Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thực trạng hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán ...

Tài liệu Luận văn thực trạng hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán seabank

.DOC
58
346
66

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.Chúng ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán.Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới,thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đang phát triển theo quy luật này .Cho đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 7 năm đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình. Gần 7 năm làm quen với hoạt động thị trường chứng khoán, 7năm vượt qua bao thăng trầm, bao khó khăn thử thách để từng bước phát triển và bước đầu chúng ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt trong hai tháng gần đây chúng ta cũng thực sự chứng kiến và cảm nhận được sự nóng bỏng, sự sôi động của thị trường chứng khoán Việt Nam,VN-INDEX đã vượt qua ngưỡng 1000 điểm, đã thu hút được rất nhiều công chúng tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán các công ty chứng khoán cũng phát triển song song thực hiện các chức năng của mình,trong đó có công ty chứng khoán ngân hàng Đông Nam Á (công ty chứng khoán Seabank).Tuy mới đi vào hoạt động nhưng công ty chứng khoán Seabank đã có những đính hướng rất rõ ràng,và hình thành các lĩnh vực chuyên môn với đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm với mục tiêu cung cấp các sản phẩm dịch vụ chứng khoán chất lượng cao cho các khách hàng cá nhân, doạnh nghiệp và nhà đầu tư. 1 Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán: 1.Các hoạt động cơ bản của công ty: Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,phù hợp với các điều kiện kinh tếchính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới,Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng biệt.Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000,và thực hiện giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.Thị trường chứng khoán phần nào đã đáp ứng nhu cầu về vốn để tái cơ cấu và phát triển nền kinh tế .TTCK Việt Nam đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP,góp phần vào công cuộc CNH-HĐH của đất nước.Hình thành và phát triển thị trường chứng khoán cả về số lượng và chất lượng là một trong những định hướng phát triển của Chính Phủ nhằm phát triển thị trường.Công ty chứng khoán là một trong những chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN,các công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty cổ phần hoặc trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân,có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công ty chứng khoán: Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành.Họ không thể làm tốt việc đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy 2 tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và người phát hành. 1.1.1.Khái niệm công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường tài chính. Ở Việt Nam.theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN,công ty chứng khoán là công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. 1.1.2. Đặc điểm công ty chứng khoán: - Loại hình tổ chức: Có ba loại hình tổ chức cơ bản:  Công ty hợp danh: o Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên o Thành viên của công ty chứng khoán hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. o Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.  Công ty cổ phần: o Là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. o Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. o Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành  Công ty TNHH: 3 o Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. o Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. - Mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán:  Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh: Theo mô hình này hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rui ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển.  Mô hình công ty chứng khoán đa năng: Theo mô hình này công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức: o Đa năng một phần:Theo mô hình này các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. o Đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. o Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng 4 hoá đầu tư ngoài ra mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế đó là vừa là tổ chức tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên môn không sâu như các công ty chứng khoán chuyên doanh. - Về tính chuyên môn hoá và phân cấp quản lý: - Công ty chứng khoán chuyên môn hoá ở mức độ cao trong từng bộ phận phong ban. Toàn bộ các nghiệp vụ của công ty chứng khoán đều phục vụ cho các giao dịch chứng khoán, mỗi một nghiệp vụ lại liên quan đến một lĩnh vực riêng, các phòng ban khác nhau đảm nhiệm các công việc khác nhau. Giữa các phòng ban có một sự độc lập tương đối, mỗi liên kết không phải mật thiết hữu cơ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Chính vì vậy hoạt động hay cơ cấu của phòng ban này không ảnh hưởng nhiều đến phòng ban khác. - Về nhân tố con người: Công ty chứng khoán dựa vào chất lượng chuyên môn đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý trong công ty. Do đó ở bất kỳ thời điểm nào công ty chứng khoán cũng thực sự chú trọng đến nhân tố con người, thể hiện ở những điểm sau: o Lựa chọn nhân viên có năng lực và phù hợp với yêu cầu công việc. o Chú trọng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. o Có chế độ đãi ngộ và khuyến khích nhân viên. - Về ảnh hưởng của thị trường tài chính: 5 Công ty chứng khoán tham gia hoạt động trực tiếp trên thị trường chứng khoán nên bất kỳ một biến động nào của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung đều tác động sâu sắc đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và doanh thu của công ty chứng khoán. Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán càng phát triển càng tạo ra nhiều công cụ tài chính, có thêm nhiều dịch vụ, mở rộng phạm vi kinh doanh tạo cơ hội thu lợi nhuận cho công ty chứng khoán. Mặt khác công ty chứng khoán không ngừng cải tiến, không ngừng sáng tạo để thích nghi môi trường hoạt động. - Về cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán: Phụ thuộc vào quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán chia thành hai khối chủ yếu: Khối nghiệp vụ và khối phụ trợ. o Khối nghiệp vụ gồm:  Tự doanh  Môi giới  Bảo lãnh phát hành  Tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán  Phòng kỹ quỹ  Khối phụ trợ:  Phòng nghiên cứu và phát triển  Phòng phân tích và thông tin thị trường  Phòng kế hoạch công ty  Phòng phát triển sản phẩm mới  Phòng công nghệ thông tin  Phòng pháp chế  Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ 6  Phòng ngân quỹ  Phòng tổng hợp hành chính nhân sự 1.1.3.Vai trò của công ty chứng khoán: Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán,qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc hình thành những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng. Vai trò của các công ty chứng khoán trên thị trường tài chính: *Vai trò huy động vốn: Công ty chứng khoán có vai trò là chiếc cầu nối và đổng thời là kênh dẫn vốn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán. *Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả: Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán nói riêng, thông qua các sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giứp các nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình. Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. *Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt: Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định .Các công ty chứng 7 khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này,giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. *Thực hiện tư vấn đầu tư: Các công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân đầu tư. *Tạo ra các sản phẩm mới: Trong thời gian gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh. Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến, các công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đổng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế. 1.2. Các hoạt động chính của công ty chứng khoán: 1.2.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:  Hoạt động môi giới: Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.  Hoạt động môi giới có các chức năng:  Cung cấp dịch vụ với hai tư cách: -Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư:cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư. 8 -Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.  Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết:trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời.  Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sự sợ hãi và tham lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.  Đề xuất thời điểm bán hàng.  Nghề môi giới chứng khoán có những đặc trưng cơ bản: -Lao động cật lực,thù lao xứng đáng. -Những phẩm chất cần có: kiên nhẫn,giỏi phân tích tâm lý và ứng xử. -Nổ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng.  Nghề môi chứng khoán cần các kỹ năng: -Kỹ năng truyền đạt thông tin. -Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: 1.Những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc từ các tài khoản chuyển nhượng lại. 2.Những lời giới thiệu khách hàng. 3.Mạng lưới kinh doanh. 4.Các chiến dịch viết thư. 5.Các cuộc hội thảo. 6.Gọi điện làm quen. 9 -Kỹ năng khai thác thông tin. 1.2.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán:  Hoạt động tự doanh: Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình.  Mục đích của hoạt động tự doanh: Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC,…với mục đích nhằm thu lợi cho chính mình  Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh: -Tách biệt quản lý. -Ưu tiên khách hàng. -Bình ổn thị trường.  Quy trình nghiệp vụ trong hoạt động tự doanh: -Xây dựng chiến lược đầu tư. -Khai thác,tìm kiếm các cơ hội đầu tư. -Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư. -Thực hiện đầu tư. -Quản lý đầu tư và thu hồi vốn. 1.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:  Tài liệu bão lãnh phát hành: -Hợp đồng giữa các tổ chức bão lãnh. -Hợp đồng bảo lãnh phát hành. -Hợp đồng với các đại lý được lựa chọn.  Hoa hồng: được chia làm 3 phần: -Phí quản lý. -Phí nhượng bán. 10 -Phí bão lãnh.  Thành lập tổ hợp bão lãnh phát hành.  Phân phối chứng khoán. 1.2.4 Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán:  Tư vấn đầu tư: Tư vấn đầu tư là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm mục đích thu phí.  Nguyên tắc của hoạt động tư vấn: -Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán. -Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó. -Không được dụ dỗ,mời gọi khách hàng mua một loại chứng khoán nào đó,những lời tư vấn phải xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lôgích, khoa học. 1.2.5. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: *Hệ thống thanh toán, lưu ký, và đăng ký chứng khoán là một hệ thống các trang thiết bị, con người,các quy định và hoạt động về thanh toán,bù trừ ,lưu ký và đăng ký chứng khoán. *Vai trò của hệ thống thanh toán và lưu ký chứng khoán: -Giảm rủi ro cho hoạt động trên thị trường chứng khoán. -Giảm chi phí cho chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. -Thúc đẩy lưu chuyển vốn nhanh. -Giúp cho việc quản lý hiệu quả trên thị trường chứng khoán. -Đảm bảo cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán được hoàn tất. *Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống thanh toán và lưu ký chứng khoán: 11 -Yếu tố pháp lý. -Yếu tố môi trường kinh tế. -Yếu tố vật chất,kỹ thuật và con người. -Yếu tố tâm lý. -Các đối tượng tham gia hệ thống:thành viên lưu ký và các ngân hàng thanh toán. 2. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán: 2.1.Khái niệm và vai trò của hoạt động tư vấn chứng khoán: *Khái niệm: Hoạt động tư vấn chứng khoán là hoạt động đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng. Ở phần lớn các nước, người ta định nghĩa tư vấn chứng khoán là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm mục đích thu phí. *Vai trò của hoạt động tư vấn chứng khoán: Đối với các loại tư vấn khác, ví dụ như tư vấn pháp luật thì tính chính xác của lời khuyên là cần thiết và có khả năng diễn ra đúng trên thực tế. Tuy nhiên với hoạt động tư vấn chứng khoán, do đặc điểm riêng trong nghành là giá cả thường xuyên biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán. Trong hoạt động tư vấn, người tư vấn có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư của khách hàng. Người tư vấn còn phải đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng phải gánh chịu và đồng thời không được khẳng định về lợi nhuận sẽ nhận được. 12 2.2.Tính cần thiết của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Hoạt động tư vấn đầu tư diễn ra trên thị trường thứ cấp.Tư vấn đầu tư gồm tư vấn mua bán chứng khoán, tạo dựng danh mục đầu tư và quản trị điều hành tài sản đầu tư. Đây là một nghiệp vụ rất cần thiết vì không phải ai cũng hiểu rõ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ngay cả tại các nước phát triển người đầu tư thường không có đủ kiến thức, kỹ năng phân tích, không có thời gian theo dõi thường xuyên những thông tin do khối lượng thông tin quá lớn. Các thông tin mà nhà tư vấn có thể cung cấp cho khách hàng: tình hình thị trường, giá cả chứng khoán, chỉ số, thông tin về nhóm ngành cụ thể. 2.3. Các hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán: Chúng ta có thể phân loại hoạt động tư vấn chứng khoán theo một số tiêu chí: a) Theo hình thức của hoạt động tư vấn: -Tư vấn trực tiếp:Khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại,fax…để hỏi ý kiến. -Tư vấn gián tiếp:Là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin lên những phương tiện truyền thông như internet để bất kỳ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận được nếu muốn. b) Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn: -Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách về những phương pháp,cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng. - Tư vấn uỷ quyền: với nghiệp vụ này, nhà tư vấn tư vấn và quyết định hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng. c) Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: 13 -Tư vấn cho người phát hành: hoạt động này tương đối đa dạng;tư việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sát nhập với công ty khác. - Tư vấn đầu tư:Là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường. 2.4 Nội dung của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ của hoạt động tư vấn đầu tư: *Tư vấn cho người phát hành: Đây luôn luôn là mảng hoạt động song song với mảng hoạt động tư vấn.Hoạt động này được thực hiện tốt sẽ góp phần hỗ trợ sự phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những loại hàng hoá có chất lượng cho thị trường. Tư vấn cho người phát hành có thể gồm: -Phân tích tài chính doanh nghiệp: Nhà tư vấn chứng khoán là chuyên gia đánh giá về tình hình tài chính doanh nghiệp,họ phân tích các loại chứng khoán chủ yếu bằng phương pháp đánh giá tình hình tài chính của người phát hành chứng khoán đó.Do vậy, việc phân tích tài chính của các nhà tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức đúng được chính mình,từ đó có các biện pháp cải thiện tình hình. - Giúp người phát hành xác định chính xác giá trị của doanh nghiệp: Là việc xác định các tài sản hữu hình như máy móc,nhà xưởng…và các tài sản vô hình như uy tín, nhãn hiệu thương mại, bằng phát minh sáng chế…Đây là việc đầy khó khăn và phức tạp. Đặc biệt đối với các tài sản vô hình việc xác định giá trị hết sức phức tạp. Các bằng phát minh sáng chế, các nhãn hiệu thương mại luôn được định giá khác nhau tuỳ theo từng người mua. 14 Xác định giá trị doanh nghiệp là khâu quan trọng trước khi phát hành chứng khoán vì nó dùng để định giá chứng khoán phát hành, đặc biệt là khi doanh nghiệp mới phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu. -Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà xác định doanh nghiệp đó nên phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Nếu phát hành cổ phiếu thì cần phải theo dõi thái độ của các cổ đông hiện thời vì tỉ lệ sở hữu của họ có thể bị giảm đi trong doanh nghiệp.Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu chỉ có ảnh hưởng với cổ đông đang nắm quyền kiểm soát,còn với những người coi cổ phiếu chỉ là những khoản đầu tư thì lại vui mừng vì điều này.Khi cổ phiếu được phát hành rộng rãi thì thông thường giá cả của chúng tăng lên, đồng thời lại có một thị trường cho cổ phiếu đó, giúp cho nhà đầu tư có thể thu hồi vốn dễ dàng bằng cách bán lại cổ phiếu của mình. Trong trường hợp doanh nghiệp quyết định phát hành trái phiếu thì việc xác định mức tín nhiệm là công việc bắt buộc. Các nhà đầu tư có thể giúp các doanh nghiệp xác định mức tín nhiệm trên cơ sở khả năng trả nợ.Các công ty có mức tín nhiệm càng cao càng có khả năng phát hành trái phiếu với lãi suất thấp và dễ dàng thu hút những người đầu tư. -Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: Khi một doanh nghiệp nhận thấy,hay thông qua quá trình tư vấn mà nhận thấy cơ cấu vốn của mình không phù hợp với điều kiện kinh doanh hiện tại,không phù hợp với ngành nghể của mình thì họ sẽ tìm cách tái cơ cấu nguồn vốn để nâng cao hiệu quả và đảm bảo kinh doanh an toàn. Trong trường hợp này, công ty chứng khoán là đối tác thích hợp vì nó là nhà chuyên môn trong lĩnh vực tài chính. -Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp: Khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm doanh nghiệp khác hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác,doanh nghiệp đó sẽ tìm đến một công ty chứng khoán để nhờ trợ giúp các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành thế nào là phù hợp và đỡ tốn kém chi phí,cách thức cơ cấu 15 nguồn vốn sau khi sáp nhập. Ở các nước, hoạt động tư vấn này rất phát triển vì nó xuất phát từ nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh. *Tư vấn đầu tư: Đây là hoạt động rất phổ biến trên thị trường thứ cấp, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, hàng giờ, dưới nhiều hình thức khác nhau. Đó có thể là những lời khuyên hay những bản tin, những bài phân tích hoặc những hợp đồng dịch vụ. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm riêng,và việc thực hiện và thực hiện và giám sát mỗi hình thức này lại có những tính chất khác nhau. Tư vấn đầu tư có các hoạt động cụ thể: -Tư vấn trực tiếp: Hoạt động này thường diễn ra cùng với hoạt động môi giới.Khi khách hàng hỏi đến giá cả thì nhà môi giới không được đánh giá về xu hướng giá cả của chứng khoán mà chỉ được nêu lên những sự kiện thực tế đã diễn ra một cách trung thực và hỗ trợ cho nhà đầu tư muốn mua bán bằng cách khuyên người đầu tư về mức giá đặt hợp lý để có thể mua bán được. Việc quản lý hoạt động này rất khó khăn vì khó tìm được bằng chứng về các hành vi tư vấn của nhà môi giới, đồng thời hoạt động tư vấn mà không cần có giấy phép. Điều đó có thể dẫn đến những lỏng lẻo về chất lượng của hoạt động tư vấn, gây nên những mâu thuẫn giữa việc quản lý và thực tế hoạt động của công ty môi giới. Hơn nữa,nghiệp vụ tư vấn loại này có những mâu thuẫn với hoạt động tự doanh.Nếu không tách biệt các hoạt động này trong cùng một công ty thì có thể nhà môi giới nếu cần bán một loại chứng khoán nào đó thì sẽ khuyên khách hàng mua vào, còn nếu cần mua thì lại khuyên khách hàng bán ra. - Cung cấp thông tin và đánh giá tình hình: Trước đây, việc cung cấp thông tin được hiểu là việc phát hành các bản tin dưới hình thức giấy tờ. Ngày nay, với những tiến bộ của thông tin hiện đại, 16 việc cung cấp thông tin có thể dưới hình thức giấy tờ, có thể là qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là Internet. Các bản tin có lúc đơn giản là những con số biến động giá cả: các báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, để bàn tin hấp dẫn hơn, người ta thường có kèm những lời phân tích và đánh giá tình hình thị trường, tình hình giá cả của các loại chứng khoán. Người ta có thể dùng lời văn hay những biểu đồ để phân tích, những biểu đồ này thường được xây dựng theo những lý thuyết thị trường nhất định hoặc theo những đánh giá riêng của từng nhà tư vấn. Việc phân biệt ranh giới tư vấn kiểu này với lũng đoạn thị trường cũng không hoàn toàn rõ ràng. Nếu một nhà tư vấn được phép phát ngôn thoải mái, họ rất có thể sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư. Ai cũng biết rằng các nhà tư vấn là những chuyên gia trong lĩnh vực của họ, họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người khác, do vậy họ có thể đánh giá tình hình chính xác hơn vá những lời phát ngôn của họ có thể trở thành những lời tiên đoán, định hướng cho toàn bộ thị trường. Nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến thức, kinh nghiệm và tư duy chủ quan, do vậy việc đánh giá tình huống của mỗi nhà tư vấn là khác nhau. Việc quản lý hoạt động này đỡ khó khăn hơn so với quản lý hoạt động tư vấn trực tiếp vì các bản tin, bản báo cáo đánh giá là những bằng chứng về hành vi của nhà tư vấn. Cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu nhà tư vấn phải có kiến thức, kinh nghiệm cũng như thái độ khách quan khi nhìn nhận sự việc. Thái độ khách quan của nhà tư vấn chính là thước đo đạo đức công việc. Cơ quan quản lý có thể bắt các nhà tư vấn khi làm báo cáo phải nhìn nhận sự việc một cách toàn diện, đánh giá trên cơ sở tổng hợp các số liệu, không được phép thiên lệch về một hay một vài sự kiện nào đó mà bỏ qua những sự kiện khác. 17 Như vậy, việc dự đoán tình hình thị trường không được phép mang tính ngắn hạn. Đánh giá về một loại chứng khoán nào đó phải mang tính dài hạn, tức là trên cơ sở các phân tích vĩ mô và vi mô, đánh giá triển vọng lâu dài của một loại chứng khoán nào đó. Tính khách quan và chính xác của những bản tin phân tích chính là uy tín, chất lượng của nhà tư vấn. *Tư vấn uỷ quyền: Đây thực chất là hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Trên thực tế, một số nhà đầu tư có số vốn nhàn rỗi thường xuyên lớn sẽ tự mình tổ chức đội ngũ quản lý danh mục đầu tư riêng vì họ có thể tin tưởng vào đội ngũ này, đồng thời chi phí tính trên tổng tài sản dùng đầu tư là chấp nhận được. Những người có số vốn ít hơn nhận việc thuê đội ngũ riêng là không hợp lý vì chi phí cao, họ sẽ tìm đến các công ty chứng khoán, những nhà chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư để nhờ giúp đỡ.Các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ này sẽ được hựởng phí quản lý và được nhà đầu tư trả chi phí phát sinh khi thực hiện đầu tư. Trong khi quản lý tài sản cho khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng ký kết. Hợp đồng này được thảo ra trên nguyên tắc của luật dân sự và tuân thủ các quy định của ngành chứng khoán.Trong đó, công ty chứng khoán phải xác định rõ với khách hàng là họ không đảm bào về lợi nhuận đầu tư và mọi rủi ro của hoạt động đầu tư sẽ do khách hàng phải gánh chịu. Hợp đồng cũng phải xác định rõ mức độ uỷ quyền toàn bộ cho công ty chứng khoán, tức là công ty có quyền quyết định về đối tượng đầu tư, đó là loại chứng khoán hay tài sản nào, thời điểm nào mua, thời điểm nào bán.Tuy nhiên, dù uỷ quyền toàn bộ nhưng để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, công 18 ty chứng khoán vẫn phải thường xuyên gửi các thông báo trước và sau khi tiến hành giao dịch và kết quả thực hiện giao dịch. Nghiệp vụ này cũng có một số mâu thuẫn với nghiệp vụ môi giớí và nghiệp vụ tự doanh. Công ty chứng khoán có thể tiến hành nhiều giao dịch cho khách hàng trên mức cần thiết để thu phí hoa hồng, do vậy nó cần được quản lý chặt chẽ và tách biệt trong cùng một công ty. Nếu khách hàng chứng minh được rằng công ty chứng khoán đã thực hiện số giao dịch nhiều hơn mức cần thiết thì công ty sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Mặt khác, công ty chứng khoán khi tiến hành hoạt động tự doanh có thể lợi dụng tài sản của khách hàng để kiếm lợi cho riêng mình. Do vậy, ngoài việc kiểm tra của các cơ quan quản lý, khách hàng còn phải có cơ chế tự bảo vệ nhằm tránh sự trục lợi của công ty chứng khoán. Cơ chế này phải do chính công ty chứng khoán đặt ra và giới thiệu để khách hàng chấp thuận vì bản thân khách hàng không phải là một nhà chuyên môn nên họ khó có thể nghĩ ra những cơ chế như vậy. 2.5 Nguyên tắc trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán.Khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau: -Không đảm bảo chắc chắn vể giá trị của chứng khoán: giá trị chứng không phải là một cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý. -Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể không hoàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó. -Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lôgích, khoa học. 19 Các nguyên tắc trên có vẻ đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện.Các nhà tư vấn chứng khoán cần tuân thủ những nguyên tắc trên để tránh xẩy ra sự mâu thuẫn giữa khách hàng và nhà môi giới đó. 3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn đầu tư: 3.1 Nhân tố chủ quan: -Chính sách của công ty: Chính sách của công ty đối với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán thể hiện ở mục tiêu khách hàng mà họ muốn nhắm đến là những nhà đầu tư có tổ chức hay những nhà đầu tư cá nhân, mục đích đầu tư của khách hàng: đầu tư hưởng cổ tức, đầu tư hưởng chênh lệch giá, đầu tư nắm quyền kiểm soát, đầu tư ngân quỹ, hình thức tư vấn: tư vấn trực tiếp, tư vấn gián tiếp hay tư vấn uỷ quyền.Trên cơ sở đó, công ty chứng khoán sẽ lựa chọn được khách hàng mục tiêu phù hợp với năng lực của họ. -Nguồn nhân lực: Nhân tố con người là nhân tố quyết định phần lớn đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động này. Nhân viên tư vấn phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với yêu cầu cao hơn những người chỉ làm môi giới thông thường.Nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, đó là thách thức cũng là động lực để công ty chứng khoán phát triển. Để làm được điều này đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ nhân viên có năng lực toàn diện. -Sự phát triển của các hoạt động khác: Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có mối liên hệ với tất cả các hoạt động khác.Khi mọi hoạt động của công ty chứng khoán đều ổn định và giữ những vai trò nhất định trong toàn bộ hoạt động của công ty thì các hoạt động này sẽ tác động đến hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán theo chiều hướng tích cực và ngược lại. Trong đó hoạt động tự doanh, hoạt động quản lý danh mục đầu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan