Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thi pháp thơ lý bạch...

Tài liệu Luận văn thi pháp thơ lý bạch

.PDF
204
1113
134

Mô tả:

202 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN ----------------------------TRẦN TRUNG HỶ THI PHÁP THƠ LÝ BẠCH MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN CHỦ YẾU CHUYÊN NGÀNH MÃ SỐ : VĂN HỌC CÁC DÂN TỘC CHÂU Á : 5.04.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội, 2002 203 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN ----------------------------TRẦN TRUNG HỶ THI PHÁP THƠ LÝ BẠCH MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN CHỦ YẾU CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC CÁC DÂN TỘC CHÂU Á MÃ SỐ : 5.04.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS. Lê Đức Niệm Hà Nội, 2002 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên thế giới có lẽ ít có mối quan hệ văn học nào lâu dài và sâu sắc nhƣ thơ Đƣờng Trung Quốc và thơ ca trung cận đại Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam chính thức có nền văn học viết, thơ Đƣờng đã đƣợc các nhà hoạt động văn nghệ thời phong kiến chấp nhận nhƣ là một yếu tố nội tại, không chỉ về hình thức biểu đạt mà cả những khuynh hƣớng thẩm mĩ cũng trở thành khuôn mẫu của sáng tác. Không những thơ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chịu ảnh hƣởng mà nền thơ ca bằng chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu cũng phảng phất, “âm vang” dƣ vị của thơ Đƣờng. Do vậy, nghiên cứu thơ Đƣờng vừa là tìm hiểu tinh hoa của một nền thơ ca đƣợc xem là đỉnh cao có ảnh hƣởng sâu sắc đến các nƣớc Phƣơng Đông, vừa là khám phá thơ Đƣờng nhƣ một yếu tố nội tại, lý giải sức sống lâu dài của nó trong nền văn học Việt Nam. Ngƣời Việt Nam vốn có truyền thống thƣởng thức và dùng các thể thơ đời Đƣờng để sáng tác từ lâu đời nhƣng về mặt nghiên cứu, rõ ràng không có sự phát triển đồng bộ với quá trình tiếp nhận. Những sáng tác của các nhà thơ đời Đƣờng, đặc biệt là của Lý Bạch và Đỗ Phủ đã trở nên thân thuộc đến nỗi Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát... đã “vô tình” đƣa thơ của họ vào sáng tác của chính mình, nhƣng công việc nghiên cứu thì phải chờ đến nửa sau của thế kỷ XX mới có những ngƣời thực sự quan tâm đến. Với những hƣớng tiếp cận khác nhau, những thành quả nghiên cứu của họ đã tạo ra bƣớc đi ban đầu cho việc nghiên cứu thơ Đƣờng và thơ Lý Bạch nói riêng ở Việt Nam. Xƣa nay khi đánh giá về Lý Bạch, ngƣời ta đã công nhận ông là đại biểu kiệt xuất của khuynh hƣớng lãng mạn, đồng vị trí với Đỗ Phủ - đại biểu của khuynh hƣớng hiện thực trên thi đàn thời Đƣờng. Tiến xa hơn một bƣớc, có ngƣời còn cho rằng, nếu không có Lý Bạch và Đỗ Phủ thì ngƣời đời sau không thể phân biệt đƣợc một cách rõ ràng đặc điểm của thơ ca Thịnh Đƣờng với Sơ Đƣờng [123, tr.197]; là nhà thơ đầu tiên của phong trào phục hƣng ở Trung Quốc [45, tr.78]... Đề tài “Thi pháp thơ Lý 2 Bạch - một số phƣơng diện chủ yếu” của chúng tôi chính là nghiên cứu một phần tinh hoa nhất của thơ Đƣờng, khám phá một trong những phần quan trọng trong lĩnh vực Trung Quốc học vốn đƣợc xem là có vị trí chiến lƣọc và hết sức hấp dẫn ở Việt Nam. Trong chƣơng trình văn học nƣớc ngoài tại khoa văn các trƣờng Đại học Khoa học và Đại học sƣ phạm, bộ môn Văn học Trung Quốc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy với một thời lƣợng có thể nói là nhiều nhất nếu so với các nền Văn học nƣớc ngoài khác. Hệ thống chuyên đề về Văn học Trung Quốc cho hệ đào tạo cử nhân và cao học cũng cần phải có những tài liệu tham khảo chuyên ngành. Ngoài những bộ giáo trình đƣợc dịch từ Hán văn sang và một số giáo trình do các Giáo sƣ Việt Nam viết thì tài liệu nghiên cứu về văn học Trung Quốc, về thơ Đƣờng, về thơ Lý Bạch vẫn còn đang hạn chế. Một số chuyên luận đƣợc dịch từ các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài đã đƣợc xuất bản những năm gần đây vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của độc giả. Thực tế đó đã hƣớng chúng tôi quan tâm đến việc nghiên cứu thơ Lý Bạch. Cũng nhƣ nhiều ngƣời khác, những vần thơ của Lý Bạch đã thực sự cuốn hút tôi với nét hào hoa, phóng khoáng đến kỳ lạ của nó. Với một thiên tài nhƣ Lý Bạch, thơ của ông vẫn còn rất nhiều điều chƣa đƣợc khám phá, mãi là những ma lực hấp dẫn mọi ngƣời. Để hiểu và cảm đƣợc thơ Lý Bạch cần phải có quá trình thâm nhập, nghiên cứu. Với mong muốn đƣợc học hỏi và theo đuổi sự nghiệp đã đƣợc các nhà nghiên cứu đã khai phá, chúng tôi chọn đề tài này để bƣớc những bƣớc đi đầu tiên trong đời mình. 2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Thơ Lý Bạch đƣợc xem là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật thơ Đƣờng, do vậy nghiên cứu thơ Lý Bạch ở góc độ thi pháp chính là góp phần tìm hiểu thi pháp của một thời đại thơ ca - một hƣớng nghiên cứu mới có tính cập nhật. - Sự vận dụng kết hợp giữa lý luận thi pháp học hiện đại với những ý kiến phẩm bình truyền thống có tính lý luận ở phạm vi hẹp của các nhà phê bình cổ điển sẽ 3 góp phần làm phong phú thêm lý luận về thi pháp học, làm cơ sở tƣ liệu cho việc nghiên cứu thi pháp của những nhà thơ cổ điển Phƣơng Đông, kể cả những nhà thơ Việt Nam. - Nghiên cứu thi pháp thơ Lý Bạch còn có ý nghĩa thực tiễn là góp một tiếng nói vào lĩnh vực Trung Quốc học ở Việt Nam, từ đó hiểu thêm vì sao hơn nghìn năm nay, thơ Đƣờng và thơ Lý Bạch nói riêng lại đƣợc các thế hệ độc giả Việt Nam yêu thích và chịu ảnh hƣởng. Những kết quả nghiên cứu của luận án còn nhằm thoả mãn nhu cầu thƣởng thức về thơ Đƣờng và thơ Lý Bạch của nhiều độc giả. Trong việc dạy và học bộ môn văn học Trung Quốc ở các trƣờng Đại học, cao đẳng và phổ thông các cấp cũng có thể tìm thấy ở luận án những gợi ý mới, những kết luận mới. 3. Mục đích nghiên cứu Nhƣ đề tài đã xác định, luận án không đi vào toàn bộ hệ thống thi pháp thơ Lý Bạch mà chỉ là một số phƣơng diện chủ yếu, khẳng định nét chung và cái riêng của Lý Bạch trong quan niệm nghệ thuật, trong phƣơng thức xây dựng hình tƣợng, tƣ duy thể loại và ngôn ngữ. Với những cống hiến xuất sắc ở những phƣơng diện này, Lý Bạch xứng đáng là đỉnh cao của đỉnh cao, là một trong hai đại biểu ƣu tú nhất của thơ ca Thịnh Đƣờng - cùng với Đỗ Phủ đƣa thơ ca đời Đƣờng đạt đến giai đoạn “hoàng kim”. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là toàn bộ thơ Lý Bạch. Thực ra, với một luận án không thể đề cập hết tất cả thơ Lý Bạch, do vậy trong khi phân loại, thống kê, chúng tôi sẽ khảo sát toàn bộ 961 bài thơ của Lý Bạch, nhƣng khi vận dụng để chứng minh hoặc phân tích luận điểm, luận án hƣớng đến những tác phẩm chọn lọc, đƣợc xem là tinh tuý nhất của Lý Bạch. Ngoài ra, luận án cũng mở rộng nghiên cứu đến thơ ca trƣớc, cùng thời và sau Lý Bạch, đặc biệt chú ý đến các nhà thơ cùng thời nhƣ Vƣơng Duy, Đỗ Phủ, tìm ra nét chung và nét riêng của mỗi tác giả để làm rõ vấn 4 đề : Sự phong phú, đa dạng trong việc cảm nhận và biểu hiện cuộc sống của thơ Đƣờng. Phạm vi khảo sát chính của luận án là cuốn Lý Bạch toàn tập, Bão Phƣơng hiệu điểm, Thƣợng Hải cổ tịch xuất bản xã (1996) với 961 bài thơ (không kể phần “bổ di”). Ngoài ra, luận án còn tham khảo một số tuyển tập nhƣ Lý Bạch thi tuyển chú của nhiều tác giả, Thƣợng Hải cổ tịch xuất bản xã (1978); Đường nhân vạn thủ tuyệt cú tuyển hiệu chú của Vƣơng Sĩ Trinh, Lý Vĩnh Tƣờng tuyển chú, Tề Lỗ thƣ xã xuất bản (1995)..., các tuyển tập thơ Đƣờng ở Việt Nam nhƣ Thơ Đường của nhà xuất bản Văn học (2 tập, 1987), Đường thi của Trần Trọng Kim, Thơ Đường của Trần Trọng San... Ở các tác giả khác, chúng tôi khảo sát Vương Tả Thừa tập tiên chú, Thƣợng Hải cổ tịch xuất bản xã (1998), Đỗ Phủ toàn tập, Thƣợng Hải cổ tịch xuất bản xã (1997) và một số tuyển tập khác. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án vận dụng tổng hợp nhiều phƣơng pháp khác nhau : - Phƣơng pháp hệ thống đặt thơ Lý Bạch trong một hệ thống thi pháp vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù và lƣu ý tính đặc thù của thơ Lý Bạch. - Phƣơng pháp thống kê, phân loại để có những số liệu chính xác nhằm tăng sức thuyết phục của luận điểm. Ngoài ra, phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử xem xét thơ Lý Bạch trong quá trình sáng tác để thấy đƣợc sự tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội đến việc xử lý hệ thống đề tài cũng nhƣ các yếu tố cấu trúc nội tại của tác phẩm; Phƣơng pháp so sánh văn học để tìm ra nét tƣơng đồng và dị biệt giữa thi pháp thơ Lý Bạch với các tác giả trƣớc, cùng thời và sau Lý Bạch; Phƣơng pháp phân tích để làm sáng tỏ luận điểm cũng đƣợc chúng tôi vận dụng trong luận án. 6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 5 Theo những tƣ liệu tuy chƣa đầy đủ và hệ thống mà chúng tôi hiện có, có thể rút ra một điều là : Thơ Lý Bạch nói chung và những vấn đề về thi pháp thơ Lý Bạch từ lâu đã thực sự thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu trên thế giới. Chúng tôi tạm thời phân loại các ý kiến về thi pháp Lý Bạch ở hai mảng : Mảng tƣ liệu Tiếng Việt và mảng tƣ liệu Tiếng Trung. 6.1. Nghiên cứu thi pháp Lý Bạch qua mảng tư liệu Tiếng Việt Ở mảng tƣ liệu này, chúng tôi quan tâm đến hai bộ phận : Những ý kiến của các nhà nghiên cứu Việt Nam và của các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài (bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp) đã đƣợc dịch sang tiếng Việt. Thơ Lý Bạch đến Việt Nam khá sớm theo con đƣờng giao lƣu văn hoá thời Trung đại. Các nhà thơ Trung cận đại Việt Nam trong sáng tác của mình ít nhiều đều chịu ảnh hƣởng của thơ Đƣờng nói chung và Lý Bạch nói riêng, tiêu biểu nhất phải kể đến Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và thơ Cao Bá Quát. Tuy vậy, phạm vi tiếp thu cũng chỉ giới hạn chủ yếu ở tầng lớp sĩ đại phu phong kiến. Cho đến khi chữ Nôm thịnh hành, nhiều bản dịch thơ Đƣờng xuất hiện nhƣ Đường thi quốc âm, Đường thi trích dịch, Đường thi tuyệt cú diễn ca..., thơ Đƣờng vẫn chỉ là đối tƣợng để ngâm nga và thƣởng thức. Thơ Đƣờng và thơ Lý Bạch đƣợc giới thiệu rộng rãi bằng chữ Quốc ngữ vào những năm 30 - 40 của thế kỷ này trên các tạp chí nhƣ Nam Phong, Tiểu thuyết thứ bảy, Tri tân... cùng với các tuyển tập của Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố... Nhìn chung, những tuyển tập này đều làm nhiệm vụ dịch chú, chỉ có Đường thi của Trần Trọng Kim có quan tâm đến việc giới thiệu “phép làm thơ” khi ông phân loại thơ tuyển thành ba phần : Cổ phong, luật thi và tuyệt cú. Đến những năm 60 trở về đây, tình hình nghiên cứu thơ Đƣờng và thi pháp thơ Lý Bạch bắt đầu có những chuyển động mới. Đầu tiên là những công trình về văn học sử nhƣ Lịch sử Văn học Trung Quốc (Trƣơng Chính chủ biên, 1963); Văn học Trung Quốc (Nguyễn Khắc Phi chủ biên, 1987); những công trình mang tính chuyên luận hoặc tập hợp 6 những công trình riêng lẻ nhƣ Thơ Đường (1993), Diện mạo thơ Đường (1995), Thi tiên Lý Bạch (1995) của Lê Đức Niệm, Một số đặc điểm nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường (1996) của Nguyễn Sĩ Đại, Thi pháp thơ Đường (1995) của Nguyễn Thị Bích Hải, Về thi pháp thơ Đường (1997) của Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử, Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ (1998) của Nguyễn Khắc Phi, “Lý Bạch” trong sách Đỗ Phủ,nhà thơ dân đen, “Cái hay của thơ Đƣờng” (in lại trong Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, 2000) của Phan Ngọc... đã có nhiều ý kiến có liên quan đến thi pháp Lý Bạch. PGS Phan Ngọc đã dành cho thơ Lý Bạch một vị trí khá nhiều khi ông phân tích và chứng minh “cái hay” ở các lĩnh vực nhƣ phƣơng thức khám phá hiện thực, không gian và thời gian, ngôn ngữ thơ Đƣờng nói chung[ 60,tr.142-176]. Nguyễn Thị Bích Hải cũng giành một vị trí xứng đáng cho thơ Lý Bạch khi khảo sát về hình tƣợng con ngƣời vũ trụ, không gian, thời gian vũ trụ trong thơ Đƣờng. GS Trần Đình Sử với bài “Thời gian, không gian trong thơ Đƣờng” chú ý đến cảm quan về thời gian, không gian của Lý Bạch nhƣ ý thức về giá trị của hiện tại, cách khắc phục thời gian, về sự phối hợp các biên độ không gian [69, tr.6-31]. Cũng trong công trình Về thi pháp thơ Đường, PGS Nguyễn Khắc Phi nghiên cứu về đối ngẫu trong thơ Đƣờng luật và kết cấu của một bài thơ luật, tuy không đề cập nhiều đến thơ Lý Bạch nhƣng là những ý kiến có giá trị lý luận và thực tiễn để gợi mở cho hƣớng nghiên cứu thi pháp một tác giả cụ thể. Ngoài ra, các bài viết về Hành lộ nan, Thái liên khúc, Tảo phát Bạch đế thành của PGS Nguyễn Khắc Phi in trong Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ cũng có những gợi ý qúy báu để nghiên cứu thi pháp thơ Lý Bạch. Năm 1998, Lê Giảng biên soạn Đến với thơ Lý Bạch, phần nhiều là dịch từ lời bình tác phẩm của các tác giả Trung Quốc, do vậy cũng không có gì mới hơn. Luận án PTS Ngữ văn của Phạm Hải Anh Thơ tứ tuyệt Lý Bạch - Phong cách và thể loại (1996) vận dụng lý luận về thi pháp học hiện đại để nghiên cứu phong cách thơ tứ tuyệt Lý Bạch đƣợc xem là công trình nghiên cứu có quy mô nhất ở Việt Nam cho đến lúc này trên bình diện thi pháp thơ Lý Bạch. Tuy đối tƣợng chủ yếu của luận án là thơ tứ tuyệt nhƣng tác giả còn mở rộng so sánh với các thể loại khác của Lý Bạch cũng nhƣ với các tác giả khác để đúc kết thành những ý kiến khá 7 thuyết phục ở các phƣơng diện : Cái tôi cá nhân cá tính, bút pháp tả cảnh nhập thần, ý tận khí hùng, tự nhiên... Đây cũng chính là những đặc sắc về thi pháp thơ Lý Bạch biểu hiện trong tứ tuyệt. Tuy chƣa đƣợc dịch và giới thiệu nhiều ở Việt Nam nhƣng những công trình gần đây nhất nhƣ Phương Đông và Phương Tây của N.Konrat, Bút pháp thơ ca Trung Quốc của F.Cheng, Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường của Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân... cho thấy đƣợc một vài khuynh hƣớng nghiên cứu thi pháp thơ Đƣờng nói chung và thơ Lý Bạch nói riêng ở Nga, Pháp, Mỹ. Chẳng hạn Konrat cho rằng, thơ Lý Bạch là “hiện thân của tinh thần tự do, sống động và thực tiễn. Tinh thần này đƣợc thể hiện trong thơ của ông, thứ thơ đầy ma lực của tình cảm nội tâm, loại trữ tình cao cấp” [45, tr.90], đã nêu đƣợc phƣơng thức chiếm lĩnh hiện thực theo khuynh hƣớng chủ quan cơ sở để hình thành thi pháp Lý Bạch. F.Cheng đã dùng đến 6 trang để phân tích bút pháp tƣợng trƣng ẩn dụ của Lý Bạch qua Ngọc giai oán [69, tr.216- 222]. Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân còn vận dụng và phân tích khá nhiều dẫn chứng từ thơ Lý Bạch khi bàn về cú pháp thơ Đƣờng... Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu thi pháp Lý Bạch ở Việt Nam cũng nhƣ những công trình dịch thuật đã bƣớc đầu có những kết quả đáng trân trọng nhƣng phần nhiều chƣa lấy thơ Lý Bạch làm đối tƣợng nghiên cứu chính, hoặc chỉ thiên về một mảng thơ Lý Bạch chứ chƣa đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện. Chúng tôi đã tiếp thu ở nguồn tài liệu này những gợi ý qúy báu trong khi tiến hành khảo sát thi pháp thơ Lý Bạch. 6.2. Nghiên cứu thi pháp Lý Bạch qua mảng tư liệu tiếng Trung Quốc Lý Bạch vừa xuất hiện trên thi đàn, thơ ca của ông ngay lập tức đƣợc ngƣời đƣơng thời chú ý. Có lẽ bắt đầu từ Đỗ Phủ, kế đến là Ân Phồn, Lý Dƣơng Băng, Bạch Cƣ Dị, Nguyên Chẩn, Hàn Dũ... qua các thời kỳ với Tăng Củng, Tô Thức, Chu Hy, Lƣu Khắc Trang, Nghiêm Vũ, Dƣơng Chấn... (Tống Nguyên), Lý Phàn Long, Vƣơng Thế Trinh, Lục Thời Ung, Thẩm Đức Tiềm, Hồ Chấn Hanh, Hứa Học Di, Vƣơng Phu Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 8 Chi, Ngô Kiều, Diệp Nhiếp, Thi Bổ Hoa... (Minh Thanh), Củng Tự Trân, Lƣu Hi Tái (cận đại)... đều dành cho thơ Lý Bạch những lời bình phẩm thấu đáo, trong đó không ít những ý kiến có liên quan đến thi pháp. Trong giai đoạn hiện đƣơng đại, các nhà nghiên cứu tiếp tục phát huy truyền thống nghiên cứu về Lý Bạch thời trung cận đại, bên cạnh hƣớng nghiên cứu về cuộc đời, tƣ tƣởng, nội dung thơ Lý Bạch, một bộ phận khác có khuynh hƣớng nghiên cứu về thi pháp (mặc dù chƣa có nhiều ngƣời hiểu theo nghĩa hiện đại, hoặc đƣợc hiểu nhƣ “phép làm thơ” truyền thống). Có những chuyên san nghiên cứu về Lý Bạch, nhƣ những năm 60 có Lý Bạch nghiên cứu luận văn tập, những năm 80 có Lý Bạch học san, những năm 90 có Trung Quốc Lý Bạch nghiên cứu đăng tải một số ý kiến của Tiêu Điều Phi, Viên Hành Bái, Lƣơng Thâm, Trƣơng Minh Phi, Tôn Cầm An... đại thể có liên quan đến một vài yếu tố thi pháp Lý Bạch nhƣ cá tính và ý thức chủ thể của Lý Bạch, ý thức vũ trụ của Lý Bạch, nghệ thuật không gian thời gian... Sau đây chúng tôi sẽ phân loại giới thiệu ở một vài phƣơng diện chủ yếu. Ở phƣơng diện phong cách nói chung, ý kiến của Đỗ Phủ có lẽ là sớm nhất. Trong Xuân nhật ức Lý Bạch, Đỗ Phủ cho rằng thơ Lý Bạch thanh tân, phiêu dật. Bì Nhật Hƣu trong Lưu táo cường bi cho rằng, ngôn ngữ thơ Lý Bạch “ở ngoài vòng trời đất”, “không phải là tiếng nói của thế gian”. Tăng Củng chú ý đến nét tự nhiên nhƣng đẹp đẽ của ngôn ngữ thơ Lý Bạch trong Lý Bạch thi tập hậu tự. Nghiêm Vũ cũng cho ngôn ngữ Lý Bạch “phần nhiều chân suất, tự nhiên mà thành” (Thương Lãng thi thoại). Cố Lâm trong Tức viên tồn cảo phát triển ý “kỳ chi hựu kỳ” của Ân Phồn mà cho rằng thơ Lý Bạch có cái kỳ của binh pháp (giai binh pháp sở vị kỳ dã). Lục Thời Ung trong Đường thi kính lại không chú ý đến cái kỳ mà tuyên dƣơng cái “khí vận” của thơ Lý Bạch... Những cách bình phẩm thiên về cảm quan này vẫn đƣợc giới nghiên cứu đƣơng đại kế thừa. Trong những công trình xuất bản gần đây nhƣ Đường thi giám thưởng từ điển (1994), Lý Bạch học san (1990), Trung Quốc Lý Bạch nghiên cứu (1990, 1991...), cả những công trình của Trƣơng Minh Phi (Đường âm luận tẩu, 9 1993), Viên Hành Bái (Trung Quốc thi ca nghệ thuật nghiên cứu, 1996), những bài viết trong Đường đại văn học nghiên cứu năm 1992, 1993, 1994... các thuật ngữ thƣờng đƣợc sử dụng nhƣ “thiên mã hành không”, “hành vân lƣu thuỷ”, “dã mã thoát ki”..., chú ý đến nét phóng khoáng trong ngôn ngữ, cấu tứ... thơ Lý Bạch, nhƣng ở các phƣơng diện cú pháp, từ pháp và đặc sắc ngôn ngữ của Lý Bạch vẫn chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu thoả đáng. Có lẽ tập trung nhất và thành công nhất trong lịch sử nghiên cứu thơ Lý Bạch là ở mặt thể loại. Ngay từ những ngày đầu, ngƣời ta đã chú ý đến nét “tung hoành biến hoá” của thơ cổ thể Lý Bạch với những ý kiến của Vƣơng Thế Trinh trong Nghệ uyển chi ngôn, của Hồ Chấn Hanh trong Đường âm quỳ tiêm, của Lục Thời Ung trong Đường thi kính, của Hứa Học Di trong Thi nguyên biện thể...; nét “tự nhiên thiên thành” của tuyệt cú Lý Bạch, nhƣ Lý Phàn Long nói “không dụng ý mà hay” (Đường thi tuyển tự), hoặc “lấy khí làm chủ” nhƣ lời Hứa Học Di... Nhiều ngƣời khác nhƣ Mao Tiên Thự, Ngô Kiều, Quách Triệu Lân đánh giá luật thi của Lý Bạch là “bình dị thiên chân”; hoặc chú ý đến sự đột phá về luật của Lý Bạch : “Lý Bạch làm thơ luật mà nhƣ làm cổ phong, không có dấu tích của đối ngẫu” (Điền Văn - Cổ hoan đường tập tạp trứ). Cũng có ngƣời chú ý đến tàn tích của thơ cung thể Nam triều trong những bài thơ Cung trung hành lạc từ của Lý Bạch nhƣ Quách Triệu Lân trong Mai Nhai thi thoại... Nhìn chung, những ý kiến này đã nêu đƣợc những đặc trƣng cơ bản các thể loại thơ Lý Bạch, có phần khai phá và tiếp cận thơ Lý Bạch trên hệ thống thi pháp. Vài thập kỷ trở lại đây, việc nghiên cứu thể loại thơ Lý Bạch trở nên vô cùng rầm rộ. Một tình hình khá phổ biến là các bài viết đã chú ý vào những giá trị nội dung trong mối tƣơng quan với hình thức biểu đạt (thể loại), nhƣ Phòng Nhật Tích phát hiện sự phức tạp trong tình cảm của Lý Bạch, do vậy thơ thất ngôn cổ thi đột phá mọi ƣớc thúc, qui cách (Lý Bạch học san). Giả Phổ Hoa khai thác chất tự nhiên chân thực trong thơ ngũ cổ Lý Bạch (Trung Quốc Lý Bạch nghiên cứu, 1991). Với tuyệt cú Lý Bạch, gần đây Thẩm Tổ Phân cũng dẫn ý kiến của Hồ Ứng Lân đánh giá tứ tuyệt Lý Bạch Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 10 và Vƣơng Xƣơng Linh : “Đại khái Lý Bạch tả cảnh nhập thần, Vƣơng Xƣơng Linh ngôn tình lên đến đỉnh cao”, hoặc ý kiến của Diệp Nhiếp : Tứ tuyệt Lý Bạch đẹp đẽ, hào sảng, của Vƣơng Duy “hàm súc” có thể là bƣớc phát triển trên cơ sở kế thừa những ý kiến của ngƣời đi trƣớc trong Đường nhân thất tuyệt thi thiễn thích (1997). Đỗ Phủ trong Ẩm trung bát tiên ca, Ân Phồn trong Hà nhạc anh linh tập đã bắt đầu chú ý đến con ngƣời hào phóng, ngạo ngƣợc của Lý Bạch thể hiện trong cuộc đời và trong thơ. Ngụy Khánh Chi cho Lý Bạch là “phƣợng hoàng kỳ lân trong thế giới loài ngƣời” (Thi nhân ngọc tiết). Diệp Nhiếp ca tụng khí chất bất phục tòng quyền qúy của Lý Bạch trong Nguyên thi... Gần đây, một số bài viết nhƣ “Lý Bạch cá tính luận” của Bùi Phỉ; “Lý Bạch chủ thể ý thức” của Vƣơng Định Chƣơng (Trung Quốc Lý Bạch nghiên cứu, 1990)... đã bắt đầu nghiên cứu về con ngƣời Lý Bạch trong thơ. Tuy chƣa trực tiếp và chƣa thực sự toàn diện, nhƣng đánh giá về những biểu hiện của cái tôi vƣợt ra ngoài những quy phạm ở Lý Bạch của Bùi Phỉ, những biểu hiện về ý thức theo đuổi tự do, bảo toàn nhân cách ở Lý Bạch của Tôn Cầm An, Vƣơng Định Chƣơng... phần nào đã đề cập đến những khía cạnh cơ bản trong con ngƣời Lý Bạch, về cái tôi chủ thể và ý thức cá nhân của Lý Bạch. Một vấn đề tƣơng đối mới mẻ và đƣợc xem là bƣớc khám phá đầu tiên là nghiên cứu sự tồn tại của con ngƣời trong không gian và thời gian. Ngoài những ý kiến rải rác đề cập trong các bài giám thƣởng trong Đường thi giám thưởng từ điển, theo tài liệu chúng tôi có đƣợc từ 1990 đến 1995 có hai bài trực tiếp lấy không gian thời gian làm đối tƣợng nghiên cứu. Lý Hạo trong “Luận Đƣờng thi đích thời không quan niệm” (Đường đại văn học nghiên cứu,1993) đề cập đến quan niệm về thời gian vận động và không gian rộng trong thơ Đƣờng nói chung. Trƣơng Thụy Quân trực tiếp bàn về nghệ thuật miêu tả không gian và thời gian của Lý Bạch (Trung Quốc Lý Bạch nghiên cứu, 1990) nhƣng lại thiên về nghiên cứu cách miêu tả hơn là xét không gian thời gian trong mối quan hệ với sự tồn tại của con ngƣời. Ngoài ra còn phải kể đến Viên Hành Bái với bài “Lý Bạch đích vũ trụ ý thức” (Trung Quốc Lý Bạch nghiên 11 cứu, 1990) chú ý các biểu tƣợng vũ trụ trong cảm quan nghệ thuật của Lý Bạch. Cũng nhƣ phần con ngƣời Lý Bạch, những ý kiến về không gian thời gian này chỉ dừng lại ở sự cảm nhận đầu tiên mà chƣa đƣợc xem xét trong một hệ thống thi pháp hoàn chỉnh. Nhìn một cách tổng quát, những vấn đề chủ yếu của thi pháp thơ Lý Bạch nhƣ quan niệm nghệ thuật, không gian, thời gian, phƣơng thức biểu hiện... hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đã có những ý kiến đề cập. Trong sự kết hợp giữa lý luận thi pháp hiện đại với thi pháp cổ điển, chúng tôi đã tiếp thu những gợi ý từ các nhà phê bình cổ điển cũng nhƣ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đƣơng đại trong luận án của mình. Ở mảng tƣ liệu tiếng Trung còn có một bộ phận khác : Đó là tình hình nghiên cứu thi pháp thơ Lý Bạch ở các nƣớc Đông Á đƣợc các học giả hoặc là ngƣời Trung Quốc hoặc là ngƣời bản xứ giới thiệu khái quát đăng ở các niên giám và các chuyên san Đường đại văn học nghiên cứu. Theo học giả Nhật Bản Tự Vĩ Cƣơng, việc giới thiệu, nghiên cứu thơ Đƣờng nói chung và thơ Lý Bạch nói riêng ở Nhật đã có lịch sử tƣơng đối lâu đời. Đầu thế kỷ XX, việc phiên dịch và giới thiệu thơ Lý Bạch đã có những công trình đáng chú ý nhƣ Lý Thái Bạch thi tập của Cửu Bảo Thiên Tuỳ, chuyên luận Lý Bạch, hào phóng nhi bất hạnh đích thi tiên (1969) của Phúc Long Nguyên Tàng, Lý Bạch - thơ ca cập kỳ nội tại tâm tượng của Tùng Phố Hữu Cữu. Năm 1971, Đại Dã Thực Chi Trợ có xuất bản Lý Thái Bạch nghiên cứu, trong đó có các chƣơng nhƣ chƣơng 4 bàn về các phƣơng thức biểu hiện. Năm 1976, Tùng Phố Hữu Cữu tiếp tục cho ra mắt Lý Bạch nghiên cứu, 7 chƣơng, trong đó chƣơng 1 bàn về kết cấu của phƣơng thức trữ tình, chƣơng 4 bàn về cái tôi Lý Bạch đƣợc xem là những ý kiến có tính khám phá về thi pháp Lý Bạch ở Nhật Bản. Năm 1982, Vũ Bộ Lợi Nam viết Lý Bạch đích mộng có đề cập đến một số hình tƣợng thơ nhƣ “minh nguyệt”, “hoa”... Ở phƣơng diện thể loại, một số bài viết đăng tải ở các tạp chí cho thấy các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chú ý nghiên cứu ở phƣơng diện thi pháp, chẳng hạn Đảo Điền Cửu Mỹ cho rằng thơ Nhạc phủ của Lý Bạch có 4 đặc điểm lớn là tính tự sự, Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 12 phƣơng thức tạo hình, trí tƣởng tƣợng và tinh thần lạc quan (“Về thơ nhạc phủ của Lý Bạch”, 1958); Tùng Phố Hữu Cữu cũng cho rằng, thơ tứ tuyệt của Lý Bạch là vô cùng tự nhiên, chân thực (1968). Ở phƣơng diện ngôn ngữ thơ, một số bài viết đi vào khảo sát những nét độc đáo trong cách dùng từ của Lý Bạch. Chẳng hạn Cốc Châu Anh Tắc chỉ nghiên cứu hai từ “nghi thị” và “chính thị” của Lý Bạch và Đỗ Phủ, cho rằng chỉ với hai từ này đã chi phối đến cảm tình và phong cách thơ của hai “đại gia” này. Nhiều bài viết chú ý đến sắc thái từ trong thơ Lý Bạch, đặc biệt chú ý đến màu trắng trong thơ Lý Bạch, nhƣ Đại Dã Thực Chi Trợ trong bài “Lý Bạch thi ca trung đích bạch sắc ý nghĩa” (1970) và Tự Vĩ Cƣơng trong “Quan vu Lý Bạch thi ca trung bạch sắc từ đích vận dụng” (1986) đều thống nhất rằng, Lý Bạch thích dùng mầu trắng và gam mầu nhạt trong thơ để tạo nên ấn tƣợng thanh thoát. Ở Hàn Quốc, so với Nhật Bản thì việc nghiên cứu thơ Đƣờng nói chung và thơ Lý Bạch nói riêng có chậm hơn. Theo ý kiến tổng quan của hai nhà nghiên cứu Hàn Quốc là Lý Chƣơng Tá [109, tr.343 - 349] và Kim Tại Thừa [101, tr.872 - 882], thì mãi đến những năm 50 của thế kỷ này mới có những công trình đầu tiên, cho đến đầu thập kỷ 90, tình hình nghiên cứu văn học Trung Quốc vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn bƣớc đầu. Theo tổng kết của Kim Tại Thừa, từ 1980 đến 1993, những công trình có liên quan đến Lý Bạch chỉ có một tập tuyển dịch thơ Lý Bạch của Hứa Thế Húc (1987); một chuyên luận của Lý Tử Hạo (Lý Thái Bạch và Đạo giáo, 1981); 10 bài viết ở các tạp chí, trong đó chỉ có 5 bài đề cập đến thế giới nghệ thuật thơ Lý Bạch có khả năng có liên quan ít nhiều đến vấn đề thi pháp nhƣ của Quách Lợi Phu : “Hình tƣợng nguyệt trong thơ Lý Bạch” (1985), của Ngô Thế Hoa : “Vận luật trong tuyệt cú của Lý Bạch” (1986), của Trần Ngọc Khanh : “Những ý tƣợng truyền thống trong thơ nhạc phủ Lý Bạch” (1986)... Có thể còn nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến thi pháp thơ Lý Bạch ở Nhật Bản và Hàn Quốc những năm gần đây mà chúng tôi chƣa đề cập đến. Qua 13 những điều mà chúng tôi thâu lƣợm đƣợc, có thể thấy rằng, tuy chƣa thực sự hệ thống và toàn diện nhƣng rải rác đã có những nghiên cứu ban đầu về thi pháp Lý Bạch ở hai quốc gia này. Rất tiếc là một bộ phận lớn trong số những tƣ liệu ấy chúng tôi lại không đƣợc trực tiếp tiếp cận, do vậy cũng không thể đánh giá đƣợc cụ thể kết quả nghiên cứu của họ. Qua lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng : Thi pháp thơ Lý Bạch đã đƣợc xem xét ở khá nhiều góc độ, đã có nhiều ý kiến rất đáng chú ý về cái tôi Lý Bạch, về đặc trƣng thể loại và ngôn ngữ, về giọng điệu thơ... Tuy vậy, các ý kiến trên vẫn chƣa thành hệ thống, riêng lẻ, rất khó có thể hình dung một cách đầy đủ về thi pháp Lý Bạch. Do vậy, đề tài “Thi pháp thơ Lý Bạch - một số phƣơng diện chủ yếu” của chúng tôi vừa có thể tiếp thu những thành quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, đồng thời vẫn mở ra một hƣớng nghiên cứu độc lập về thơ Lý Bạch. 7. Những đóng góp mới của luận án Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu tƣơng đối toàn diện về thi pháp Lý Bạch ở Việt Nam. Những phƣơng diện chủ yếu của thi pháp Lý Bạch : Con ngƣời trong thơ, không gian và thời gian nghệ thuật, phƣơng thức biểu hiện đều chịu sự chi phối bởi ý thức cá nhân, cá tính hết sức phong phú và phức tạp của Lý Bạch. Ông tuyên dƣơng cái đẹp tự nhiên của nghệ thuật, chống bắt chƣớc và đề cao sự ký thác tâm tình trong sáng tạo. Con ngƣời Lý Bạch vừa cuồng phóng, vừa chân thực trong thơ ca. Con ngƣời ấy muốn khẳng định và xác lập chân giá trị của chính mình trong cuộc đời thực và những hoạt động thực tiễn. Luận án chú trọng khai thác một phạm trù đặc trƣng nhất trong cảm quan thời gian của Lý Bạch : Thời gian sinh mệnh cá thể với những cảm nhận trăn trở đầy chất nhân văn. Lý Bạch cũng chọn cho mình một không gian rộng để con ngƣời cá nhân khổng lồ ở ông đƣợc tự do và tỏ bày tráng chí. Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 14 Luận án còn phát hiện đƣợc những đặc sắc trong từng thể loại thơ Lý Bạch : Thơ ngũ cổ mực thƣớc, trang trọng; thơ thất cổ hào mại, phóng túng; thơ luật đẹp diễm lệ và thơ tứ tuyệt tự nhiên chân thực. Ngôn ngữ thơ Lý Bạch vừa thể hiện nét chung của tƣ duy nghệ thuật trung đại, của thơ Đƣờng nhƣng cũng có những đặc sắc riêng : không gọt giũa mà lại đẹp, kỳ lạ, hƣ ảo nhƣng lại rất chân thực. Những con số thống kê về số lƣợng từng thể loại, về câu nghi vấn, câu cảm thán, câu cầu khiến; về sự xuất hiện nhiều của đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất, của các hƣ từ... trong sự so sánh với các nhà thơ khác; những dẫn chứng đƣợc chọn để phân tích và chứng minh phần nhiều chƣa đƣợc dịch ở Việt Nam... cũng là những đóng góp của luận án, có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến thơ Lý Bạch về sau. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có 3 chƣơng chính : Chƣơng 1 : “Quan niệm thơ ca và con ngƣời Lý Bạch trong thơ”. Chƣơng này khám phá những ý kiến của Lý Bạch bàn về thơ và một Lý Bạch cá thể, nhiều Lý Bạch trong một Lý Bạch giữa thời Trung đại. Chƣơng 2 : “Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch”. Chƣơng này tập trung khảo sát một Lý Bạch trăn trở về tồn tại trong một cảm quan thời gian thoáng chốc và không gian cao rộng. Chƣơng 3 : “Thể loại và ngôn ngữ thơ Lý Bạch”. Chƣơng này khám phá những đặc sắc trong thi pháp thể loại cũng nhƣ ngôn ngữ của Lý Bạch. 15 Chƣơng 1 QUAN NIỆM THƠ CA VÀ CON NGƢỜI LÝ BẠCH TRONG THƠ 1.1. Quan niệm thơ ca Trong quá trình sáng tác thực tiễn, các nhà nghệ sĩ lớn đã dần dần đúc kết đƣợc những quan niệm về sáng tác của chính bản thân mình. Những quan niệm ấy không những biểu hiện đƣợc khuynh hƣớng, chủ trƣơng sáng tác của cá nhân ngƣời nghệ sĩ mà đồng thời còn có thể phản ánh đƣợc nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 16 chung của thời đại. Đến lƣợt mình, sáng tác sẽ là cơ sở để các nhà nghệ sĩ tự đánh giá, tự điều chỉnh ngòi bút cũng nhƣ bình luận sáng tác của ngƣời khác. Tuy không có những tác phẩm lý luận “đại thành” nhƣ Văn tâm điêu long thời kỳ trƣớc hoặc Thương Lãng thi thoại, Tuỳ Viên thi thoại thời kỳ sau, nhƣng hầu nhƣ các “đại gia” đời Đƣờng, bằng hình thức này hay hình thức khác đều có những ý kiến về văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Có lẽ đến thời kỳ này, các thi nhân đã tự ý thức đƣợc hoạt động sáng tạo của mình là một hoạt động tự giác, do vậy họ mới có ý thức trình bày quan điểm sáng tác. “Sự thật thì lý luận văn chƣơng là từ thực tiễn sáng tác mà ra, nhƣng là hai chuyện khác nhau. Chỉ khi nào cái sau tự ý thức thì mới thành ra cái trƣớc” [52, tr.6]. Thời Sơ Đƣờng có Thƣợng Quan Nghi với Bút trác hoa lương, Lý Kiểu với Bình thi cách, Thôi Dung với Đường triều tân định thi cách... Thi đàn Thịnh - Trung Đƣờng chứng kiến sự xuất hiện của Thi cách (Vƣơng Xƣơng Linh), Thi thức, Thi nghị (Thích Hiệu Nhiên), Nhị phong thi luận (Nguyên Kết), Tân nhạc phủ tự, Ký Đường sinh, Dữ Nguyên Cửu thư... của Bạch Cƣ Dị, Đổng thị Vũ Lăng tập ký... của Lƣu Vũ Tích, Nhị thập tứ thi phẩm của Tƣ Không Đồ ... đều là những đúc kết thành quả của thực tiễn sáng tác, mở ra một hƣớng tìm tòi mới cho diện mạo thơ ca đời Đƣờng - “thời kỳ hoàng kim” của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Những ý kiến về thơ ca của Lý Bạch hầu hết đƣợc phát biểu dƣới dạng sáng tác, tập trung ở các bài thơ nhƣ Cổ phong 1, Cổ phong 35... và những phát biểu rải rác đƣợc sao lục trong Bản sự thi (Mạnh Khởi) và Hà nhạc anh linh tập (Ân Phồn). 1.1.1. Theo đuổi cái đẹp tự nhiên Quan điểm mỹ học về cái đẹp tự nhiên (tự nhiên chi mỹ) vốn bắt nguồn từ trong học thuyết của Đạo gia thời Tiên Tần. Trong khi đề xƣớng chủ trƣơng thuận ứng với cái Đạo tự nhiên trong triết học vũ trụ và nhân sinh, Lão Tử thƣờng đề cập đến khái niệm phác (mộc mạc, chất phác) : “Đạo thƣờng vô danh, phác, tuy tiểu, 17 thiên hạ mạc năng thần dã” (Đạo thƣờng không có tên, mộc mạc, tuy nhỏ, nhƣng chƣa có ai thần phục đƣợc - Đạo đức kinh, chƣơng 32). Phác cùng với chân, tố (thuần trắng), thuần (tinh khiết), thực... là những khái niệm về đại thể là đồng nghĩa vẫn thƣờng xuất hiện trong sách của Lão Tử, tất cả đều tuyên dƣơng cái Đạo tự nhiên. Giai cấp thống trị đƣơng thời đề xƣớng tông pháp, nhân nghĩa đạo đức..., theo Lão Tử đều là giả tạo (ngụy) : “Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa, trí huệ xuất, hữu đại ngụy” (Đạo lớn (tự nhiên) bị phế bỏ mới có nhân nghĩa, trí huệ sản sinh, điều giả tạo cũng ra đời - Đạo đức kinh, chƣơng 18). “Ngụy” tức là phá hoại cái tự nhiên anh nhi của nhân tính, từ đó Lão Tử phản đối tất cả, kể cả ngôn từ hoa mỹ : “Mỹ ngôn bất tín, tín ngôn bất mỹ” (Lời đẹp không đáng tin, lời đáng tin không đẹp Đạo đức kinh, chƣơng 81). Có thể xem đây là quan điểm mỹ học sơ khai về nghệ thuật ngôn từ ở Trung Quốc. Nó đƣợc phát huy bởi Trang Tử. Trong quan niệm về vũ trụ tự nhiên của Trang Tử, ta cũng bắt gặp những khái niệm thiện, phác, tố, thuần, chân, sơ, thực... nhằm đề cao bản tính tự nhiên của vạn vật, kể cả con ngƣời, trong đó nhiều nhất là chân : “Pháp thiên quý chân, bất câu vu tục” (Theo tự nhiên, qúy cái chân, không câu nệ vào thói tục - Nam hoa kinh, “Ngƣ phụ”). “Tục” tức những điều trung, hiếu, tiết, nghĩa, đạo đức... có thể làm cho con ngƣời trở thành giả tạo, hƣ rỗng. Theo đuổi tự nhiên, qúy chân không chỉ là triết học nhân sinh mà còn là chủ trƣơng văn nghệ, gần gũi với những quan niệm mỹ học của Trang Tử nhƣ: - “Tố phác nhi thiên hạ mạc năng dữ chi tranh mỹ‟ (Mộc mạc tinh khiết mà thiên hạ khó cùng nó tranh đẹp - “Thiên đạo”). - “Thiên hạ hữu đại mỹ nhi bất ngôn” (Trong thiên hạ có cái Đẹp mà không nói - “Tri bắc du”). Cái đẹp theo Trang Tử là thiên lại (tiếng sáo của trời) : “Kìa nhƣ gió thổi khiến muôn tiếng không đồng nhau vang lên, nhƣng lại khiến cho nó tự ngƣng đi hoặc nổi lên, là gì đấy ?” (“Tề vật luận”). Quách Tƣợng khi chú sách Trang Tử, Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 18 cho rằng thiên lại là thiên nhiên, do vậy cái đẹp thiên lại cũng chính là cái đẹp tự nhiên [138, tr.167]. Những ý kiến của Lão Tử, Trang Tử chƣa trực tiếp đề cập đến văn học mà chỉ là quan niệm mỹ học nói chung nhƣng có ảnh hƣởng rất lớn đến đời sau. Thời Đông Hán, khi Vƣơng Sung (27 - 97) đề xƣớng cái đẹp chân thực (chân mỹ) và phản đối thứ văn phong hoa lệ giả dối (hoa ngụy chi văn) thì nội hàm chủ yếu của văn vẫn là Phú - thể tài đặc trƣng của thời Hán. Nhà huyền học nổi tiếng Quách Tƣợng thời Ngụy - Tấn khi chú sách Trang Tử, trong cách lý giải về cái đẹp tự nhiên đã tuyên dƣơng cái đẹp hình thức phù hợp với bản chất tự nhiên của vạn vật, nhƣ rồng phƣợng phải có bộ lông sặc sỡ. Đó là cái đẹp chân chính; còn dê và chó nếu có đem cạo sạch lông thì cũng không thể gọi là phác (mộc mạc) hoặc tố (tinh khiết) đƣợc [138, tr.170]. Tuy cách kiến giải có khác, nhƣng về căn bản, Quách Tƣợng vẫn nhất trí với Lão,Trang ở chỗ khẳng định cái đẹp tự nhiên. Sau này Lƣu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng cƣờng điệu cái đẹp tự nhiên nhƣng không hề phản đối “lệ từ”, “tình thái” có lẽ tiếp thu ảnh hƣởng từ Quách Tƣợng. Từ khi thơ ngũ ngôn xuất hiện trên thi đàn và chiếm địa vị trọng yếu trong suốt một thời gian dài từ thời Đông Hán đến Sơ Đƣờng, cái đẹp tự nhiên đã trở thành tiêu chuẩn thẩm mỹ phổ quát trong thực tiễn sáng tác, trƣớc tiên phải kể đến Cổ thi thập cửu thủ và sáng tác của các nhà thơ thời kỳ Kiến An. Tuy không có những phát biểu mang tính lý luận nhƣng 19 bài Cổ thi (khuyết danh) với phong cách ngôn ngữ bình dị và với cảm xúc đời thƣờng nhƣ nỗi buồn đời ngƣời ngắn ngủi, tâm trạng lữ khách nhớ quê, tình yêu nam nữ rạo rực... bộc lộ tự nhiên, chân thành đƣợc xem là khúc dạo đầu cho “thời đại văn học tự giác” (chữ dùng của Lỗ Tấn về giai đoạn văn học Ngụy Tấn - Nam Bắc Triều). Chung Vinh trong Thi phẩm căn cứ một phần vào tiêu chuẩn tự nhiên mà xếp phẩm trật cho thi nhân, chẳng hạn xếp thơ Tạ Linh Vận - một nhà thơ Nam Triều vào Thượng phẩm vì thơ Tạ “xuất vu tự nhiên” (bắt nguồn từ tự nhiên); còn Thang Huệ Hƣu thì khen : “Tạ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan