Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp những vấn đề lý luận về gia đình trong luật hôn nhân gia đìn...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp những vấn đề lý luận về gia đình trong luật hôn nhân gia đình việt nam

.PDF
113
110
99

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu hoàn toàn của tôi dưới sự hộ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về Luận văn này nếu có sự tranh chấp. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Duy MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH .......... 5 1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH ........................................................................ 5 1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học..................................................... 5 1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học ................................................. 7 1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học ..................................................... 9 1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY .............................. 15 1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ .............. 18 1.3.1. Đạo đức ........................................................................................... 18 1.3.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán ............................................... 20 1.3.3. Yếu tố kinh tế - xã hội – khoa học kỹ thuật .................................... 21 1.3.4. Yếu tố tôn giáo ............................................................................... 21 1.4. KHÁI QUÁT SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT HN&GĐ VỀ GIA ĐÌNH QUA CÁC THỜI KỲ ....................................................................... 23 1.4.1. Gia đình theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam ......... 23 1.4.2. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc . 26 1.4.3. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay .............................................................................................. 28 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VỀ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HN&GĐ NĂM 2014 ....................................................................................... 33 2.1. QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG..................................................... 33 2.1.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng ............................................. 34 2.1.2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng ................................................... 44 2.1.3. Chấm dứt hôn nhân ......................................................................... 65 2.2. QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON ................................................. 76 2.2.1. Việc xác định cha, mẹ, con ............................................................. 76 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con ......................................... 84 2.3. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH 89 2.3.1. Quan hệ giữa anh, chị, em với nhau ............................................... 89 2.3.2. Mối quan hệ giữa ông bà và cháu ................................................... 91 2.3.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột...................... 93 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 95 3.1. THỨC TIỄN THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014 .......... 95 3.2. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH.................................................................................. 98 KẾT LUẬN ................................................................................................... 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 108 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện tầm quan trọng của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa học có cách nhìn khác nhau, nghiên cứu về gia đình với những mục tiêu khác nhau. Nói đến gia đình là nói đến các thành viên gia đình cùng chung sống, đùm bọc và giúp đỡ nhau. Dưới góc độ pháp lý, nghiên cứu về gia đình nhằm xác định thành viên gia đình, mối quan hệ giữa những thành viên gia đình để từ đó quy định nghĩa vụ và quyền tương ứng đối với mỗi thành viên. Trải qua các thời kỳ khác nhau thành viên gia đình cũng có sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, xác định quan hệ gia đình vẫn dựa trên các mối quan hệ chính là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Theo pháp luật hiện hành, quan hệ gia đình được hiểu theo nghĩa rất hẹp. Chẳng hạn, quan hệ hôn nhân chỉ được hiểu là quan hệ giữa người nam và người nữ có đăng ký kết hôn. Quan hệ huyết thống dường như cũng chỉ được hiểu là quan hệ giữa những người có cùng huyết thống về trực hệ và những người có họ trong phạm vi ba đời. Trong quan hệ nuôi dưỡng cũng chỉ có quan hệ giữa cha mẹ và các con của người nhận nuôi với người con nuôi. Các thuật ngữ mà trong đời sống hàng ngày người Việt Nam vẫn sử dụng như quan hệ họ hàng, thân thích, thân thuộc. Trước thực tiễn đó đòi hỏi phải nghiên cứu để làm sáng tỏ về gia đình phải có sự nghiên cứu và tìm hiểu về, để từ đó xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình, sao cho các hành vi của các thành 1 viên gia đình phải đúng chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghiên cứu đề tài “Gia đình trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam” để phục vụ cho mục đích đó. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về gia đình, không chỉ có riêng ngành luật mà nhiều ngành khoa học khác cũng tham gia vào vấn đề này. Trong lĩnh vực pháp luật, chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình đã có nhiều bài viết về các khía cạnh của gia đình như: Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng; quan hệ cha mẹ con, … Một số đề tài hiện đã đề cập đến thành viên gia đình như: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam , Tập I – Gia đình , NXB Trẻ TP.HCM của TS.Nguyễn Ngọc Điện (2002); Việt Nam dân luật lược giảng – Luật gia đình. Quyển tập 1, tập 1 của Vũ Văn Mẫu (1973); ... Tuy nhiên, những tác phẩm này còn phân tích một cách rời rạc và chưa tạo ra cách nhìn có hệ thống về gia đình Đây là công trình nghiên cứu về gia đình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, có sự so sánh đối chiếu với một số ngành khoa học khác, có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để đưa ra được sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình một cách phù hợp nhất. Công trình là cái nhìn xuyên suốt các quy phạm pháp luật quy định về thành viên gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là nghiên cứu vấn đề lý luận chung về gia đình, cơ sở để phát sinh, hình thành gia đình, mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình theo quy định của pháp luật. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, từ đó làm rõ những điểm đã đạt được, vướng mắc hạn chế cần hoàn thiện Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận gia đình từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là từ góc độ luật HN&GĐ . Nghiên cứu về các mối quan hệ tạo thành gia đình theo luật HNGĐ Việt Nam năm 2014, 2 trên cơ sở phân tích, so sánh với các quy định điều chỉnh quan hệ gia đình trong các văn bản pháp luật trước đây. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định điều chỉnh về gia đình trong cuộc sống hiện tại. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận về gia đình theo quan điểm luật học mà chủ yếu là luật HNGĐ. Những quy định của pháp luật điều chỉnh về gia đình và các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về gia đình 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn, vấn đề gia đình được xem xét, nghiên cứu theo Luật HN&GĐ năm 2014 theo 3 mối quan hệ cơ bản tạo thành gia đình là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình. Trong quá trình nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu với các quy định điều chỉnh về gia đình trong hệ thống pháp luật HNGĐ Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá về hiệu quả điều chỉnh, việc áp dụng các quy định hiện hành về gia đình để phát hiện những điểm vướng mắc, bất cập và đưa ra các đề xuất, kiến nghị. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp ..để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra 6. Tính mới và đóng góp của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện, có hệ thống về sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình từ góc độ lý luận và thực tiến theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. 3 - Luận văn đã: phân tích khái quát trên cơ sở khoa học để xây dựng khái niệm gia đình và thành viên gia đình, cũng như khắc họa được những chức năng cơ bản của gia đình trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, để từ đó làm rõ cơ sở xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình hiện nay một cách hiệu quả.. - Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh gia đình về tính khả thi, hiệu quả điều chỉnh cũng như những vướng mắc, bất cập còn tồn tại cần khắc phục, sửa đổi 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Một số lý luận chung về gia đình Chương 2. Nội dung điều chỉnh về gia đình theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 Chương 3. Thực tiễn thực hiện các quy định về gia đình trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam và một số kiến nghị 4 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH 1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH 1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học Triết học nghiên cứu gia đình trong quá trình phát triển của lịch sử và các hình thái kinh tế - xã hội. Theo quan điểm triết học, hôn nhân và gia đình không ngừng vận động và phát triển. Theo C.Mac – Ph.Anghen thì có ba hình thức hôn nhân chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nhân loại: Ở thời đại mông muội có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ một vợ một chồng [2 tr55-129]. Gia đình là một phạm trù lịch sử, các hình thái và chức năng của gia đình là do tính chất của quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội cũng như trình độ phát triển văn hóa của xã hội quyết định. Trong lịch sử đã trải qua bốn hình thái gia đình, đó là gia đình huyết tộc, gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia đình một vợ một chồng. Gia đình huyết tộc là hình thái gia đình đầu tiên trong lịch sử. Lúc này các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế hệ: Trong phạm vi gia đình, tất cả ông và bà đều là vợ chồng với nhau; các con của ông bà tức là các người cha và các bà mẹ cũng là vợ chồng với nhau; đến lượt con cái của những người này tức là cháu của ông bà cũng hợp thành một nhóm vợ chồng thứ ba; đến lượt con cái của những người con ấy là chắt của ông bà nói đầu tiên lại hợp thành nhóm vợ chồng thứ tư. Như vậy, những người cùng thế hệ là vợ chồng của nhau, những người khác thế hệ không có quyền và không có nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Gia đình pu-na-lu-an: Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, một hay nhiều nhóm chị em gái trở thành hạt nhân của một cộng đồng, còn 5 những anh em trai cùng mẹ của họ lại trở thành hạt nhân của một cộng đồng khác. Bằng cách này mà từ hình thái gia đình huyết tộc đã xuất hiện hình thái gia đình pu-na-lu-na. Theo hình thái gia đình pu-na-lu-an, một số chị em gái cùng mẹ hay xa hơn đều là vợ chung của những người chồng chung, trừ những anh em trai của những người này. Khi các anh em trai cùng có vợ chung thì họ trở thành chồng chung. Lúc đó, những người này không cần coi nhau là anh em mà gọi nhau là “người bạn đường” hay “người cùng hội cùng thuyền”. Một cách tương tự, một số anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy chung một số vợ không phải là chị em gái của họ và những người vợ ấy đều gọi nhau là pu-na-lu-a. Đây là hình thức cổ điển của một kết cấu gia đình có đặc trưng là: Chung chồng, chung vợ với nhau trong phạm vi một gia đình nhất định, nhưng phải loại trừ những anh em trai của các người vợ, đồng thời cũng loại trừ những chị em gái của những người chồng. Gia đình cặp đôi: Một loại hình thức kết hôn từng cặp, lúc bấy giờ, trong số những người vợ của mình, người đàn ông có một vợ chính, và trong số nhiều người chồng khác, anh ta là người chồng chính của người đàn bà ấy. Do thị tộc ngày càng phát triển và những nhóm “anh em trai” và “chị em gái” không còn có thể lấy nhau được nữa ngày càng nhiều, càng mở rộng và phát triển hơn nữa thì tất cả những người bà con họ hàng cùng dòng máu đều không được lấy nhau. Trong tình trạng cấm kết hôn ngày càng phức tạp thì chế độ quần hôn ngày càng không thể thực hiện được, chế độ ấy đang bị gia đình cặp đôi ngày càng lấn át và thay thế. Một người đàn ông sống với một người đàn bà với một sự gắn bó với nhau rất lỏng lẻo, mối liên hệ vợ chồng vẫn có thể bị bên này hay bên kia cắt đứt một cách dễ dàng và con cái lúc này cũng chỉ thuộc về người mẹ. Gia đình một vợ một chồng: Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia đình cặp đôi, nó đánh dấu cho buổi ban đầu của thời đại văn minh. Gia đình 6 ấy dựa trên sự thống trị của người chồng, nhằm chủ đích là làm cho con cái sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không ai tranh cãi được và sự rõ ràng về dòng dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó sau này sẽ được thừa hưởng tài sản của người cha với tư cách là người kế thừa trực tiếp. Gia đình một vợ một chồng khác với gia đình cặp đôi ở chỗ là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều, hai bên không còn có thể tùy ý bỏ nhau được nữa. Qua bốn hình thái gia đình trên ta thấy triết học không nghiên cứu gia đình cụ thể ở từng giai đoạn mà nghiên cứu sự vận động và phát triển của nó theo các hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái gia đình cũng vận động và phát triển theo quy luật của sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. 1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học Rất nhiều ngành cùng tham gia nghiên cứu về gia đình cố gắng đưa ra khái niệm về gia đình như các nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học, văn hóa… nhưng chưa có ngành nào nghiên cứu về gia đình nhiều như ngành xã hội học. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về gia đình. Tùy vào từng lĩnh vực nghiên cứu mà mỗi nhà khoa học lại có một khái niệm gia đình riêng phù hợp với lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Có thể nói, chưa có ngành nào lại đưa ra nhiều khái niệm gia đình như ngành xã hội học. Trong Tập bài giảng Xã hội học của Trường Đại học luật Hà nội, nhóm tác giả đã nêu hai khái niệm về gia đình để phục vụ cho việc giảng dạy: Gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là một phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội [8 tr335]. Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ 7 huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung [8 tr335]. Môn Xã hội học được giảng dạy ở trường Đại học luật là môn học nhằm mục đích giúp người học hiểu biết hơn về xã hội nhằm nhanh chóng tiếp cận hiểu biết pháp luật. Thực hiện ba chức năng cơ bản là chức năng nhận thức, chức năng thực tiễn và chức năng tư tưởng. Khái niệm gia đình được nhóm tập thể đưa ra cũng không nằm ngoài ba chức năng trên. Do đó, hai khái niệm trên của tập thể tác giả đã chưa phản ánh một cách đầy đủ về gia đình. Ngoài hai khái niệm trên thì còn có những khái niệm khác nhau của các tác giả xã hội học khác khi nghiên cứu về gia đình. Trong cuốn “Gia đình trong bối cảnh đổi mới”, gia đình được định nghĩa như sau: Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống, hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có chung ngân sách [31 tr114]. Do trong thực tiễn tồn tại nhiều loại mô hình gia đình nên việc nghiên cứu gia đình và giới trong thời kỳ đổi mới nhằm thực hiện quản lý xã hội của các nhà quản lý cũng chỉ nghiên cứu những gia đình mang tính chất tiêu chuẩn. Do vậy, khái niệm nêu trên cũng chưa thực sự đầy đủ và bao quát hết mọi gia đình trong xã hội. Khi nghiên cứu xã hội học về “Một số lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học”, nhóm tác giả đã đưa ra khái niệm về gia đình cho lĩnh vực mình nghiên cứu như sau. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù,một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi,bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người [35 tr310]. Khái niệm do tác giả đưa cũng chưa phản ánh đầy đủ về gia đình 8 bởi hình thức gia đình rất đa dạng. Khái niệm này khá tương đồng với quy định tại khoản 10 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Mặc dù chưa có một khái niệm chung về gia đình nhưng các nhà xã hội học đều ghi nhận gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, trong đó các thành viên có quan hệ quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng, cùng chung sống. Bởi tính đa dạng của gia đình mà làm cho bất cứ một khái niệm nào về gia đình cũng trở nên lỏng lẻo, điều này đã tạo nên nhiều tranh luận giữa các nhà khoa học, nó đã và đang thách thức các nhà khoa học xã hội học đưa ra một định nghĩa đầy đủ về khái niệm gia đình. Xã hội học coi gia đình là một thể chế xã hội luôn vận động và phát triển. Vì gia đình là một thể chế nên mỗi con người từ khi sinh ra đã đặt vào những quan hệ nhất định. Gia đình là một cơ thể sống, nằm trong quá trình phát triển không ngừng, gắn với sự phát triển chung của xã hội. Khi xã hội phát triển, sự phân chia lao động càng được đẩy mạnh, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa sẽ dẫn đến sự xé nhỏ gia đình, từ gia đình lớn trong đó có nhiều thế hệ chuyển sang gia đình nhỏ chỉ có bố mẹ và con cái. Sự phát triển từ gia đình gia trưởng sang gia đình hạt nhân trở thành một quá trình có tính quy luật. Nhìn chung thì các nhà xã hội học vẫn nhìn nhận gia đình là một thiết chế xã hội gồm những người dựa trên ba mối quan hệ truyền thống là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng mà chưa có nhà xã hội học nào mở rộng ba mối quan hệ trên khi nghiên cứu về gia đình. 1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học 1.1.3.1. Gia đình theo luật La Mã Nhà nước La Mã rộng lớn ra đời, phát triển và tồn tại trong một thời kỳ dài của lịch sử. Sự xuất hiện gia đình La Mã là một hiện tượng xã hội tự nhiên mà theo đó Nhà nước luôn có những quy định nhằm điều chỉnh quan hệ hôn 9 nhân và gia đình theo từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Do trải qua nhiều thời kỳ khác nhau nên những quy định trong các thời kỳ cũng có nhiều sự khác nhau. Qua nghiên cứu của nhiều học giả, gia đình La Mã là loại hình gia đình phụ hệ với quyền lực của người chủ Pater familias. Đó là sự thống nhất giữa vợ, con cái, họ hàng, kẻ làm thuê và nô lệ dưới sự điều khiển của gia chủ. Pater familias – chủ hộ theo chế độ hôn nhân và gia đình La Mã – là thể nhân có toàn quyền (manus) duy nhất trong gia đình. Pater familias tập trung trong tay mọi quyền lực và quyết định tất cả mọi vấn đề liên quan đến mọi thành viên gia đình. Chủ gia – Pater familias trong gia đình La Mã là công dân đầy đủ quyền hạn. Thuật ngữ familia lúc đầu được dùng để chỉ nô lệ trong thành phần kinh tế gia đình, sau đó được dùng để gọi tất cả những gì thuộc về kinh tế gia đình: Tài sản và lực lượng lao động, lực lượng lao động trong gia đình La Mã bao gồm vợ, con, họ hàng, nô lệ, kẻ làm thuê. Chế độ gia đình La Mã cổ xưa cũng như chế độ quyền sở hữu lúc đó còn mang dấu ấn của một hình thái đầu tiên, tiền nhà nước – chế độ công xã nguyên thủy mà đặc điểm cơ bản là sở hữu chung về phương tiện sản xuất và sản phẩm lao động. Cùng với sự xuất hiện của nhà nước đã xảy ra sự phân hóa tài sản trong thị tộc: Quyền lực dần dần rơi vào tay những gia đình giàu có mà đứng đầu những gia đình này là các gia chủ đầy quyền lực. Lúc đầu gia chủ có quyền lực như nhau (manus) đối với vợ, con, nô lệ, đồ vật. Sau đó quyền lực nói trên được tách riêng thành quyền lực đối với vợ (manus mariti) và quyền đối với con cái (manus patria potertas). Gia đình đối ngẫu với sự phụ thuộc vào một gia chủ đã là sự biểu hiện rõ nhất về quyền lực gia chủ Pater familias. Trong trường hợp con gái đã đi lấy chồng thì không còn quan hệ với gia đình đối ngẫu nữa. 10 Vào thời cổ xưa quyền lực của gia chủ là vô hạn. Tuy nhiên, dần dần quyền lực đó cũng bắt đầu có những giới hạn nhất định, manus Pater familias – nội dung quyền lực của chủ hộ qua từng thời kỳ tồn tại phát triển của nhà nước La Mã cũng thay đổi. Tư cách của những người phụ thuộc vào gia chủ đã được công nhận trong luật dân sự, những thành viên gia đình về sau đã có quyền tư pháp. Sự suy yếu quyền lực của gia chủ là hậu quả của những biến đổi các quan hệ sản xuất của sự tan rã gia đình phụ hệ, sự phát triển thương mại và tiếp theo là sự khẳng định vai trò của những thành viên lớn tuổi trong gia đình, những người này đã có sự độc lập tương đối. Quan hệ họ hàng dần dần đã thay thế cho các quan hệ đối ngẫu. Như vậy, hình thái gia đình La Mã là hình thái chuyển tiếp của chế độ gia đình phụ hệ với đặc thù quyền lực tập trung trong tay chủ hộ. Với các đặc trưng của thời kỳ bấy giờ nên khái niệm gia đình trong thời kỳ La Mã theo các tư liệu lịch sử cổ đại là sự liên minh, liên kết giữa chồng, vợ, con, những người thân thuộc ruột thịt và cả nô lệ dưới quyền của chủ hộ [6 tr39]. Từ khái niệm trên của gia đình La Mã cho ta thấy trong gia đình của người La Mã có các thành viên: Chủ hộ, vợ, con cái, họ hàng, nô lệ và người làm thuê. Trong đó chủ hộ (pater familias) là người có quyền lực tuyệt đối, những thành viên khác trong gia đình như vợ, con cái, những người thân thuộc ruột thịt và nô lệ được coi là lực lượng lao động trong gia đình. 1.1.3.2. Gia đình theo pháp luật Việt Nam Luật học nhìn nhận gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, là tiền đề để xây dựng gia đình. Khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hôn 11 nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam, nữ được xác lập khi tuân thủ các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Như vậy, khi một người nam và một người nữ kết hôn với nhau thì giữa hai người này tồn tại quan hệ hôn nhân và hai người trở thành những thành viên của gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con; ông bà và cháu; cụ và chắt; cô, dì, chú, bác, cậu và cháu; anh chị em với nhau… phát sinh do sự kiện sinh đẻ. Cụ là người sinh ra ông bà và các anh em của ông bà, thế hệ ông bà là thế hệ tiếp theo của cụ; ông bà là người sinh ra cha mẹ và các anh em của cha mẹ như cô dì chú bác cậu, thế hệ này lại là thế hệ tiếp theo của ông bà; đến lượt cha mẹ là người sinh ra các con, các con trở thành thế hệ tiếp theo của cha mẹ. Do giữa những người này có những sự kiện là sinh đẻ để tạo ra thế hệ tương lai hoặc cùng được sinh ra từ một gốc, nên giữa họ có quan hệ huyết thống với nhau. Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ phát sinh do sự kiện nuôi con nuôi. Do việc nhận nuôi con nuôi, người nhận con nuôi được gọi là cha mẹ nuôi và người được nhận làm con nuôi được gọi là con nuôi. Người con nuôi trở thành thành viên gia đình của người nuôi, bình đẳng với những người con đẻ của người nuôi. Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Theo quy định trên người con nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và gia đình. Người con nuôi sẽ bình đẳng với mọi người con khác trong gia đình về 12 quyền và nghĩa vụ. Những người này có quan hệ với nhau do cùng quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, cùng nhau xây dựng kinh tế gia đình và cũng cùng nhau vun đắp phát triển khối tài sản chung của gia đình. Trong trường hợp, nếu một trong số những người này có khối tài sản riêng thì người đó phải đóng góp tài sản để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tiễn của mình. Những thành viên gia đình là những người tích cực trong việc giúp đỡ nhau về mặt tinh thần, là chỗ dựa tinh thần của nhau, là nơi động viên, an ủi những thành viên khác tốt nhất khi gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống. Đồng thời, gia đình cũng là nơi để các thành viên gia đình chia sẻ thành công của nhau một cách chân tình nhất. Các thành viên gia đình có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, nghĩa vụ của người này là quyền của người kia và ngược lại. Không phải gia đình nào cũng có đầy đủ các mối quan hệ nêu trên, trong từng trường hợp cụ thể, gia đình có thể chỉ có một mối quan hệ như chỉ có quan hệ hôn nhân hoặc chỉ có quan hệ nuôi dưỡng, cũng có thể có hai, ba hoặc có nhiều mối quan hệ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không giải thích về gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tại khoản 10 Điều 8 đã giải thích: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”. Theo Từ điển luật học thì gia đình là: “Tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình.Gia đình Việt nam thường bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống như: ông bà, cha mẹ, con cháu… Họ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn 13 nhau về vật chất và tinh thần, sinh đẻ hay nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam. Gia đình có các chức năng cơ bản: 1) chức năng sinh đẻ; 2) chức năng giáo dục; 3) chức năng kinh tế. Bên cạnh chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực hiện chức năng quan tâm và chăm sóc người cao tuổi” [1 tr282]. Giải thích trên về gia đình tương đồng với khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ điển đã giải thích ngắn gọn về gia đình Việt Nam trong đó có các thành viên của nhiều thế hệ chung sống, chăm sóc và giúp đỡ nhau, cùng với đó là nêu lên chức năng cơ bản của gia đình. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học luật Hà Nội đã đưa khái niệm về gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình như sau: “Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội”. Khái niệm gia đình trên theo Luật Hôn nhân và gia đình, mục đích để giảng dạy môn Luật Hôn nhân và gia đình do đó khái niệm gia đình này phù hợp với quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Như vậy các khái niệm gia đình trên đều chưa bao quát được các trường hợp trong thực tiễn khi nghiên cứu về thành viên gia đình. Trong thực tiễn, gia đình không chỉ có ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng mà còn có những mối quan hệ khác phát sinh từ ba mối quan hệ trên. Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, em mạnh dạn đưa ra khái niệm gia đình của mình: 14 Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng hay những người không có ba mối quan hệ trên nhưng từ ba mối quan hệ đó mà cùng sống chung với nhau, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa những người này với nhau theo quy định của pháp luật. 1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY Gia đình là một hiện tượng xã hội có tính chất tự nhiên. Bất cứ xã hội nào cũng đều có gia đình, tập hợp các gia đình để hình thành nên xã hội. Ngược lại, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần có gia đình. Theo quy luật tự nhiên, mỗi người khi sinh ra đều có gia đình, lớn lên trong gia đình đó. Khi trưởng thành lại thành lập một gia đình mới. Gia đình hình thành và phát triển không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, theo quy luật, thế hệ này đến thế hệ khác hình thành nên các gia đình theo quy luật phát triển của xã hội, mang tính chất tự nhiên. Lấy hiện tượng ấy làm căn bản, Luật Hôn nhân và gia đình tất nhiên phải chú trọng đến các điều kiện tự nhiên hơn là đến ý chí các đương sự. Nói một cách khác, vai trò của ý chí chỉ được pháp luật công nhận, một khi các điều kiện tự nhiên được hội đủ. Gia đình có địa vị rất quan trọng và thường được coi là nền tảng quốc gia. Trên nguyên tắc, các vấn đề liên quan đến gia đình thường có tính chất cưỡng chế: Các thành viên gia đình không thể tự ý thỏa thuận gạt bỏ các điều khoản ấy được. Mỗi gia đình được coi là một tế bào của xã hội. Để góp phần xây dựng quốc gia vững mạnh thì mỗi gia đình phải vững mạnh. Để xây dựng gia đình vững mạnh thì mỗi thành viên gia đình phải có cách xử sự phù hợp. Để mọi người trong gia đình nói riêng và trong cả cộng đồng xã hội nói chung có cách xử sự phù hợp thì cần có những quy định chung cho cách xử sự đó. Do đó, bất kỳ quốc gia nào cũng đều dùng pháp luật để điều chỉnh vấn đề gia 15 đình và bắt buộc mọi người trong xã hội phải tuân theo. Nếu có bất cứ thành viên nào không tuân theo thì phải chịu những chế tài do pháp luật dự liệu. Chẳng hạn, Luật Hôn nhân và gia đình quy định nữ từ 18 tuổi trở lên được đăng ký kết hôn thì khi nữ chưa được 18 tuổi thì các bên không được thỏa thuận kết hôn khi chưa đạt độ tuổi luật định. Trong gia đình, luân thường đạo lý là yếu tố quan trọng giữ vững trật tự gia đình mà ở đó mỗi thanh viên gia đình phải tuân theo. Trong mỗi cộng đồng hay dân tộc đều đỏi hỏi phải có đạo đức, luân thường đạo lý của cộng đồng, dân tộc đó, song chưa có nơi nào luân thường đạo lý lại được thể hiện rõ nét như trong gia đình. Trong mỗi gia đình thì luân thường đạo lý như một đạo luật thường trực trong mỗi thành viên của gia đình, thậm chí nó còn là của chung một cộng đồng xã hội hay của cả một quốc gia. Lịch sử nhân loại chứng tỏ rằng nền tảng và tổ chức gia đình chỉ bền vững, nếu được căn cứ vào một nền đạo lý nghiêm chỉnh. Cũng vì lẽ ấy, ở các quốc gia mà gia đình có một tổ chức bền vững, các điều khoản trong luật gia đình thường cũng có thể coi như những quy chế trong đạo lý. Các điều được quy định trong luật có tính chất luân thường đạo lý như vợ chồng chung thủy, con cái phải thương yêu kính trọng ông bà, cha mẹ đã nói lên điều đó. Ở bất kỳ thiết chế xã hội nào thì gia đình cũng có các chức năng cơ bản sau: Chức năng sinh đẻ (hay còn gọi một cách khác là chức năng tái sản xuất con người): Là chức năng quyết định, đảm bảo duy trì và phát triển thế hệ tương lai. Gia đình, là nơi các thế hệ tiếp theo được sinh ra, tồn tại và phát triển, là nơi tái sản xuất ra con người để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội. Chức năng sinh đẻ giúp con người duy trì nòi giống từ thế hệ này sang thế hệ khác, đảm bảo một mạch sống liên tục của con người trên hành tinh, duy trì sự phát triển và ổn định của xã hội loài người. Nếu không thực hiện chức năng sinh đẻ, gia đình một ngày nào đó bị tuyệt vong do thế hệ 16 trước chết đi, không còn thế hệ sau để thay thế. Nhìn rộng ra cả một dân tộc, nếu các gia đình không thực hiện chức năng sinh đẻ thì các gia đình dần dần sẽ bị lụi tàn, dẫn đến dân tộc đó cũng không thể tồn vong. Tương tự như vậy, quốc gia bị diệt vong nếu các gia đình trong quốc gia đó không thực hiện chức năng sinh đẻ. Nói một cách khác, chức năng sinh đẻ có tính chất quyết định sự tồn vong của một dân tộc, một quốc gia và nói rộng ra là của cả loài người. Chức năng giáo dục: Là chức năng chủ yếu của gia đình, nó rất quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia đình, đặc biệt là thế hệ trẻ. Giáo dục trong gia đình phải kết hợp với giáo dục nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. Tuy nhiên, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên đối với mỗi con người. Gia đình là nơi mỗi con người từ khi sinh ra được học những bài học đầu tiên, trong quá trình hình thành và phát triển con người được các thành viên gia đình đó giáo dục, chỉ dạy những điều đúng, sai để nhận thức và hình thành nên nhân cách của con người. Do vậy, gia đình thực hiện chức năng giáo dục có hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhận thức của các thế hệ đi trước. Trong mỗi gia đình, nhận thức về các sự vật, hiện tượng trong xã hội cũng có thể không giống nhau, đặc biệt là các thế hệ đi trước. Thế hệ trước nhận thức một cách đúng đắn thì sẽ truyền lại cho thế hệ sau sự nhận thức đó, thế hệ sau có cơ hội tiếp thu tư tưởng đúng đắn. Ngược lại, nhận thức sai lầm của thế hệ trước có thể dẫn đến việc truyền thụ những nhận thức sai lầm đó cho thế hệ sau. Do đó, nhân cách của con người được hình thành và phát triển thông qua chức năng giáo dục của gia đình, gia đình có chức năng giáo dục để hình thành tư duy của các thành viên gia đình đó một cách đúng đắn, phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Chức năng kinh tế: Gia đình được coi như một đơn vị kinh tế cơ bản, độc lập của xã hội. Mỗi gia đình trong xã hội điều tham gia vào quá trình lao động 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng