TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHÊÊ THUÂÊT QUÂN ĐÔÊI
KHOA MÚA
VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ MÚA TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
MÚA VIÊÊT NAM
Sinh viên thực hiện:
Giảng viên hướng dẫn:
BÙI THỊ THỦY
Th.S PHẠM THANH TÙNG
Hà nô Êi,năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tâ Êp và hoàn thành khóa luâ nÊ “Vai trò của ngôn
ngữ múa trong tác phẩm múa Viê Êt Nam” em đã nhâ nÊ được sự giúp đỡ và
hướng dẫn của thầy cô và bạn học cùng lớp. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu
sắc em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban chủ nhiê Êm cùng với các thầy cô giáo khoa Múa- Trường Đại học
VHNT Quân đô Êi, đã tâ Ên tình theo sát và giúp đỡ cho em cùng cả lớp trong suốt
thời gian học tâ Êp và thực hiê nÊ khóa luâ nÊ tốt nghiê Êp
Thầy giáo Phạm Thanh Tùng, người đã hướng dẫn, chỉ dạy và giúp đỡ đê
em có thê hoàn thành khóa luâ nÊ tốt nghiê Êp này
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trông hô Êi đồng chấm khóa luâ nÊ tốt
nghiê Êp đã cho em những ý kiến đóng góp quý báu đê em hoàn chỉnh khóa luâ nÊ
này
Xin được gửi lời cảm ơn đến bạn bè, nhà hát nhạc vũ kịch Viê tÊ Nam đã tạo
điều kiê nÊ , đô Êng viên và giúp đỡ trong suốt thời gian học tâ Êp, nghiên cứu và thực
hiê Ên khóa luâ nÊ
Lần đầu tìm hiêu về lĩnh vực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, với kiến
thức, khả năng còn hạn chế và bỡ ngỡ. Lần đầu tiên thữ hiê nÊ mô Êt đề tài nghiên
cứu, khóa luâ nÊ nên không thê tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhâ nÊ
được những ý kiến đóng góp quý báu và chân tình từ quý thầy cô và các bạn
Xin trân trong cảm ơn!
Hà Nô ôi, năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Thủy
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật múa là một trong những loại hình nghệ thuật sớm nhất của loài
người, gắn bó với con người từ thời nguyên thủy cho tới tận ngày nay và nó sẽ
mãi đi cùng sự phát triên của xã hội loài người. Trải qua tiến trình hình thành,
phát triên văn hóa nghệ thuật của con người, múa hiện diện là một thành tố văn
hóa qua mọi thời kỳ. Trong tiến trình lịch sử ấy, nghệ thuật múa luôn phát triên,
ngày một hoàn thiện những chức năng, đặc trưng nghệ thuật, hàm chứa bản sắc
văn hóa dân tộc.
Nghệ thuật múa là biêu hiện trình độ, tri thức văn hóa, tư duy thẩm mĩ,
sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của các tộc người Việt Nam. Nó tham gia vào nhiều
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, như phong tục, tập quán, đời sống văn hóa tâm linh
và lễ hội. Văn hóa nói chung, nghệ thuật múa nói riêng là thực thê tồn tại trong
đời sống xã hội. Từ đó mang ý nghĩa văn hóa, xã hội và là đối tượng nghiên cứu
khoa học của khoa học xã hội nhân văn, văn hóa học, nghệ thuật học. Chính vì
vậy, nghệ thuật múa là đối tượng chính yếu của các công trình nghiên cứu khoa
học nghệ thuật múa.
Nhận biết, thấu hiêu những giá trị, đặc trưng, vai trò của nghệ thuật múa
trong văn hóa, xã hội và tiến trình lịch sử hình thành phát triên một loại hình
nghệ thuật có đặc thù riêng biệt, kê từ thời xa xưa đến ngày nay, nghệ thuật múa
đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, văn hóa học, nghệ thuật
học, trong đó có nghệ thuật múa. Đê có được mô tÊ tác phẩm múa hoàn chỉnh đến
được với khán giả, ngoài âm nhạc, diễn viên múa, những thứ hỗ trợ đó là : sân
khấu, ánh sang, phục trang, đạo cụ… Thì đô nÊ g tác hình thê hay ngôn ngữ hinh
thê là một yếu tố quan trọng hàng đầu trong viê Êc tạo nên hiê Êu quả, sự thành
công của tác phẩm múa.
Ngôn ngữ hình thê trong tác phẩm múa là nòng cốt của tác phẩm múa, sự
thành công hay thất bại của tác phẩm múa phụ thuộc vào ngôn ngữ múa của diễn
viên, nó phản ánh tình cảm, hiện tượng của cuộc sống. Bởi nguồn gốc của nghệ
thuật múa chính là những hành động của con người trong đời sống, trong quá
trình lao động cộng với sự quan sát thiên nhiên. Từ đó, các động tác múa có
những thay đổi, cải tiến, đi đến khái quát nghệ thuật, do đó mà chỉ có ngôn ngữ
múa mới biêu đạt tốt nhất và trọn vẹn nhất các nội dung này.
Hiê nÊ nay, ở Viê Êt Nam nghệ thuật múa đã có nhiều bước phát triên vượt
bậc với nhiều tác phẩm múa đem lại nhiều thành công rực rỡ và cho người xem
cảm nhận được những tinh hoa trong nghệ thuật múa. Đã có nhiều trường đào tạo
chính quy cho môn nghệ thuật này và đã có những khóa đào tạo chuyên nghiê Êp
dành riêng cho viê Êc sử dụng ngôn ngữ múa cho sân khấu nghê Ê thuâ tÊ , có những
chuyên gia nước ngoài về Viêt Nam đê truyền đạt kinh nghiê m
Ê và đầu tư cho
chúng ta những trang thiết bị tối tân nhất về ngôn ngữ múa sân khấu.
Tuy nhiên, thực tế vẫn cho thấy trong các cuô Êc thi ca múa nhạc chuyên
nghiêp những năm gần đây, viê Êc sử dụng ngôn ngữ múa cho tác phẩm múa vẫn
còn nhiều hạn chế, dẫn đến sự mờ nhạt, không phát huy được chiều sâu và ý
nghĩa của nô Êi dung tác phẩm, không thê truyền tải hết được thông điê Êp của biên
đạo đến với người xem, đôi lúc làm cho khán giả hiêu sai lê Êch đi ý tưởng của
biên đạo. Là mô tÊ sinh viên biên đạo múa với mong muốn khám phá tìm tòi khai
thác tính hiệu quả của ngôn ngữ múa trong tác phẩm múa của mình, tôi mạnh dạn
chọn đề tài “ Vai trò của ngôn ngữ múa trong tác phẩm múa Viê Êt Nam” làm khóa
luâ nÊ tốt nghiê Êp của mình
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiêu thực trạng sử dụng ngôn ngữ múa trong tác phẩm múa Viê Êt Nam.
- Những hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ múa và những yếu tố làm cho việc
sử dụng ngôn ngữ múa không hiệu quả đê tạo nên tác phẩm múa.
- Thấy được giá trị của ngôn ngữ múa trong việc tạo nên hiệu quả cho tác phẩm
múa, từ đó đưa ra một số đề xuất và ý kiến nhằm thấy rõ giá trí của nó trong
thành công của tác phẩm múa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Ngôn ngữ múa trong tác phẩm múa
- Phạm vi nghiên cứu:
o Phạm vi không gian: Cách sử dụng ngôn ngữ múa trong một số tác phẩm
múa Viê Êt Nam được phân tích cụ thê trong khóa luâ nÊ : “ Trái tim tơ lụa” ;
“Go everyewhere, Feel everything”.
o Phạm vi thời gian: từ tháng 5/2016 đến tháng 6/2016.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả với kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp các
nghệ sỹ múa trong các tác phẩm múa hiện nay.
- Phương pháp lấy thông tin và xử lý thông tin thông qua khảo sát, phân tích, so
sánh các số liệu.
5. Kết cấu của khóa luâ Ên:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
khóa luận được chia thành 2 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luâ nÊ về ngôn ngữ múa.
Phần 2: Vai trò của ngôn ngữ múa trong tác phẩm múa Viê Êt Nam.
Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÔN NGỮ MÚA
Người ta có thê sử dụng từ ngôn ngữ đê chỉ một hệ thống kí hiệu bất kì
dùng đê diễn đạt, thông báo một nội dung nào đó. Thí dụ: ngôn ngữ điện ảnh là
toàn bộ những phương tiện nghệ thuật được các nhà làm phim sử dụng đê phản
ánh hiện thực; ngôn ngữ hội họa là toàn bộ những đường nét, màu sắc, hình khối
mà họa sĩ sử dụng đê phản ánh thế giới; ngôn ngữ của loài ong là toàn bộ những
"vũ điệu" mà loài ong sử dụng đê báo cho nhau về nơi chốn có hoa và lượng
hoa. Tuy nhiên chỉ có duy nhất nghệ thuật nhảy múa là hình thức biêu cảm sử
dụng ngôn ngữ cơ thê đê truyền cảm hứng cho người xem.
Từ ballet cổ điên tới các hình thức đương đại, từ nhảy hip-hop đến khiêu
vũ salsa, và từ phong cách phương Đông đến điệu nhảy flamenco, samba….tất
cả đều phải sử dụng một ngôn ngữ duy nhất đê truyền tải nội dung cho người
xem đó là ngôn ngữ múa hay là ngôn ngữ của hình thê đê phản ánh tình cảm,
hiện tượng của cuộc sống.
1.1. Khái niê Êm chung về nghệ thuật múa
1.1.1. Khái niệm về múa
Có nhiều khái niệm về nghệ thuật múa, tựu chung nghệ thuật múa được
hiểu như sau:
Múa là một bộ môn nghệ thuật biêu diễn sử dụng ngôn ngữ hình thê đê
phản ánh tình cảm, hiện tượng của cuộc sống. Nguồn gốc của nghệ thuật múa
chính là những hành động của con người trong đời sống, trong quá trình lao
động cộng với sự quan sát thiên nhiên. Từ đó, các động tác múa có những thay
đổi, cải tiến, đi đến khái quát nghệ thuật. Trong tiếng Việt, tùy tính chất của mà
một loại hình được gọi bằng các tên khác nhau như: nhảy, múa, khiêu vũ..., trong
đó khiêu vũ thường hướng đến dùng hoạt động cơ thê đê diễn đạt theo âm nhạc
nhằm chuyên tải những nội dung, tình cảm, suy nghĩ và ý tưởng.
Múa là một loại hình nghệ thuật trong đó những tư tưởng và tình cảm của
con người nảy sinh trong quá trình giao tiếp xã hội và giao tiếp với tự nhiên
được diễn đạt bằng những tác phẩm cụ thê với các hình tượng nghệ thuật được
xây dựng từ nhiều phương tiện biêu hiện. Động tác, điệu bộ được cách điệu và
âm nhạc là những phương tiện biêu hiện chủ yếu và quan trọng nhất.
Hình 1.1: Nghệ thuật múa của Việt Nam
Múa không lập lại nguyên xi động tác như kịch, điện ảnh mà phải được
cách điệu hóa và phải tuân theo quy luật của cái đẹp. Nghệ thuật múa - nghệ
thuật của thị giác và thính giác, là môn nghệ thuật mang tính truyền thông truyền hình, thuộc thê loại nghệ thuật đa chiều. Tác phẩm nghệ thuật múa là sự
thê hiện hoàn hảo mối quan hệ tổng hòa giữa bản thân ý tưởng, hình tượng, ngôn
ngữ trên cơ sở không gian nội tại của mỗi tác phẩm. Nhiều điệu múa mang tính
truyền thống thê hiện văn hóa của các một dân tộc, bộc lác, một tộc người,...Múa
nói lên những ước muốn, những thông điệp khác nhau tùy vào không gian, thời
gian. Diễn viên múa là một nghệ sĩ thực thụ, họ mang lên sân khấu một trang
phục khác, một tinh thần khác và một con người khác, thoát khỏi con người thực
của họ.
1.1.2. Sự phát triển của nghệ thuật múa của Việt Nam
Nghệ thuật múa những năm đầu thế kỷ XXI, công chúng hâm mộ chủ yếu
là múa tạp kỹ, nhảy múa, múa ba lê, còn khoảng cách. Ngôn ngữ múa biêu cảm
có phần trừu tượng hoặc phương pháp tạo hình động biến đổi nhanh, nhiều động
tác ước lệ chưa biêu cảm trực tiếp trong nhận biết số đông công chúng.
Những năm 1954, sau 1975 bình thường sử dụng khái niệm “vũ”, là từ
Hán bao gồm những biến thê nghệ thuật nhảy múa. Nhiều thuật ngữ Hán ảnh
hưởng sâu đậm trong đời sống xã hội và nghệ thuật văn hoá Việt. Sau 1954 còn
sử dụng từ Hán trong ngôn ngữ giao tiếp, nhưng đa số công chúng bình dân
thường sử dụng tiếng Việt gọi tên các đoàn nghệ thuật là: ban hát, đoàn kịch…
không sử dụng từ Hán. Trong kháng chiến hai cách sử dụng ngôn ngữ cứ đan
xen nhau, gọi là: đội tuyên văn, đội tuyên truyền Việt Minh, đoàn ca vũ… Năm
1951, Nhà nước chính thức công nhận thuật ngữ ‘đoàn văn công” khi Bộ Văn
hoá ra quyết định thành lập đoàn nghệ thuật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà gọi là: Đoàn [1]Văn công Nhân dân Trung ương, đến năm
1954 đổi thành Đoàn Ca vũ Nhân dân Trung ương lại thêm từ Hán (vũ) thay cho
từ múa. Sau đó, Đoàn Ca vũ đổi thành Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương.
Múa ba lê (Balette) ra đời thế kỷ XVII (năm 1661), từ múa cung đình
Pháp, phát triên sang Ý, Nga… là nghệ thuật tổng hợp đỉnh cao tạo hình múa.
Múa ba lê, cấu trúc tác phẩm bằng các nhân tố: kịch bản văn học, âm nhạc, nhảy
múa đích thực nghệ thuật tạo hình múa. Múa ba lê, cấu trúc nhiều loại nhảy múa:
sô lô, tam tứ, nhảy múa tập thê – màn ba lê tạo hình. Cấu trúc vở múa ba lê sử
dụng ba thành phần: Nhảy múa ba lê, múa điệu bộ ước lệ tượng trưng, nhảy múa
giải trí.
Múa ba lê, tạo dựng hình tượng biêu cảm nội dung tình cảm tư tưởng kịch
bản múa.
Múa điệu bộ, nhảy múa mang tính diễn xuất tái hiện lại những động tác
biêu đạt tình cảm nhân vật, miêu tả tình huống hoàn cảnh theo sát nội dung kịch
bản múa.
Nhảy múa giải trí, không phát triên hành động kịch múa, là những tiết
mục riêng diễn tả tính cách, trạng thái tình cảm nhân vật, hoặc tạo không khí vũ
hội, xây dựng môi trường sống các nhân vật kịch múa.
Những điệu nhảy ra đời năm 570 sau công nguyên ở Tây Ban Nha lan
truyền sang Achentina, Áo, Mỹ… đến thời đại xã hội công nghiệp 1919, chia
thành bốn loại: múa dân gian, múa tạp kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa sinh hoạt
đại chúng ra đời cùng nhạc rock…
Những năm cuối thế kỷ XX, xuất hiện nhảy múa thê thao, kết hợp con
người, đạo cụ làm ngôn ngữ biêu cảm thẩm mỹ. Nhảy múa thê thao thay đổi căn
bản ngôn ngữ nghệ thuật là các đạo cụ: cái vòng, rải lụa, chiếc khăn, đôi giầy ba
tanh, dụng cụ nhào lộn trên không, vũ điệu dưới nước bơi tạo hình… Ngoài ra
còn múa do động vật trình diễn trong rạp xiếc, bằng những động tác tự nhiên
nhào lộn, nhảy theo điệu nhạc trữ tình, hài hước… mang tính mỹ học, một tinh
thần trí tuệ mà công chúng khâm phục hào hứng. Múa đồ vật, là nghệ thuật tung
hứng, uốn dẻo tạo hình nhào lộn trên thang, dây dọc… là những sáng tạo ngôn
ngữ múa hiện đại. Ba hình thức múa mới được công nhận bởi nằm trong cấu trúc
loại hình nghệ thuật không thời gian, diễn cảm trực tiếp bằng tạo hình trừu
tượng, không miêu tả trong cấu trúc tác phẩm.
Quá trình phát triên nhảy múa cấu thành các thê loại: múa dân gian, nhảy
múa tạp kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa thê thao, nhảy múa đại chúng có hàng
chục loại biến tướng khác nhau rock – rap, rock, hard rock, pop rock, rock heavy
me tal, rock & roll, rock dance… nhảy múa động vật, nhảy múa đồ vật. Những
hình thức nhảy múa mới ra đời là sự lớn mạnh nghệ thuật múa, đáp ứng mọi đối
tượng khán giả mang tính đại chúng.
1.1.3. Bản chất của nghệ thuật múa
- Múa là một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp khách quan đặc thù.
- Phương tiện thê hiện chính là cơ thê con người, các động tác múa có những
thay đổi, cải tiến, đi đến khái quát nghệ thuật.
- Ngôn ngữ được thê hiện bằng các động tác, dáng dấp, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
cùng với sự chuyên động có trình tự logic. Ngôn ngữ múa biêu cảm có phần trừu
tượng hoặc phương pháp tạo hình động biến đổi nhanh, nhiều động tác ước lệ
chưa biêu cảm trực tiếp trong nhận biết số đông công chúng.
- Khi con người có những xúc cảm không thê diễn đạt bằng lời thì người ta thê
hiện qua động tác múa.
1.1.4. Phân loại nghệ thuật múa
Chúng ta được xem khá nhiều chương trình văn nghệ khác nhau, thông qua
các kênh truyền hình cũng như các phương tiện truyền thông đa phương tiện
khác. Và nghệ thuật múa được chia làm hai loại chính đó là:
Thứ nhất là: Múa biêu diễn sân khấu (mang tính chất chuyên
nghiệp): trong loại này chia làm hai loại: Múa biêu diễn tập thê không có tình
tiết, không có kịch tính và Múa những tác phẩm có nhân vật cụ thê, tình tiết và
kịch tính.
Hình 1.2: Múa biểu diễn sân khấu chuyên nghiệp- múa tập thể
Hình 1.3: Cảnh Hoàng tử Siegfried múa cùng thiên nga trong vở Ballet Swan
Lake (Hồ thiên nga) của nhà biên đạo người Nga Tchaikovsky
Thứ hai là: Múa sinh hoạt ( múa không chuyên)
Hình 1.4: Múa lửa trại của các bạn sinh viên Hà Nội
1.2 Ngôn ngữ múa trong múa
Múa thời hiện đại, hậu hiện đại nhiều thê loại đan xen hoà nhập vào các
loại hình nghệ thuật không - thời gian đầy biêu cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật nhảy
múa mang đặc trưng ngôn ngữ tạo hình biêu cảm trực tiếp trong cấu trúc tác
phẩm, bằng những quy phạm chuyên động ngôn ngữ nghệ thuật.
Những hình thức cấu trúc tác phẩm múa tạp kỹ, là các điệu múa đơn lẻ
thường bố cục thê một đoạn, hai đoạn hoặc ba đoạn. Nguyên tắc phát triên ngôn
ngữ múa thường lấy chất liệu dân gian hoặc những động tác múa hiện đại
phương Tây, xây dựng chủ đề, phát triên có nhắc lại hoặc biến hoá. Xem một
điệu múa ngắn thường thấy đoạn A, các thủ pháp phát triên ngôn ngữ tạo hình
nhắc lại và kết thúc. Loại dài có thê cấu trúc hai đoạn A – B, A – B - A’ , hoặc A
– B – C. Múa sử dụng động tác ước lệ diễn tả bằng các loại chuyên động đội
hình: vòng cung, hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn, chữ V và các biến thê của
những quy ước trên làm phong phú kỹ thuật tạo hình múa. Những động tác múa
không bắt chước hiện thực cuộc sống, thường mô tả hình tượng diễn biến nội tâm
con người, nhân vật múa bằng động tác ước lệ tạo hình.
Múa là nghệ thuật diễn viên gần với sân khấu, nhưng phản ánh quy luật
tình cảm con người bằng động tác biêu cảm. Mỗi dân tộc, tác giả có những quy
ước riêng, khi sáng tác động tác múa sắp xếp thành hệ thống động tác chuyên
động trong câu múa biêu đạt một ý tưởng. Nhiều câu múa liên kết thành tác
phẩm có chủ đề, ý tưởng diễn tả cao trào, tính kịch và kết thúc. Những động tác
ước lệ múa biêu cảm của các dân tộc: múa xoè, múa sạp Thái, nhiều người đã
biết, nhảy múa toàn thân, đôi tay chuyên động cùng những bước nhảy biêu hiện
niềm vui rộn ràng. Múa Then Tày Nùng, ngôn ngữ động tác chuyên động nửa
thân phía trên làm chủ đạo. Luật chuyên động đôi cánh tay, vai và ngực tạo tuyến
gấp khúc thành đường vòng cung, cổ tay nhấn nẩy biêu cảm mạnh, diễn tả tính
ma thuật, huyền bí. Nhìn vào đôi mắt nét mặt bà Then sẽ thấy cái âm u trầm cảm,
khi bùng phát bất ngờ, lúc trầm tư như đang đối thoại với thần quyền tà ma…
Múa cổ điên đồng bào Khơ me Nam Bộ, ước lệ động tác bất biến chào khán giả,
tay trái ngửa ngang ngực, tay phải giơ ra phía trước. Động tác chém cá sấu: hai
tay cuộn ngửa, tay trái co, tay phải vươn ra chặt xuống. Khi khóc: hai tay khoanh
lại, buồn tay chống cằm… Muốn hiêu múa phải theo dõi liên tục hệ thống động
tác chuyên động, quan sát nét mặt, đôi mắt diễn viên là hệ thống biêu cảm nghệ
thuật nghe nhìn tổng hợp.
Diễn viên múa sống trong ánh sáng như cá sống trong nước. Các không
gian sân khấu, ở đó là bê cá của họ. Trong các bức tường trong suốt và trên sàn
sân khấu, ánh sáng hỗ trợ họ . Những điệu nhảy là chất lỏng và không bao giờ
tĩnh. Thiết kế ngôn ngữ múa cho các điê Êu múa à tình yêu của tôi. Tôi đã thiết kế
trang trí cũng như chiếu sáng cho nhiều vở ballet và tôi đã cài đặt các hê Ê thống
ngôn ngữ múa trong nhiều tiết mục múa. Nếu tôi có thê đê lại gì cho hậu thế, tôi
nghĩ tôi sẽ đê lại cho họ cách sử dụng ngôn ngữ múa cho múa
Mô Êt tác phẩm múa cũng giống như mô Êt bức tranh vâ Êy, cần có nhiều yếu tố
đê tạo thành mô Êt bức tranh hoàn chỉnh,có những màu sắc, mảng múa chínhmảng múa nền, sáng tối, đô Êng và tĩnh,….
Sự thê hiện màu sắc tuỳ vào cảm nhận của mỗi tác giả . Không phải cứ dùng
nhiều màu tươi mới đẹp. Một nét nhạc hay nghe cũng rung động như một bè
nhiều âm hưởng du dương. Có những biên đạo lựa chọn dùng màu ngôn ngữ múa
rất đơn giản , gần như một màu với những sắc độ khác nhau đê biêu diễn tính
chất chủ đề cũng như phong cách của mình. Khi sử dụng nhuần nhuyễn người
biên đạo có thê tạo từ mô Êt màu ngôn ngữ múa đê biến hoá thành “đủ năm sắc”.
Màu sắc ngôn ngữ múa có vẻ sáng, tối, cắt luồng đã tạo ra ảo giác lung linh của
ánh sáng. Chính vì sự kì ảo thâm sâu trong cách thê hiện màu của ngôn ngữ múa
sẽ tạo đc sự phong phú cho không gian của người diễn viên múa, và tạo cho khán
giả chiều sâu, và nhiều chiều không gian, và giúp cho biên đạo truyền tải rõ nét
hơn về thông điê Êp của mình. Ứng dụng màu sắc hiê uÊ quả sẽ tạo lên sự đa dạng,
biến tấu trong màu sắc. Các mảng màu được đặt cạnh nhau một cách hài hoà
hoặc tương phản mạnh
Phần 2: VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ MÚA TRONG TÁC PHẨM MÚA
VIỆT NAM
Viê Êc ứng dụng ngôn ngữ múa trong Múa không khác gì viê Êc ứng dụng
ngôn ngữ múa trong Kiến trúc và Hô Êi họa. Ứng dụng ngôn ngữ múa trong múa
người biên đạo cũng cần có thẩm mỹ, sự sáng tạo, và cái riêng đê có thê mang
lại cho tác phẩm múa sự hấp dẫn cũng giống như những điều người viết đã nêu ở
trên về kiến trúc và hô Êi họa, ngôn ngữ múa trong múa cực kỳ quan trọng, trên
mô Êt không gian là sân khấu, khi sử dụng những trang trí trên sân khấu cô Êng với
ứng dụng của ngôn ngữ múa sẽ tạo cho không gian trở nên huyề ảo, thoát khỏi
thế giới hiê nÊ thực, đưa khán giả và mô Êt thế giới của nghê Ê thuâ Êt Múa. Ngoài
viê Êc tạo cho tác phẩm múa những không gian khác biê Êt, sử dụng ngôn ngữ múa
còn làm tôn thêm hình thê cho người diễn viên múa, làm cho người diễn viên
múa thêm sự hấp dẫn lôi cuốn với người xem, và cúng phầm nào tạo cho họ cảm
giác sống trong thế giới của riêng mình.
Vở múa “ Ta đã ở đó”
Biên đạo: NSƯT Tạ Thùy Chi và nghê Ê sỹ Nguyễn Ngọc Anh
Biêu diễn: Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Chúc Quỳnh, Ngô Thùy Tố Như, Tạ Thùy
Chi, Vũ Ngọc Khải
Vở múa gồm 4 tiết mục: Không giới hạn, Ta đã ở đó, Múa là như thế và Cố
hương.
Theo lời của biên đạo Ngọc Anh và Thùy Chi thì “ Ta đã ở đó” là hồi tưởng
những ký ức tuổi thơ ngọt ngào với lời hát ru của mẹ, các trò hái hoa, bắt bướm,
thả diều, khoảnh khắc bẽn lẽn khi vừa biết yêu… qua đó bày tỏ khao khát lấy lại
cân bằng trong đời sống thực tại của những người trẻ, khi sự hồn nhiên đã bị
đánh mất
Phần gây ấn tượng nhất cho khán giả là tiết mục “ Không giới hạn”, cho
thấy đúng những gì Thùy Chi và Ngọc Anh đã lĩnh hội. Chuyên động cơ thê phức
tạp, đan xen nhịp nhàng với từng nốt nhạc của Quốc Trung, sử lý ngôn ngữ múa
hiê Êu quả. Những bước chân của NSƯT Ngô Thụy Tố Như, NSƯT Nguyễn Thị
Chúc Quỳnh, Vũ Ngọc Khải và Nguyễn Ngọc Anh biến chuyên nhịp nhàng giữa
các động tác ballet cổ điên với múa đương đại phóng khoáng. Mạnh mẽ, táo bạo,
cách tân, mà vẫn dịu dàng, lôi cuốn
Với tiết mục này, thông điê Êp của biên đạo muốn đưa đên cho khán giả là
mỗi con người đều có mô Êt giới hạn riêng mình và chúng ta phải bước qua đc cái
gọi là giới hạn đó đê đến với ngã rẽ của cuô Êc đời.
Vì đây là mô Êt vở múa đương đại ít người, trên sân khấu lớn như vâ Êy mà
chỉ có 4 người, 2 người và 1 người nên đa phần tác giả không sử dựng ngôn ngữ
múa diê Ên rô Êng, mà là ngôn ngữ múa tích tụ lại theo từng điêm và vị trí của diễn
viên trên sân khấu, thực sự khi diễn tả về quá khứ theo khía cạnh của tác gì thì đó
là mô Êt thứ gì đó mờ ảo và đẹp. Tác giả đã đánh ngôn ngữ múa theo từng vê Êt
ngang và từ trên xuống tạo mô Êt không gian mờ ảo và lung linh cho sân khấu.
Như ban đầu đây là mô tÊ vở múa ít người nên khi tác giả sử dụng ngôn ngữ múa
theo cách này thì sẽ làm cho không gian đc thu hẹp lại, đê có thê gần gũi với
khán giả hơn, làm cho khán giả cảm thấy không gian không bị loãng trên mô Êt
sân khấu lớn và it người như vâ yÊ
Ngoài ngôn ngữ đô Êng tác, trang trí sân khấu thì điều đã tạo nên cho tiết
mục này sự khác biê Êt và được nhâ nÊ xét là phần ấn tượng nhất trong vở diễn là
cách sử lý ngôn ngữ múa của tác giả. Vì là người biên đạo và hiêu rõ tác phẩm
hơn ai hết thì tác giả Ngọc Anh đã sử dụng ngôn ngữ múa theo cách cô đọng, tạo
khán giả sự ấn tượng, sáng tạc và phá cách khi xem và đương nhiên, chắc chắn là
thỏa mãn được tính thẩm mỹ cho tác phẩm. Ngoài ra tác giả cũng đã mang lại
được mô Êt không gian huyền ảo và thu hút sự tâ Êp trung của khán giả. Với cách sử
dụng ngôn ngữ múa trong tiết mục “ Không giơi hạn” là mô Êt sự thành công của
biên đạo Ngọc Anh nói riêng và cả ekip nói chung khi công diễn vở múa
Vở múa “Trái tim tơ lụa”
Biên đạo: Pontus Lidberg
Diễn viên: đoàn múa VNOB
Với mô Êt lần đi du lịch Hô Êi An, tác giả đã bắt gă Êp chiếc đèn lồng và có thê nói là
anh đã mê mẩn chiếc đèn lồng. Và ý thưởng của vở múa cũng chỉ rất đơn giản,
người nam diễn viên múa tượng trưng cho những nan tre, mỏng manh, mềm mại
nhưng lại rất chắc chắn và dẻo dai, các nữ vũ công thì như những miếng vải lụa
bọc bên ngoài những khung tre, với sự mềm mại, nhẹ nhàng, bay bổng. Với ngôn
- Xem thêm -