Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn ths. luật góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật...

Tài liệu Luận văn ths. luật góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật việt nam

.PDF
80
439
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 0107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng HÀ NỘI – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả Lƣu Thu Hà MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 6 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ....................................................... 6 2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................ 7 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ............................ 8 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 9 5. Bố cục của Luận văn .................................................................................... 10 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY...... 11 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty ................................................................................ 11 1.1.1. Khái quát chung về công ty .................................................................... 11 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn .......... 14 1.1.3. Các hình thức góp vốn ........................................................................... 20 1.1.4. Định giá tài sản góp vốn ........................................................................ 38 1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn ............................................................. 41 1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty .......................... 45 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50 2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................ 50 2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty .............................................................................................................. 50 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty .... 52 2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ............................................ 55 2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty .............................................................................................. 57 2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty .............................................................................................. 57 2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty ....................................................................................... 59 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY ........................................ 63 3.1. Các định hướng hoàn thiện ....................................................................... 63 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn thành lập công ty ...................................................... 69 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 77 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005. Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt. Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn. Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới, Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp. 6 Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh. Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu ngoài nước Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể, góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại. Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, LondonSydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations, West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn. West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993. Tình hình nghiên cứu trong nước Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên 7 việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5) Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1: Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10) Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên Hòa, 2006. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật này. Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau: 8 + Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn; + Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của nó; + Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan. Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông qua lý luận. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. 9 Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu… 5. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công 10 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 1.1.1. Khái quát chung về công ty 1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là thương nhân pháp nhân. Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định: Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ. Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và công ty có các đặc điểm như sau: Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân. 11 Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty. Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ thể quan trọng của pháp luật. Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân. Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này. 12 Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn bởi pháp luật. Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn, thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy. 1.1.1.2. Phân loại công ty Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách phân loại này. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận. Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học. Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá 13 nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty. Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và loại có hai thành viên trở lên). Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý của nó có những điểm chung nhất định. 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn 1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình 14 hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163, Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ. Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần. Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ). Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn. Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty. Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc đồng sở hữu chủ của công ty đó. 15 1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của những người góp vốn. Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21]. Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty. Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không 16 thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27]. Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty. Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần 17 tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28]. 1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp 2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1). Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau: 18 “2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng. Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. 3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này. 19 4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. 5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục đích sau đây: a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị” (Điều 18). Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng, chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước. 1.1.3. Các hình thức góp vốn Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ đối tượng của hành vi góp vốn. Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan