xúc trữ tình của những cư dân nói tiếng Tày. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua việc tìm hiểu đề tài, luận văn sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca sinh hoạt của người Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Xác định một khái niệm chung nhất về yếu tố tự sự. - Từ khái niệm ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Tày để tìm ra những lời ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự và tiến hành phân loại chúng. - Trên cơ sở những số liệu cụ thể mà kết quả khảo sát đem lại, chúng tôi tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra một số đặc điểm cơ bản và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca Tày. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các lời dân ca sinh hoạt của người Tày có sự hiện diện của yếu tố tự sự. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Các lời dân ca Tày đã được sưu tầm và biên dịch trong một số cuốn sách sau: 1. Ca dao Tày Nùng, Triều Ân (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu, Nxb Văn học. 2. Lượn slương, Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm, dịch, Nxb Văn hoá dân tộc. 3. Phong Slư, Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên soạn và dịch thuật, Nxb Văn hóa dân tộc. 4. Đồng dao Tày, Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên soạn, Nxb Văn hoá Dân tộc. 5. Lượn cọi Tày - Nùng, Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Nxb Văn hóa dân tộc. 6. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng, Hoàng Thị Quỳnh Nha (2003), Nxb Văn hóa - Thông tin. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 7. Lượn Tày Lạng Sơn, Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Nxb Văn hoá Dân tộc. 8. Lượn cọi, Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Nxb Văn hoá dân tộc. Và một số bài dân ca sinh hoạt của người Tày được tuyển chọn, phiên âm, biên dịch in trong các hợp tuyển, tổng tập văn học. 5. Phương pháp nghiên cứu Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Bởi vậy, với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp sau là cơ bản: - Phương pháp thống kê, hệ thống. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích, khái quát hoá. - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. 6. Đóng góp của luận văn Hoàn thành đề tài, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Khái quát về tộc người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. Chương 2: Các dạng thức tồn tại của yếu tố tự sự trong dân ca Tày. Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Phần 2: NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI TÀY, VĂN HỌC DÂN GIAN TÀY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái quát về tộc người Tày và văn học dân gian Tày 1.1.1. Khái quát về tộc người Tày Tày là tên gọi từ lâu đời dùng để chỉ chung người dân tộc ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này đã có từ nửa cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Ngoài tên gọi này, người Tày còn được biết đến bởi các tên Thổ, Cần Shín, Khay, Táy... Cùng với người Việt, người Mường... ở Việt Nam, người Tày đã có mặt từ xa xưa gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước. Tính đến năm 1995, dân số Tày ở nước ta vào khoảng 1,2 triệu người, đứng vị trí thứ nhất trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Việt bắc,trên địa bàn các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn... đặc biệt là Cao Bằng (75% dân số tỉnh Cao Bằng). Tìm về cội nguồn lịch sử, người Tày còn thuộc nhóm Âu Việt trong khối Bách Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc. Vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày - Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt - Mường) thành lập nên vương quốc Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là An Dương Vương Thục Phán. Địa bàn quốc gia Âu Lạc là Bắc Bộ và Trung Bộ. Âu Lạc là quốc gia đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Trong quá trình cùng chung sống, đấu tranh để xây dựng và giữ gìn đất nước người Âu Việt và người Lạc Việt vốn có những quan hệ gần gũi nhau, cùng giao lưu tiếp thu ảnh hưởng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 văn hoá của nhau. Người Lạc Việt đông hơn và phát triển xuống vùng đồng bằng phía Nam, theo hạ lưu các con sông và ven biển. Có thể những bộ phận người Âu Việt đã hoà nhập vào nhóm Lạc Việt để hình thành dân tộc Việt hiện đại. Còn lại là những bộ phận người Âu Việt ở miền núi và trung du chịu ảnh hưởng văn hoá của người Việt. Tức người Tày ngày nay. Sau người Việt sống ở vùng đồng bằng phì nhiêu, người Tày sinh cơ lập nghiệp ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi nhất. Đó là những cánh đồng miền núi, những thung lũng ruộng bậc thang xung quanh có cây rừng, suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc trồng trọt chăn nuôi, đặc biệt là việc trồng các loại hoa màu, các cây công nghiệp, cây ăn quả. Trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của đồng bào Tày căn bản là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nguồn sống chính là trồng trọt, thứ đến là chăn nuôi. Thủ công nghiệp là nghề phụ trong gia đình. Việc thu thập khai thác lâm thổ sản là nguồn thu nhập quan trọng. Việc săn bắn bổ sung nguồn thu nhập cho gia đình. Việc buôn bán chủ yếu nằm trong tay người Hoa kiều và người Việt ở thị xã, thị trấn. Vùng sinh sống trước đây của người Tày là địa bàn chính chống xâm lăng dưới nhiều triều đại. Từ thời Lý Trần, nhất là từ thời Lê, nhà nước phong kiến đặt chế độ “thế tập, phiên thần” tức chế độ thổ ti, phái một số công thần hay con cháu của họ, chọn trong những phần tử trung kiên nhất, đem theo gia đình, thuộc tộc, lên chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới sau mỗi trận chiến thắng, quét sạch xâm lược ra khỏi bờ cõi. Các vị lưu quan này đời đời kế tục cai trị các địa phương, rất mực trung thành với triều đình trung ương. Chế độ thổ ti dần tan rã dưới thời Pháp thuộc. Con cháu các dòng họ thổ ti sống hòa vào nhân dân các địa phương, trở thành người Tày, mang theo nhiều yếu tố văn hóa Việt. Một sự hòa hợp dân tộc trong lịch sử đáng chú ý xảy ra vào thế kỉ 16, 17. Triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 đuổi, chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc diệt vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân dân địa phương, đồng hóa với người Tày. Xã hội Tày trước cách mạng tháng Tám đã chuyển sang chế độ phong kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở miền xuôi nên quan hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn là quan hệ đoàn kết, tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng làng xóm. Trên đây là một vài nét chấm phá về lịch sử tộc người và điều kiện xã hội của cư dân nói tiếng Tày trước cách mạng tháng Tám. Những điều này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới văn học dân gian nói riêng cũng như văn hóa của người Tày nói chung. Có thể nói, địa hình miền núi ưu ái mà bất thuận, thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp mà dữ dằn, cửa ngõ biên giới giao du rộng mở mà không kém phần phức tạp... tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến điều kiện sống, sinh hoạt, văn hoá, tính cách của những người Tày. Người Tày không những đã tạo ra được một nền văn hoá với những giá trị vật chất bền vững mà còn sáng tạo nên một nền văn hoá tinh thần với những phong tục tập quá lâu đời và phong phú. Trước hết, đó là những nét đẹp trong văn hoá sắc tộc của người Tày. Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn có lòng kính già yêu trẻ. Dưới chế độ cũ, người phụ nữ không được đối xử bình đẳng với nam giới, không được hưởng gia tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng con tôn trọng, vì họ giữ vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và trong quản lý kinh tế gia đình. Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt. Người Tày sống hồn hậu, chân thành và đặc biệt có lòng mến khách. Bản làng là đơn vị hành chính đồng thời là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 thần. Ở đó họ sống với nhau thân thiện, đàm ấm và hoà hảo. Mỗi khi khách vào bản, cả bản vui mừng đón tiếp. Họ đón tiếp nhau không chỉ bằng tình cảm chân thành đằm thắm mà còn bằng cả tiếng hát lời ca ngọt ngào thiết tha: Xin dâng lời đẹp cho người Xin dâng lời thơm cho bạn Nét phong tục độc đáo này trở thành một môi trường lý tưởng nuôi dưỡng những tiếng hát lời ca của người Tày. Nói đến văn hoá người Tày không thể không nói đến ngôn ngữ của người Tày. Người Tày đã sớm có một thứ ngôn ngữ của riêng mình. Qua thời gian sàng lọc tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và ngữ pháp. Trong từ vựng tiếng Tày và tiếng Việt đều có những từ vay mượn của nhau, nhất là có rất nhiều tiếng từ Hán Việt. Lý do rất đơn giản bởi giống như người Việt, trước đây, người Tày đã từng học chữ Hán, sau đó, trên cơ sở chữ Hán, người Tày đã tạo ra chữ Nôm Tày. Sự ra đời chữ Nôm Tày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình văn hoá lịch sử phát triển dân tộc Tày. Ngay từ khi ra đời, chữ Nôm Tày trở thành một phương tiện đắc dụng ghi lại tiếng nói Tày, thơ ca, truyện khuyết danh... của dân tộc Tày. Như vậy, qua thời gian sàng lọc đến nay, người Tày đã tương đối ổn định phát triển và đáp ứng nhu cầu giao tiếp của đồng bào. Tiếng nói ấy sinh động về âm thanh, giàu có về từ ngữ, phong phú về sắc thái biểu cảm. Điều này thể hiện rõ trong lời ăn tiếng nói, nhưng đặc biệt là qua kho tàng văn hoá dân gian của họ. Tín ngưỡng, lễ hội cũng là một mảng quan trọng trong đời sống tinh thần đồng bào Tày. Đó là nơi bộc lộ rõ nhất đời sống tâm linh của họ. Thật khó mà xác định người Tày thuộc tôn giáo nào. Phật giáo rất phổ biến ở Việt Nam. Nhưng người Tày hầu như không có chùa thờ Phật mà chỉ đình thờ thần, không có các nhà tu hành mà chỉ có những người làm nghề cúng bái như “mo”, “then”, “tào”, “pụt”... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Thờ tổ tiên là tục lệ lâu đời của người Tày. Bàn thờ thường đặt ở gian chính, hướng ra cửa. Những ngày lễ tết trong năm, những việc đại sự gia đình như xây nhà mới, cưới xin, tang lễ... bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng là nơi họ thỉnh cầu, giao cảm tâm linh. Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ một số vị Phật, Thần thường thấy trong Phật giáo như Phật bà Quan âm, trong đạo giáo như Hắc Hồ Huyền Đàn, Hoa Vương, Thánh Mẫu... Trong khi làm ma chay cúng bái, đồng bào dùng một số nghi thức trong “thọ mai gia lễ”. Tín ngưỡng của đồng bào Tày bắt nguồn từ thuyết vạn vật có linh hồn, chủ nghĩa đa thần trong nguyên thủy, tục thờ thần dòng họ, tục tin ở rất nhiều thứ ma, gọi là “phi”, kết hợp với một số yếu tố Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo do những người làm nghề cúng bái đem truyền bá trong dân gian. Những ngày hội, ngày Tết truyền thống trong đồng bào Tày cũng như trong người dân Việt Nam nói chung đều là những ngày Tết nông nghiệp. Mỗi ngày Tết trong năm đều có ý nghĩa riêng, có những nghi lễ và đồ cúng riêng, thường là sản phẩm tiêu b iểu của từng mùa. Tết đầu năm âm lịch là Tết lớn nhất trong năm. Đồng bào ăn mừng kết thúc một năm thu hoạch thắng lợi, đồng thời chuẩn bị cho một năm lao động sản xuất. Mỗi Tết đến đều mang lại cho người ta những hy vọng mới. Trong tháng Tết này người ta mở những ngày hội Lồng Tồng để cầu mùa màng, để cho trai gái vui chơi, ca hát với nhau, tổ chức những trò chơi dân gian để thưởng xuân. Đây còn là dịp để bạn bè, bà con đến hỏi thăm nhau, con cái ở xa về thăm cha mẹ, nhất là con rể đến lễ tết bố mẹ vợ. Ngoài ngày Tết đầu năm, trong năm, người Tày còn rất nhiều ngày Tết khác như: Tết mùng 3 tháng 3 âm lịch, Tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5, Tết rằm tháng bảy, Tết trung thu... Những ngày hội, ngày Tết truyền thống nói chung có những ý nghĩa lành mạnh, nó nói lên ước mong của người dân lao động muốn làm sao cho mùa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 màng của mình thu hoạch tốt, của cải được dồi dào, ấm no, hạnh phúc. Thực tế hơn, nó nhằm cải thiện phần nào đời sống của người lao động sau những ngày làm ăn mệt mỏi trên những nương rẫy. 1.1.2. Vài nét về văn học dân gian Tày 1.1.2.1. Một số thể loại văn học dân gian Tày Với những khao khát chinh phục thiên nhiên cải tạo cuộc sống mà dân tộc Tày sớm thoát khỏi thời kì mông muội, tiến tới văn minh loài người. Mặt khác, trải qua những cuộc thiên di vĩ đại, người Tày đã có một nền văn hoá phát triển lâu đời. Người Tày lại sớm có chữ viết và ngôn ngữ riêng nên họ đã xây dựng được một nền văn nghệ nói chung và văn học dân gian khá đồ sộ. * Loại hình tự sự dân gian Người Việt có thần thoại là cơ sở giải thích các hiện tượng tự nhiên và sự ra đời của vạn vật thì người Tày cũng đánh dấu trong kho tàng văn hoá dân gian của mình bằng thần thoại Pú Lương Quân. Truyện đã thâu tóm giới thiệu cả ba thời kì sinh hoạt của quá trình phát triển xã hội loài người: săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi. Những hệ thống thần thoại người Tày mang đậm màu sắc hoang đường nhưng trong ý niệm tuyệt đối, những câu chuyện này đã phản ánh được sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan của người Tày cổ xưa. Truyền thuyết Tày đặc biệt phong phú ở bộ phận có mẫu đề người anh hùng chống xâm lăng, giữ vững địa bàn cư trú. Trong đó nổi bật là nhóm truyện kể về các thủ lĩnh quân sự, các vị anh hùng. Trong đó, có thể kể đến truyền thuyết Nùng Trí Cao, Hoàng Lục, Tôn Đản, Dương Tự Minh... Ngoài ra, ở mảng thể loại này còn phải kể đến vô số truyền thuyết địa phương, kể về những vị có công khai sơn phá thạch, lập bản dựng mường mà tên tuổi được coi như là thật, được chép lại trong các thần tích, thần phả gắn liền với cả đền thờ thần, miếu thờ thành hoàng... ở những bản làng Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Truyện cổ tích ra đời đã đánh dấu bước trưởng thành trong tiến trình văn học dân gian Tày. Phần lớn các truyện đều nói lên đạo đức tài năng của những người bình dân, những người cùng khổ nhất, người có công đánh giặc cứu nước, đả kích bọn hôn quân bạo chúa, cường hào ác bá. Có truyện đề cao lòng chung thuỷ vợ chồng, tình bạn bè giàu nghèo sống chết có nhau. Có truyện giáo dục con cái về quan điểm lao động như truyện phú ông bắt con trai đi học nghề trước khi được hưởng gia tài của ông cha để lại. Có thể thấy kho tàng truyện của người Tày vô cùng phong phú. Qua những câu chuyện truyền miệng đó, ít nhiều chúng ta cũng cảm thấy bóng dáng của sự phát triển của loài người từ nguyên thuỷ xa xưa tới khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Truyện cười của người Tày không nhiều, ý nghĩa đấu tranh giai cấp cũng chưa sâu sắc thâm thuý. Nội dung chủ yếu của truyện cười là phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ người dân lao động. Truyện ngụ ngôn của người Tày cũng không nhiều. Nói chung, đó là những truyện về cơ bản có hình thức là mượn truyện loài vật để nói về các mối quan hệ nhân sinh. Ý nghĩa chủ yếu của truyện là rút ra các bài học sâu sắc về thế sự, mục đích chủ yếu là đề cao trí thông minh của người lao động. Đối với thể loại truyện thơ dân gian, người Tày đã đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc những kiệt tác mà cho đến nay những giá trị nội dung và nghệ thuật của nó còn khiến các thế hệ sau phải ngỡ ngàng: Khảm Hải, Nam Kim - Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Chu - Quyển Vương... Kết cấu truyện thơ thường diễn ra theo ba bước: gặp gỡ, yêu thương tha thiết - tình yêu tạm thời bị chia cắt hoặc tan vỡ - đôi bạn tìm cách thoát khỏi trói buộc để đoàn tụ. Truyện thơ dân gian Tày thể hiện khát vọng dân chủ, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt cũng như ý thức chống lại lề thói tập tục khắc nghiệt, bóp nghẹt quyền tự do yêu đương của con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 * Loại hình trữ tình dân gian. Gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét nhất đời sống vật chất và tinh thần của người Tày phải kể đến loại hình trữ tình dân gian Tày. Đó là những lời ca tiếng hát cất lên từ nhà sàn yêu dấu, từ mảnh rừng xanh bao la, từ dòng suối hiền hoà mát thương... Trai gái Tày đem những tiếng hát lời ca cất lên như một cái cầu nhỏ gửi tâm tình tới người thương yêu, tới quê hương làng bản. Loại hình này được hợp thành từ hai tiểu loại: Dân ca nghi lễ và dân ca sinh hoạt. Mỗi mảng lại có những đặc sắc riêng trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. * Các thể loại trung gian Tục ngữ Tày rất phong phú. Về hình thức, đó là những câu ngắn gọn văn vẻ, giàu hình ảnh gần gũi với đời sống ngàn năm. Về nội dung, đó là những câu đúc kết những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của cộng đồng Tày trên cả hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nghiên cứu tục ngữ của đồng bào Tày, chúng ta sẽ hiểu sâu sắc hơn hoàn cảnh làm ăn sinh sống và những kinh nghiệm quý báu trong lao động sản xuất, trong quan hệ xã hội và gia đình của đồng bào xưa. Câu đố là một thể loại khá phổ biến ở mọi vùng cư trú của người Tày. Bất kỳ ở đâu những lúc bên bếp lửa, đi làm nương rẫy, trò chuyện, vui đùa người ta đều dùng câu đố như một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần. Nội dung của câu đố rất phong phú biểu hiện những nhận xét sắc sảo, tinh tế và hóm hỉnh. Các câu đố về sự vật, con người, về hiện tượng tự nhiên rất gắn bó với đời sống hàng ngày của người Tày. Đây cũng là một hình thức giải trí tuơi mát, đầy chất thông minh và có tác dụng giáo dục cộng đồng một cách sâu sắc. Câu đố có thể cấu tạo từ hai đến hàng chục câu. Trai gái Tày có lúc sử dụng câu đố dưới hình thức hát Lượn giao duyên. Bên trai hay bên gái không đối đáp được thì coi như thua cuộc. Do vậy trai gái Tày rất chú ý học hỏi kinh nghiệm của người già để có vốn đối đáp phong phú. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam, nữ thanh niên Tày hàng ngày. Đây là lối nói tự do, sáng tạo, thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ hội... Nó cũng là một hình thức biểu hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời gian gọt rũa, những lời phuối phác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và mềm mại một chất thơ lãng mạn. Sẽ khó có thể miêu tả được hết diện mạo văn học dân gian Tày. Nó vô cùng phong phú về thể loại, đồ sộ về khối lượng, đa dạng về sắc thái biểu cảm. Trong vốn văn hoá cổ quý báu đấy, gần gũi hơn cả và phản ánh sắc nét nhất đời sống, tình cảm và tư tưởng của người Tày phải kể đến dân ca sinh hoạt. Lựa chọn tiểu loại này làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở mục sau. 1.1.2.2. Dân ca sinh hoạt của người Tày Dân ca Tày có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt giao tiếp thì có dân ca sinh hoạt; trong các nghi lễ trang trọng thì có các mo, then, tào, pụt; trong đám cưới đám hỏi, rước dâu thì có hát quan làng. Nói chung những hình thức sinh hoạt đó thường tập trung phô diễn tình cảm, ca ngợi lao động, ca ngợi tình yêu, đề cao tự do... Ở mỗi phương diện của cuộc sống thì có một thể tài ca hát riêng. Vì vậy, các mảng đề tài đã có đường biên rõ nét. Đó là các bài hát về lao động sản xuất, hát mừng đám cưới, hát mừng nhà mới, hát mừng hội bản hội mường, hát sinh con, hát đưa tiễn linh hồn và đặc biệt là hát về tình yêu với tất thảy cung bậc của nó. Một trong những hình thức mà đề tài hướng đến chính là dân ca sinh hoạt của người Tày. Mảng tiểu loại này có mặt trong mọi khía cạnh của cuộc sống người Tày. Từ lúc bước chân xuống thang ra khỏi nhà đến mảnh nương, thửa ruộng để nhặt rêu bắt ốc, tìm măng hái củi… lúc nào, nơi nào cũng phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 có câu hò, tiếng hát. Tiếng hát lời ca đã trở thành linh hồn của bản mường, là nơi thể hiện chân thành tình cảm của người Tày theo cách riêng của mình. Dân ca sinh hoạt của người Tày không chỉ phong phú về nội dung, chan chứa sắc thái biểu cảm mà còn đa dạng về các tiểu loại. Có thể kể đến một số tiểu loại sau: Lượn: là một bộ phận dân ca Tày. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ ngày. Nhưng theo nhà nghiên cứu Vi Hồng, Lượn có cội nguồn từ chữ Vjén (ru) mà thành. Lượn có rất nhiều tiểu loại. Ngoài hai loại cơ bản tiêu biểu lượn cọi và lượn slương, người Tày còn có lượn then, lượn nàng Hai, lượn khắp… Trong cái nhìn đối sánh với dân tộc Kinh, lượn là một lối hát giao duyên có thể tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa tha thiết, lay động lòng người gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Người Tày coi lượn như một nhu cầu tinh thần không thể nào thiếu được: “Khắp mọi luỹ làng của người Tày, Nùng không mấy khi vắng tiếng Sli, giọng lượn. Chỉ trừ giấc ngủ và bữa ăn của họ - Sli lượn vang lên từ trong mọi nhà, ra khắp bản mường... ngoài đồng ngoài rẫy, ngoài chợ, ngoài đường. Không chỉ có thanh niên mà người già, người trẻ đều thích Sli, lượn, thích nghe Sli, lượn”...[26, 14]. Đã có một thời tiếng lượn ngập tràn làng bản, đồi núi, hoà vào tận tâm hồn, huyết mạch đồng bào: - Nửa đêm Nàng ới cháy lòng Khiến em dừng đường kim đường vá Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc - Tiếng Then thành tiếng Then phơi phới Tiếng cọi thành tiếng cọi thiết tha - Ra chợ được nghe tiếng Hà lều Bát phở không cần mỡ cũng ngon Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 Về hình thức sinh hoạt diễn xướng, đặc trưng của lượn là đối đáp, đối ca và nối tiếp ca. Đối đáp là một trong những hình thức sinh hoạt phổ biến của lượn. Hiểu một cách đơn giản nhất đối đáp là một bên “đối” và một bên đáp trả lại. Một bên - thường là “khách” - bao giờ cũng ca ngợi hết lời những thứ, những vật... của bên “chủ”. Bên chủ sẽ đáp lại bằng những lời lẽ khiêm tốn, lịch sự, không dám nhận những lời khen của khách. Xét về hình thức, lối hát này không có những nét khác biệt lắm so với những cuộc hát ví, hát phường vải, phường cấy... của người Kinh. Bên cạnh đối đáp là đối ca. Đối ca phổ biến ở lượn slương sau nữa là lượn then. Ở lượn slương thường là tập thể bên nam bên nữ, mỗi bên có khi đến hai chục người hoặc hơn nữa. Nam nữ ngồi thành hai hàng theo chiều dài của gian nhà sàn, quay mặt vào nhau. Sau những lời mời lịch sự của chủ nhà, lời tuyên bố lý do của bên chủ và vài nghi thức đơn giản khác, hai bên nam nữ bắt dầu “đối ca”. Đối ca có thể đối về đề tài lượn, đối về nội dung của bài lượn hoặc chỉ đối có tính chất hình thức, đối hoa, đối mùa, tháng... có khi thay nhau lượn những khổ lượn khác nhau. “Nối tiếp ca” là một hình thức nữa của sinh hoạt diễn xướng lượn. Có hai loại nối tiếp ca. Thứ nhất là nối tiếp ca theo đúng nghĩa đen của thuật ngữ này. Nghĩa là bên nam, bên nữ thay nhau, lần lượt hát lên những bài lượn về một đề tài. Có những câu chuyện chia làm nhiều đoạn nhỏ, mỗi bên lần lượt hát lên từng đoạn như tiếp nối nhau cho đến hết câu chuyện. Loại nối tiếp thứ hai là hai bên cùng hát tiếp nối - chắp nối các “đường lượn” với nhau, các đường lượn ấy thì rất nhiều tùy theo từng cặp, những tốp ca thuộc nhiều hay ít. Thông qua các hình thức diễn xướng này mà tiếng hát lời ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan