Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của việt ...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của việt nam

.PDF
94
135
102

Mô tả:

Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam Mục lục Trang Lời nói đầu 3 Chương I: Lí luận chung về bảo hộ và kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới” I/ Xu hướng toàn cầu hóa 5 II/ Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước 7 III/ Kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan 24 của một số nước trên thế giới Chương II: Đánh giá các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua (1996 – 2000) I/ Thực trạng thương mại và khả năng cạnh tranh của 38 Việt Nam thời kỳ 1996 – 2000 II/ Các biện pháp phi thuế quan liên quan đến nhập khẩu 50 Việt Nam đã sử dụng III/ Đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế quan 63 Việt Nam đã sử dụng Chương III: Đề xuất các biện pháp phi thuế quan Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới I/ Cơ sở khoa học để duy trì các biện pháp phi thuế quan 69 trong việc bảo hộ sản xuất. II/ Một số đề xuất về các NTM Việt Nam sẽ sử dụng để bảo hộ 71 Kết luận 91 Tài liệu tham khảo 92 LỜI NÓI ĐẦU 2 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam Xu hướng toàn cầu hoá hiện đang được các quốc gia trên thế giới coi là giải pháp tất yếu để đẩy mạnh và tháo gỡ những khó khăn của vấn đề tăng trưởng kinh tế. Cũng như các nước khác trên thế giới, việc Việt Nam không ngừng tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế không nằm ngoài mục tiêu khai thác những ưu thế sẵn có trong nước cũng như tận dụng những yếu tố bên ngoài về thị trường, vốn, công nghệ, phương pháp quản lí tiên tiến. Tuy nhiên trước bối cảnh kinh tế thế giới với nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế lạc hậu, có xuất phát điểm thấp so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới như hiện nay thì việc phải đối mặt với những bất lợi và tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Để hạn chế những bất lợi và tác động tiêu cực đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp nhất định và một trong số đó là việc bảo hộ tích cực nền kinh tế. Bên cạnh thuế quan là công cụ bảo hộ đã được các định chế thương mại quốc tế thừa nhận thì các biện pháp phi thuế quan cũng được rất nhiều quốc gia sử dụng trong thời gian qua bởi những ưu điểm như khả năng tác động nhanh, mạnh, phong phú và có thể đáp ứng nhiều mục tiêu trong cùng một thời điểm. Tuy nhiên mặt trái của các biện pháp phi thuế quan vốn gây ra nhiều tranh cãi là chúng bao gồm nhiều biện pháp chưa được thừa nhận bởi các tổ chức thương mại quốc tế và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực cũng như toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan là điều hết sức cần thiết với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Đối với một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam, công tác nghiên cưú về các biện pháp phi thuế con có vai trò quan trọng hơn rất nhiều bởi nó giúp cho chúng ta 3 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam hiểu thêm về môi trường pháp lí của các quốc gia khác từ đó có thể tìm ra hướng tiếp cận tối ưu thị trường khu vực và quốc tế. Ngoài ra kinh nghiệm rút ra trong quá trình nghiên cứu cũng có giá trị không nhỏ đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các công cụ bảo hộ phi thuế để chúng thực sự hữu ích và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Với đề tài này ngoài việc thống kê, phân loại những biện pháp phi quan thuế đã được sử dụng trên thế giới, kinh nghiệm áp dụng của một số nước như Mĩ, Thái Lan và thực tiễn áp dụng của Việt Nam tôi cũng xin đưa ra một vài ý kiến cá nhân mang tính chất tham khảo đối với vấn đề xác định các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian tới. Do lần đầu tiên thực hiện một công việc nghiên cứu quy mô, đề tài này không thể tránh khỏi những hạn chế. Kính mong các thầy cô và các bạn góp ý để cho đề tài được toàn vẹn hơn. Xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ VÀ KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 4 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam I/ XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA: Toàn cầu hoá là một xu hướng vận động nổi bật hiện nay trong nền kinh tế thế giới. Nó lôi cuốn tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ vào một nền kinh tế toàn cầu thống nhất và duy nhất. Tất cả những quốc gia và vùng lãnh thổ nào không hội nhập vào quá trình này tất yếu sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu trong phát triển. Toàn cầu hóa kinh tế được thể hiện rõ nét thông qua hai quá tình chủ yếu là toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu sản xuất. Toàn cầu hóa thị trường được thể hiện ở sự loại bỏ dần các quá trình và rào cản chia cắt thị trường để hình thành một thị trường có tính toàn cầu. Các yếu tố cơ bản như cung cầu, giá cả được hình thành và vận động thống nhất trên toàn cầu. Toàn cầu hóa sản xuất được thể hiện thông qua việc hình thành mạng lưới sản xuất mang tính toàn cầu, công nghệ cao được sử dụng phổ biến và các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa… Ngoài ra, toàn cầu hoá còn được thể hiện thông qua các khía cạnh về xã hội, văn hóa, chính trị … Toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi các lực lượng nhất định. Trước hết, đó là quá trình cắt giảm thuế quan giữa các quốc gia để có nền thương mại tự do hóa hơn, giảm dần các rào cản bảo hộ hữu hình hoặc vô hình. Hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển dễ dàng giữa các nước và vùng lãnh thổ với khối lượng và cường độ ngày càng tăng. Tiếp theo là quá trình tự do hóa về đầu tư với việc mở rộng của đầu tư quốc tế trên phạm vi và quy mô lớn, các hiệp định thúc đẩy tự do hóa đầu tư được ký kết. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và tác động của các tập đoàn, công ty đa quốc gia đang thúc đẩy theo chiều sâu quá trình toàn cầu hóa. Các quốc gia, vùng lãnh thổ cũng đang tăng cường những nỗ lực để hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường, chuyển đổi cơ cấu và cơ chế kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. 5 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam Toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia và vùng lãnh thổ phải hành động dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế nhất định trong thương mại và đầu tư, dịch vụ như “nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia …”. Vấn đề này không phải quốc gia nào cũng có thể dễ dàng thực hiện được. Thực tế cho thấy, quá trình toàn cầu hóa đang làm cho nền kinh tế của các quốc gia từng buớc vận động theo xu hướng mới, chuyển đổi nền kinh tế, đưa nền kinh tế sang giai đoạn phát triển mới với cấp độ cao hơn và phạm vi lớn hơn. Không thể nói chỉ có các nền kinh tế của các nước XHCN cũ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là ở trong giai đoạn chuyển đổi mà kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao như nền kinh tế Mĩ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu … cũng ở trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin và kinh tế tri thức. Sự chuyển đổi này trở thành một hiện tượng phổ biến hiện nay. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của các quốc gia đang đặt ra hàng loạt các vấn đề cần phải xử lý, đặc biệt là chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng công nghệ cao, các ngành phát huy được lợi thế so sánh và các ngành có khả năng cạnh tranh lâu dài trên thị trường, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và những cải cách về hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa cũng được đề cao. Nói tóm lại, toàn cầu hóa diễn ra có tính gia tốc. Đây là một quá trình khách quan và là một xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới hiện nay. Việt Nam đang chủ động, tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa để thực hiện mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cũng đang tiến hành xây dựng lộ trình phù hợp, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và tiếp đến là kinh tế toàn cầu. II/ SỰ CẦN THIẾT CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC: 6 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam 1.Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước: 1.1. Tính thiết yếu chung của bảo hộ đối với các quốc gia trên thế giới: Bảo hộ là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để nâng đỡ các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài chính lớn. Minh hoạ thực tế rõ ràng nhất có thể nhận thấy ở các nước đang phát triển như các nước châu Mĩ latinh, Asean nơi tồn tại số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia này đều là các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường nội địa cũng như quốc tế mà nguyên nhân sâu xa có thể là thiếu vốn, hạn chế trong vấn đề đào tạo nhân lực hoặc thậm chí là yếu kém trong khâu quản lí... Mặc dù vậy việc giải thể các doanh nghiệp này là vấn đề nan giải bởi hầu hết các doanh nghiệp này thu hút một lực lượng lao động lớn hoặc được đầu tư những nguồn tài chính không nhỏ. Hậu quả của việc giải thể có thể là những cú sốc lớn cả về kinh tế và chính trị. Hơn nữa nguyên nhân chính phủ không giải thể các doanh nghiệp này còn có thể là do họ vẫn còn đặt niềm tin vào khả năng biến chuyển tình thế của đội ngũ lãnh đạo hoặc đây là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực được ưu tiên phát triển theo chiến lược dài hạn. Một lí do không thể không đề cập đến khi duy trì các biện pháp bảo hộ là mong muốn cải thiện các ngành sản xuất nội địa. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có những chiến lược phát triển kinh tế nhất định và trong đó luôn xác định những lĩnh vực ưu tiên đặc biệt. Nhưng để các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này đạt được hiệu quả tối ưu và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế nhà nước luôn phải có những ưu đãi đặc biệt. Ví dụ điển hình là Mĩ một nước được coi là có nền kinh tế phát 7 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam triển nhất thế giới trong thời gian qua vẫn duy trì khá nhiều phương thức bảo hộ đối với lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có cả những phương thức đi ngược lại lợi ích thương mại quốc tế và bị nhiều phản kháng của các quốc gia khác trên thế giới. Một lí do riêng đối với các nước đang và chậm phát triển là họ phải thường xuyên xem xét vấn đề duy trì một cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Có thể dễ dàng nhận thấy các quốc gia đang và chậm phát triển hầu hết đều có một cán cân thanh toán bị thâm hụt và một nguồn ngân sách hạn hẹp vốn được tài trợ chủ yếu thông qua thu thuế và vay nợ nước ngoài. Để tránh tình trạng đó các quốc gia có thể áp dụng nhiều hình thức bảo hộ khác nhau nhằm phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc hướng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết hay xa xỉ từ đó hạn chế chi tiêu ngoại tệ và thu về nhiều hơn thông qua xuất khẩu. Xuất phát từ nguyên nhân thứ nhất bảo hộ còn giúp các quốc gia trên thế giới duy trì việc làm cho những tổ chức hoặc nhóm người nhất định và giảm bớt những sức ép về chính trị từ các tổ chức đoàn thể. Nguyên nhân này là một trong những nguyên nhân chủ yếu để chính phủ các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi duy trì các biện pháp bảo hộ đối với một số ngành nhất định. Điều này cũng tương tự đối với vấn đề bảo hộ một số ngành ở các quốc gia có nền kinh tế khá phát triển như Mĩ và các nước thuộc liên minh châu Âu. Để bảo hộ ngành công nghiệp dệt may vốn là ngành kinh tế thu hút khá nhiều lao động EU đã đưa ra những thoả thuận về hạn chế xuất khẩu tự nguyện với các nước khác đặc biệt là các nước có nguồn nguyên liệu phong phú và lực lượng nhân công rẻ mạt. Đối với các quốc gia có tiềm lực cả về kinh tế và chính trị các biện pháp bảo hộ còn có thể được duy trì như một công cụ chính trị để đơn phương 8 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam gây sức ép với các quốc gia khác. Mặc dù đây là mục đích hết sức cá biệt trong một thế giới ngày càng phát triển theo hướng đa cực song trên thế giới hiện tượng này đã và đang tiếp tục xảy ra. Mĩ là quốc gia lạm dụng công cụ bảo hộ nhiều nhất vào mục đích này. Trong luật pháp Hoa Kì có những điều khoản đặc biệt cho phép quốc hội đưa ra những biện pháp thương mại đơn phương đối với bất cứ quốc gia nào được coi là có thể đe doạ đến vấn đề an ninh của nước Mĩ. 1.2. Sự cần thiết phải bảo hộ đối với Việt Nam: Những lí do chủ yếu đối với vấn đề bảo hộ nền kinh tế Việt Nam xuất phát từ hai yếu tố chủ quan và khách quan trong đó yếu tố chủ quan là thực trạng nền kinh tế Việt Nam và yếu tố khách quan là bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay. Theo đánh giá chung thì nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế lạc hậu, đang chuyển hoá từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được tạo lập một cách đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết. Hệ thống các qui phạm pháp luật công cụ quan trọng để quản lí nhà nước của Việt Nam hiện nay cũng bị đánh giá là thiếu nhất quán và quá chồng chéo, chưa tạo ra được môi trường pháp lí bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các chính sách tài chính tiền tệ, xuất nhập khẩu cũng trong tình trạng tương tự. Vì vậy, trong quá trình xây dựng một môi trường kinh tế giàu tính cạnh tranh và lành mạnh hơn nhà nước cũng cần có sự nâng đỡ hợp lí đối với các một số lĩnh vực nhất định để tạo thế đòn bẩy cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó không thể phủ nhận một thực trạng là các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về năng lực quản lí, nguồn nhân lực, khả năng thích nghi và mang nặng tư tưởng dựa dẫm của một thời kì dài bao cấp. Việc ngay lập tức thúc ép các doanh nghiệp này tự tạo lập một thế đứng vững chắc trên 9 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam thị trường trong nước đã là một nhiệm vụ quá khó khăn chứ chưa đề cập đến thị trường khu vực và quốc tế. Hơn nữa ngay cả khi các doanh nghiệp Việt Nam đã có một tiềm lực nhất định cũng không thể cho rằng họ không còn cần tới sự bảo trợ của nhà nước nữa. Những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ cao ngoài mong muốn nhận được sự hỗ trợ về vốn thì sự hỗ trợ trong vấn đề nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới cũng hết sức quan trọng đôí với họ. Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang xây dựng cho mình một chiến lược phát triển kinh tế trong đó ưu tiên phát triển một số ngành. Các ngành này là những ngành công nghiệp có tiềm năng song còn gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh cần được sự hỗ trợ tích cực của nhà nước và cả những ngành nhất thiết phải ưu tiên phát triển do các lí do khác như chính trị và xã hội. Đây là lí do cơ bản nhất để Việt Nam duy trì các hình thức bảo hộ nhưng với đặc thù mang nhiều màu sắc chính trị hơn là kinh tế các hình thức bảo hộ của Việt Nam trong thời gian qua chưa hẳn đã phát huy được tính chất tích cực đối với nền kinh tế. Đứng trước xu thế khách quan của tự do hoá thương mại và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng cần duy trì các phương thức bảo hộ vì những nguyên nhân nhất định. Thứ nhất trong quá trình tự do hoá thương mại nền kinh tế Việt Nam không thể tránh được những tác động xấu như sự xâm nhập của hàng hoá, sự lũng đoạn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Nếu không có chiến lược bảo hộ sản xuất phù hợp nền kinh tế của chúng ta sẽ phát triển bất cân xứng và phụ thuộc nặng nề vào các yếu tố bên ngoài. Thứ hai để hoà nhập vào một nền kinh tế chung vốn đã phát triển hơn chúng ta rất nhiều Việt Nam cần cải thiện khả năng cạnh tranh trên phương diện quốc gia cũng như trên phương diện doanh nghiệp/ngành. Các biện pháp hỗ trợ mang tính cấp thiết sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam 10 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam tạo được những lợi thế nhất định trong quá trình bắt kịp nhịp độ phát triển chung và tạo điều kiện cho chúng ta tranh thủ hoàn thiện các yếu tố còn lại . Cuối cùng cũng không thể không đề cập đến một lí do ít được đề cập đến đó là để tạo lập một thế vững chắc trên trường quốc tế bảo hộ cũng là một công cụ để chúng ta có thể mang ra “mặc cả” để đổi lấy những ưu đãi chính trị nhất định. 2.Các phương thức bảo hộ sản xuất trong nước: 2.1.Thuế và thuế quan: Ngoài mục đích chính là thu ngân sách thuế còn là một biện pháp hướng dẫn tiêu dùng và trong một chừng mực nào đó là một biện pháp hạn chế nhập khẩu hữu hiệu.Việc đánh thuế nội địa hay thuế quan cao vào một mặt hàng nhập khẩu sẽ có tác động không nhỏ tới việc thu hẹp cầu trong nước từ đó dẫn đến hạn chế nhập khẩu những mặt hàng này. Bên cạnh thuế và thuế quan thì các biện pháp phi thuế cũng là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản xuất trong nước. Đây cũng chính là nội dung mà đề tài muốn đề cập tới. 2.2. Các biện pháp phi thuế:(NTM- non-tarrif measure) Các biện pháp phi thuế được định nghĩa như tất cả các biện pháp khác ngoài các biện pháp thuế quan được qui định về mặt pháp lí hay đơn thuần tồn tại trên thực tế có ảnh hưởng đến mức độ hoặc phương hướng nhập khẩu. Các biện pháp phi thuế quan có thể mang một hay nhiều thuộc tính khác nhau như áp dụng ở biên giới hay nội địa, được duy trì một cách chủ động hay bị động, nhằm mục đích bảo hộ hay không bảo hộ, phù hợp hay không phù hợp với thông lệ quốc tế... 2.2.1.Ưu điểm: a.Phong phú về hình thức : nhiều biện pháp phi thuế khác nhau có thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng 11 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam Các NTM trong thực tế rất phong phú về hình thức nên tác động, khả năng và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng NTM để phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể có nhiều sự lựa chọn, kết hợp hơn mà không bị gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy nhất như thuế quan. Ví dụ: để nhằm hạn chế nhập khẩu một mặt hàng bất kì, có thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu. b.Đáp ứng nhiều mục tiêu: một NTM có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục tiêu với hiệu quả cao Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thương mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v... Các NTM có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau khi việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc không hữu hiệu bằng. Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm bảo an toàn sức khỏe con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự động đối với dược phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dược nội địa, dành đặc quyền cho một số đầu mối nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức khỏe con người, còn có tác dụng phân biệt đối xử với một số nước cung cấp nhất định. c.Nhiều NTM chưa bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ Do NTM thường mang tính mập mờ, mức độ ảnh hưởng không rõ ràng như những thay đổi định lượng của thuế quan, nên tác động của chúng có 12 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam thể lớn nhưng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Hiện nay các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số NTM nhất định. Trong đó, tất cả các NTM hạn chế định lượng đều không được phép áp dụng, trừ trường hợp ngoại lệ. Một số NTM khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn như tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp, thuế đối kháng, hỗ trợ nông nghiệp dạng hộp xanh. Ngoài ra, vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà chưa bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ những NTM chưa xác định được sự phù hợp hay không phù hợp với các quy định của WTO. Những NTM này có thể do WTO chưa có quy định điều chỉnh hoặc có quy định nhưng rất chung chung và trên thực tế rất khó có thể xác định được tính phù hợp hay không phù hợp với quy định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế được thừa nhận chung. Chẳng hạn như yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trước, v.v... 2.2.2.Nhược điểm: a.Không rõ ràng và khó dự đoán Các NTM trên thực tế thường được vận dụng dựa trên cơ sở dự đoán chủ quan, thậm chí tuỳ tiện, của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu thụ trong nước. Chẳng hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong năm tới, Chính phủ phải dự kiến được công suất sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng được bao nhiêu phần trăm tổng nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thường xuyên biến động, việc đưa ra một dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Nếu dự 13 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam đoán không chính xác sẽ có ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Ví dụ như gây ra thiếu hụt trầm trọng nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong nước vào thời vụ, đẩy giá tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại, dẫn đến tình trạng cung vượt cầu quá lớn trên thị trường làm giá sụt giảm (sốt lạnh). Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh sẽ chịu rủi ro cao hơn. Sử dụng NTM cũng thường làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của người sản xuất và người tiêu dùng trong nước, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế (chính là giá thị trường), phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực sự. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Tác động của các NTM thường khó có thể lượng hóa được rõ ràng như tác động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có thể dễ dàng được xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua NTM là tổng mức bảo hộ của các NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của mỗi NTM cũng chỉ có thể được ước lượng một cách tương đối. Cũng vì mức độ bảo hộ của các NTM không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ trình tự do hóa thương mại rõ ràng như với bảo hộ chỉ bằng thuế quan. b.Khó khăn, tốn kém trong quản lý Vì khó dự đoán nên các NTM thường đòi hỏi chi phí quản lý cao và tiêu tốn nhân lực của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát bằng NTMs. Một số NTM thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây khó khăn cho bản thân các nhà hoạch định chính sách, quản lý, và các chủ 14 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận thông tin cũng như đánh giá tác động của các NTM này. Các doanh nghiệp sản xuất chưa chú trọng đến tiếp cận thông tin và chưa có ý thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, còn trông chờ vào nhà nước tự quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thường phải tốn kém chi phí vận động hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định áp dụng NTM nhất định có lợi cho mình. Ngoài ra, có những NTM bị động là những NTM tồn tại trên thực tế ngoài ý muốn của các nhà hoạch định chính sách như bộ máy quản lý thương mại quan liêu, năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không được công bố công khai,... c.Không tăng thu ngân sách, gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp: Việc sử dụng các NTM phục vụ mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi, đặc quyền, như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2.3. Sự kết hợp giữa hai biện pháp để bảo hộ sản xuất trong nước. Các biện pháp thuế quan và NTM là hai công cụ bảo hộ sản xuất quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, yếu đặc thù nên chúng thường được sử dụng bổ sung lẫn nhau nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Mặc dù về lý thuyết, WTO và các định chế thương mại khu vực thường chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước không ngừng sử dụng các NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông lệ quốc tế. 15 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc vào tính linh hoạt có chọn lọc, có định hướng của chính phủ các nước trong việc áp dụng các NTM bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết kết hợp hài hòa và tinh tế hai công cụ này, sản xuất trong nước sẽ được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao sức cạnh tranh nhằm từng bước thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung của môi trường thương mại quốc tế. 3. Các NTMs được sử dụng để bảo hộ: 3.1. Những căn cứ phân loại 3.1.1. Bảo hộ sản xuất trong nước: Đây là thuộc tính quan trọng nhất của một NTM mà các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc khi đưa ra quyết định có áp dụng chúng hay không. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề phân tích và đánh giá thực trạng kinh tế trong nước từ đó lựa chọn ngành bảo hộ, thời gian và mức độ bảo hộ. 3.1.2.Phù hợp với qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế: Khi xây dựng chính sách thương mại nhằm hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế cần quan tâm đến những qui định của những tổ chức này đặc biệt là những biện pháp đã có cam kết cắt giảm. Hiện tại Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và APEC do đó việc cắt giảm những biện pháp phi thuế cho phù hợp với những tổ chức này là vấn đề bắt buộc. Ngoài ra muốn trở thành thành viên chính thức của WTO-một tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu trong một tương lai gần, Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa những biện pháp thuế quan cũng như phi thuế.. Các nguyên tắc và qui định của WTO thông thường cũng là những chuẩn mực cho mối quan hệ giữa các quốc gia với các thể chế tài chính tiền tệ hay cho các tổ chức thương mại khác. Do đó có thể khẳng định chắc chắn rằng việc thực hiện triệt để bước đầu các cam kết mở đường cho Việt Nam tham 16 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam gia WTO cũng đồng thời giúp Việt Nam phần nào đáp ứng được những cam kết trong ASEAN và APEC. 3.2. Phân loại các NTM: Trên cơ sở các thuộc tính nói trên của các NTM có thể phân loại các NTM này thành bốn nhóm lớn với các thuộc tính sau: - PH: phù hợp với những nguyên tắc và qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. - KPH: không phù hợp với những qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. - BH: có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước. - KBH : không có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước 3.2.1.Nhóm 1:KPH Các NTM thuộc nhóm này hoặc là vi phạm rõ ràng qui định của WTO ( ví dụ áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu để xác định trị giá tính thuế hải quan), hoặc chỉ phù hợp trong những trường hợp đặc biệt (ví dụ cấm nhập khẩu hàng hoá có hại cho môi trường). Do đó tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu sau đây đều thuộc nhóm này: a.Các biện pháp quản lý định lượng Hạn ngạch: là qui định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định. Bao gồm: - Hạn ngạch toàn cầu (6210)1 Không xác định (6211) Xác định đối với các thành phần xuất khẩu (6212) _  Hạn ngạch song phương (6220)  Hạn ngạch theo mùa (6230) Các chữ số trong ngoặc đơn là mã số theo thống kê của UNCTAD. 17 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam  Hạn ngạch liên quan đến thực hiện xuất khẩu (6250)  Hạn ngạch liên quan đến bán hàng hoá nội địa (6250)  Hạn ngạch của các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6270) Ngăn cấm (6300). Bao gồm:  Cấm hoàn toàn (6310):trừ trường hợp đối với lí do môi trường, sức khoẻ, thuần phong mĩ tục,an ninh quốc phòng.  Ngừng cấp giấy phép (6320)  Cấm theo mùa (6330)  Cấm tạm thời (6340)  Đa dạng nhập khẩu (6350)  Cấm trên cơ sở nguồn gốc (cấm vận) (6360)  Cấm đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6370) Các thoả thuận hạn chế xuất khẩu (6600): các hạn chế được đặt ra bởi nước nhập khẩu nhưng được nước xuất khẩu quản lí.   Các thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện (6610) Các thoả thuận tiếp thị có trật tự (6620)  Thoả thuận đa dạng (6630) Thoả thuận hạn ngạch (6631) Thoả thuận tư vấn (6632) Thoả thuận hợp tác hành chính (6633)  Thoả thuận hạn chế xuất khẩu hàng dệt may ngoài MFA(6640) Cấp phép không tự động (6100) được xác định như là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu.  Giấy phép không có tiêu chuẩn thanh toán cụ thể (6110) 18 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam  Giấy phép đối với người mua chọn lọc (6120)  Giấy phép đối với việc sử dụng cụ thể (6130) Liên quan tới thương mại xuất khẩu (6131) Đối với mục đích ngoài xuất khẩu( 6132  Giấy phép liên quan đến sản phẩm địa phương (6140): Bán hàng hoá địa phương (6141) Yêu cầu nội dung địa phương (6142) Thương mại trao đổi hoặc tính toán (6143)  Giấy phép liên quan đến ngoại hối không chính thức (6150)  Chuyển đổi ngoại tệ bên ngoài (6151)  Chuyển đổi ngoại tệ của chính các nhà nhập khẩu (6152) b.Các biện pháp tương đương thuế quan Được định nghĩa như những biện pháp làm tăng chi phí theo cách tương tự đối với các biện pháp thuế quan. Bao gồm: Phụ phí hải quan (2100): còn được gọi là phí thu thêm hoặc thuế bổ sung là một phương tiện chính sách thương mại độc lập để tăng thu nhập tài chính hoặc bảo hộ công nghiệp trong nước. Thuế và chi phí bổ sung (2200): Chi phí bổ sung bao gồm thuế và lệ phí khác nhau đặt ra đối với hàng hàng hoá nhập khẩu cùng với thuế và phụ phí hải quan .  Thuế đối với các giao dịch chuyển đổi ngoại tệ (2210)      Thuế gián tem (2220) Lệ phí giấy phép nhâp khẩu (2230) Lệ phí hoá đơn lãnh sự (2240) Thuế thống kê (2250) Thuế đối với các phương tiện giao thông (2260) 19 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam  Thuế và phụ phí đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (2270), và những loại thuế khác (2280) Thuế và chi phí nội địa đánh vào nhập khẩu (2300)  Thuế hàng hoá chung (2310)  Thuế hàng hoá (2320)  Thuế và phí tổn đối với hàng hoá thuộc hạng mục sản phẩm nhạy cảm (2370) Đánh giá hải quan theo qui định (2400) Thuế hải quan và các chi phí khác đối với nhập khẩu chọn lọc có được áp dụng trên cơ sở đánh giá theo qui định về hàng hoá. Biện pháp này được đưa ra như một phương tiện để tránh gian lận hoặc bảo vệ công nghiệp trong nước. Đánh giá hải quan theo qui định làm biến đổi thuế theo gía hàng thành một dạng thuế đặc biệt. Các biện pháp tượng đương thuế quan khác (2900). c.Các biện pháp tài chính (4000) Các biện pháp qui định sự tham gia và chi phí của việc chuyển đổi ngoại tệ đối với việc nhập khẩu và xác định các điều kiện thanh toán. Các yêu cầu thanh toán trước (4100) Thanh toán trước các giá trị giao dịch nhập khẩu trong một thời gian cho phép trước khi nhập khẩu và\ hoặc thuế nhập khẩu liên quan được yêu cầu tại thời điểm giao dịch hoặc cấp giấy phép nhập khẩu.  Yêu cầu giới hạn tiền mặt (4120) Nghĩa vụ gửi toàn bộ số tiền liên quan đến giá trị giao dịch hoặc một phần được xác định của số tiền đó trong ngân hàng ngoại thương trước khi mở thư tín dụng; việc thanh toán có thể được yêu cầu bằng ngoại tệ. 20 Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam  Tiền gửi có thể trả lại đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (4170): Việc gửi lại tiền gửi là chi phí được trả lại khi các thùng hàng hoặc các sản phẩm đã sử dụng được trả lại hệ thống giao nhận. Tỷ giá hối đoái đa dạng (4200) Xác định tỉ giá hối đoái chính thức hạn chế (4300) Uỷ quyền ngân hàng (4320) Yêu cầu giao lại chuyển đổi ngoại tệ (4400) Các qui định liên quan đến các điều kiện chi trả đối với nhập khẩu (4500) Các qui định cụ thể liên quan đến các điều kiện thanh toán của quá trình nhập khẩu và việc đạt được và sử dụng tín dụng (nước ngoài và trong nước) đối với vấn đề nhập khẩu tài chính. Trì hoãn chuyển giao xếp hàng (4600) d. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp: Các hạn chế đối với công ty cụ thể (đầu mối xuất nhập khẩu) (6700):   Phê chuẩn chọn lọc các nhà nhập khẩu (6710) Hạn ngạch đối với công ty cụ thể (6720) Các biện pháp độc quyền (7000) Các biện pháp tạo nên một tình huống độc quyền,bằng cách đưa ra các quyền riêng biệt cho một hoặc một nhóm hạn chế các nhà kinh doanh vì những lí do xã hội tài chính hoặc kinh tế. Bao gồm: Một kênh đối với nhập khẩu (7100) : tất cả việc nhập khẩu hoặc việc nhập khẩu một loại hàng hoá chọn lọc phải thông qua các cơ quan nhà nước hoặc các doanh nghiệp do nhà nước quản lí. Đôi khi các khu vực tư nhân cũng dược ưu đãi những quyền nhập khẩu riêng biệt. Bao gồm:   Quản lí thương mại nhà nước (7110) Cơ quan nhập khẩu duy nhất (7120) 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan