Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ giảng dạy thơ mới 1930-1945 trong nhà trường trung học phổ thôn...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ giảng dạy thơ mới 1930-1945 trong nhà trường trung học phổ thông

.PDF
162
909
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ----------- LÊ THỊ THUÝ HUÂN GIẢNG DẠY THƠ MỚI 1930 – 1945 TRONG NHÀ TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ SƢ PHẠM NGỮ VĂN Hà Nội – 2010 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ---------- LÊ THỊ THUÝ HUÂN GIẢNG DẠY THƠ MỚI 1930 – 1945 TRONG NHÀ TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học (bộ môn Ngữ văn) Mã số : 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Quang Hƣng Hà Nội - 2010 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lí do nghiên cứu 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 4.1. Đối tượng nghiên cứu 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu 7 5. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn 7 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu 7 5.2. Đóng góp mới của luận văn 8 6. Phương pháp nghiên cứu 8 7. Cấu trúc luận văn 8 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY THƠ MỚI TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 9 1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học 9 1.2. Đặc trưng thể loại 12 1.3. Phong cách nghệ thuật 19 1.3.1. Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu qua bài thơ “Vội vàng” 20 1.3.2. Phong cách nghệ thuật Huy Cận qua bài thơ “Tràng giang” 22 1.3.3. Phong cách nghệ thuật Hàn Mặc Tử qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” 24 1.3.4. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Bính qua bài thơ “Tương tư” 26 Chƣơng 2: ĐIỀU TRA THỰC TIỄN GIẢNG DẠY THƠ MỚI 1930-1945 TRONG TRƢỜNG TRUNG H ỌC PHỔ THÔNG 29 2.1. Khái quát thực trạng dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông hiện nay 29 2.2. Thực tiễn giảng dạy Thơ mới hiện nay 32 2.3. Những vấn đề đặt ra khi dạy phần Thơ mới 1930-1945 40 4 Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC THƠ MỚI 1930-1945 TRONG TRƢỜNG TRUNG H ỌC PHỔ THÔNG 43 3.1. Tổng quan của vấn đề nghiên cứu 43 3.2. Đề xuất nhằm đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930-1945 44 3.2.1. Đề xuất 1: Tạo tâm thế cho giờ dạy 44 3.2.2. Đề xuất 2: Phương pháp đọc diễn cảm 51 3.2.3. Đề xuất 3: Phương pháp vấn đáp, đàm thoại 59 3.2.4. Đề xuất 4: Phương pháp giảng bình 68 3.2.5. Đề xuất 5: Phương pháp dạy học với hình thức hợp tác, thảo luận theo nhóm nhỏ 75 Giáo án thể nghiệm bài “Vội vàng” của Xuân Diệu 89 Giáo án thể nghiệm bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử 107 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 125 TÀI LIỆU THAM KHẢO 126 PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ QUI ƢỚC VIẾT TẮT CỦA LUẬN VĂN PGS. TS : Phó giáo sư, Tiến sĩ GS. TS : Giáo sư, Tiến sĩ GD & ĐT : Giáo dục và đào tạo THPT : Trung học phổ thông ĐHSP : Đại học Sư phạm SGV : Sách giáo viên PPDH : Phương pháp dạy học GV : Giáo viên NXB : Nhà xuất bản NCGD : Nghiên cứu giáo dục HS : Học sinh ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội TCVH : Tạp chí văn học 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học: bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học tích cực”. Cần đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học. Lâu nay dạy văn trong nhà trường vẫn được áp dụng phương pháp truyền thụ kiến thức một chiều. Thầy đọc, trò ghi chép, học thuộc và làm theo. Với phương pháp này, chúng ta mới chỉ chú ý đến lao động sáng tạo của giáo viên trong quá trình giảng văn, chú ý đến sự tiếp nhận, cảm thụ mang tính chất cá nhân của giáo viên. Còn học sinh được coi là khách thể, là đối tượng tiếp thụ. Hơn nữa lâu nay, chúng ta quan niệm tác phẩm văn chương là một sản phẩm do nhà văn hoàn toàn quyết định. Từ quan niệm này, tác phẩm văn học được xem như một đối tượng độc lập với người tiếp nhận. Nghĩa là coi tác phẩm văn học như một sự vật với những đặc điểm xác định, những giá trị bất biến có thể mô tả, truyền đạt, phân tích một cách rạch ròi, triệt để. Do vậy mà trong quá trình dạy học văn một số giáo viên thường quy việc tiếp nhận tác phẩm vào một số “điểm” về nội dung và hình thức để bắt học sinh học thuộc lòng và giáo viên chấm bài căn cứ vào “barem”. Những nhu cầu, sở thích của các em ít được giáo viên chú ý đến, chỉ cốt sao thầy hiểu sâu sắc tác phẩm, lên lớp trình diễn lại một cách bài bản, nghệ thuật theo một khuôn mẫu nhất định. Trong những giờ giảng như vậy, hiệu quả 7 sẽ không cao và rồi niềm khát khao được khám phá vẻ đẹp văn chương của học sinh cũng dần bị mai một đi. Trong bài “Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận”, GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng đã viết: “Chỉ khi nào người tiếp nhận quan tâm thiết tha với tác phẩm nghệ thuật và thường xuyên trở lại với chúng trong một thời gian dài thì mới có thể tạo nên những thói quen ổn định và thái độ đúng đắn đối với văn học nghệ thuật”. Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp để tạo sự hứng thú cho học sinh trong việc tiếp nhận tác phẩm văn chương là một việc làm hết sức quan trọng. Học sinh phải là người tự cảm nhận, tự khám phá chiếm lĩnh tác phẩm, thầy cô giáo chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho các em chứ không thể cảm thụ thay các em. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực sẽ bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống một cách hiệu quả nhất. Việc dạy văn nói chung và việc dạy những tác phẩm Thơ mới nói riêng trong nhà trường THPT hiện nay gặp những trở ngại nhất định, trong đó có khó khăn về phương pháp dạy học. Nhiều khi giáo viên bất lực trước một tác phẩm, giảng nhưng không làm bật được đặc trưng thể loại, thế giới cảm xúc của tác giả gửi gắm trong văn bản. Phương pháp dạy học mới đặt ra yêu cầu thay thế và đổi mới phương pháp dạy học cũ để thực sự lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học. Giờ học văn phải là một giờ học sôi nổi, có không khí văn chương và đem lại niềm say mê, hứng thú cho học sinh. Không còn tình trạng học sinh là những bình chứa cho giáo viên rót kiến thức vào. Giáo viên phải là người thắp sáng ngọn hải đăng trí tuệ trong tâm hồn các em, để văn chương đối với các em thực sự lung linh, thật sự khơi dậy trong các em những khát vọng được sống, được học tập và được cống hiến cho xã hội, để các em đến với tác phẩm như đến với một thế giới mới lạ đầy hấp dẫn để tìm hiểu khám phá, để say mê, để “thoả mãn nhu cầu về cái đẹp”. Giáo viên dạy văn là chiếc cầu nối giữa nhà văn và bạn đọc-học sinh, là người “nối tâm hồn 8 với những tâm hồn”. Để hoàn thành sứ mệnh đó, người giáo viên cần phải có phương pháp để dẫn dắt học sinh thâm nhập từng bước vào tác phẩm để nắm bắt đúng tín hiệu, những điểm sáng thẩm mĩ trong mỗi thi phẩm. Do vậy việc giảng dạy các tác phẩm thơ cho học sinh trong nhà trường THPT không chỉ dừng lại ở mức độ tạo cảm hứng hay đồng thể nghiệm mà phải giúp học sinh tìm ra được thế giới nghệ thuật của tác phẩm, giá trị của cuộc sống mà cao hơn là hướng cho các em những nhận thức thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ. Vì thế người giáo viên phải lựa chọn cho mình những phương pháp dạy học tối ưu nhất để dạy thơ nói chung và Thơ mới nói riêng. Thơ là “sản phẩm kì diệu của tâm hồn”, Thơ mới chủ yếu là thơ trữ tình, là thế giới cảm xúc của cái tôi cá nhân, là tiếng lòng của những người trẻ tuổi, trẻ lòng. Do vậy việc dạy học Thơ mới cần có một hệ thống phương pháp riêng trên cơ sở đảm bảo những yêu cầu chung. Những tác phẩm Thơ mới 1930-1945 được đưa vào chương trình lớp 11 ở trường THPT với dung lượng khá lớn: Xuân Diệu với “Vội vàng”; Hàn Mặc Tử với “Đây thôn Vĩ Dạ”; Huy Cận với “Tràng giang”; Nguyễn Bính với “Tương tư”. Thực hiện tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học văn trong nhà trường THPT của ngành giáo dục, nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc giảng dạy Thơ mới ở trường THPT, tôi tiến hành viết luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề Thơ mới 1930 – 1945 là bộ phận văn học có nhiều đóng góp trong việc đưa nền văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hoá, song đây cũng là dòng văn học có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Phần văn học này đã thể hiện được một quan niệm nghệ thuật về con người: đó là con người cá nhân, cái tôi cá nhân trong cảm xúc ngoại giới với các quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, lạ lẫm. Đây là một hiện tượng văn học phong phú nhưng khá phức tạp. Từ sự trỗi dậy của cái tôi cảm xúc trữ tình lãng mạn, các tác giả lãng mạn đã tạo nên một kho báu vô giá về nghệ thuật thơ ca. Nền văn học trong non nửa thế kỉ 9 này có được cái phong phú, đa dạng muôn hình nhiều vẻ, như Hoài Thanh đã vui sướng và quả quyết: “…trong lịch sử thơ ca Việt Nam, chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này, chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp…ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên, và thiết tha rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu” [28; Tr.29] là nhờ có cái tôi cá nhân. Nhiều công trình nghiên cứu về Phong trào Thơ mới đã phần nào đánh giá một cách khái quát về đóng góp, đặc điểm của Phong trào Thơ mới và chỉ ra những nét đặc sắc riêng của các thi sĩ lãng mạn tiêu biểu. Năm 1942, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân ra đời. Cuốn sách đó đã góp phần tổng kết phong trào “Thơ mới” 1930 - 1945, chọn lọc được những bài có giá trị, nêu lên những đóng góp về nghệ thuật của “Thơ mới”, phát hiện một cách tinh tế những nét phong cách độc đáo của mỗi thi sĩ. Quan điểm của tác giả Thi nhân Việt Nam về căn bản vẫn là quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Lối phê bình chủ yếu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa ấn tượng, có khi rơi vào chủ nghĩa hình thức. Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng biểu dương một số thi sĩ phong trào “Thơ mới” lãng mạn. Chuyên luận “Phong trào Thơ mới” của giáo sư Phan Cự Đệ (Xuất bản lần thứ nhất vào năm 1966) có lẽ là cuốn sách đầu tiên phân tích khá toàn diện trào lưu thơ ca lãng mạn từ quá trình hình thành, phát triển đến quan điểm mỹ học, từ con đường bế tắc của chủ nghĩa cá nhân tư sản đến những yếu tố tích cực và tiến bộ còn lại, đến một số vấn đề về nghệ thuật. Nhà nghiên cứu đã thể hiện cái nhìn khá thấu đáo khi đánh giá Phong trào Thơ mới , một hiện tượng phức tạp, đã cố gắng xem xét bộ phận văn học này trong “khung” phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa , trong mối liên hệ với nhiều phía. Song do phạm vi 10 hạn hẹp của một chuyên luận tổng hợp, GS Phan Cự Đệ chưa thể đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật riêng của từng nhà thơ cũng như từng bài thơ cụ thể. “Phong trào thơ mới” trong cuốn “Lịch sử văn học Việt Nam”(Tập V, Phần 1, Thời kì 1930-1945) do ông Nguyễn Hoành Khung chấp bút là một chương viết khá súc tích, tài hoa. Tác giả có cái nhìn tương đối thấu đáo khi đánh giá những mặt hạn chế, tiêu cực lẫn những nét tiến bộ, đáng cảm thông của Phong trào Thơ mới, có sự cảm nhận khá tinh tế khi chỉ ra điệu hồn riêng của các thi sỹ lãng mạn tiêu biểu. Về Xuân Diệu, bên cạnh sự khẳng định những đặc sắc trong nội dung cảm xúc, Nguyễn Hoành Khung đã nêu lên một số nhận xét đáng chú ý về hình thức nghệ thuật như ngôn từ, giọng điệu thơ. Nhưng có lẽ do tính chất của một giáo trình, tác giả vẫn chưa có dịp dừng lại khảo sát, phân tích cho đầy đủ. Năm 1941, Trần Thanh Mại viết riêng một cuốn sách nghiên cứu về Hàn Mặc Tử. Tác giả tuyên bố là đã áp dụng “những phương pháp mới” trong phê bình văn học “xưa nay chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam”. Ông đã nghiên cứu kỹ những đặc điểm của vùng quê hương thi sĩ, những giai thoại về cuộc đời đau thương của Hàn Mặc Tử, những mối tình của Hàn Mặc Tử với Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, những phút mơ màng của Hàn Mặc Tử trên bãi biển Quy Nhơn, những đêm trăng lạnh, tâm trạng bệnh hoạn của thi sỹ ở nhà thương Quy Hoà…, và cho đó là “những cái vòng quyết định của một sợi dây chuyền” sẽ dẫn tới cái đích “cắt nghĩa thi phẩm nhà thơ”. Ông là một trong những người đầu tiên có công khám phá, phát hiện Hàn Mặc Tử, từ những văn bản gốc, nhưng nói chung ông đã quá đề cao nhà thi sĩ vừa lãng mạn, vừa tượng trưng này. Năm 1938, Thế Lữ đã viết lời tựa cho tập “Thơ thơ” xuất bản lần thứ nhất: “Và từ đây, chúng ta có Xuân Diệu!”. Từ niềm đồng cảm của một bạn thơ, bằng những lời lẽ súc tích và nồng nàn, Thế Lữ đã giới thiệu với bạn đọc chân 11 dung thi sỹ Xuân Diệu-một hồn thơ rộng mở, chờ đón, một tay thơ dẻo dai và cần mẫn. Cuốn “Con mắt thơ” của Đỗ Lai Thuý (Nhà xuất bản Lao Động,1992) phản ánh một cố gắng tìm tòi, phân tích phong cách nghệ thuật độc đáo ở một số gương mặt thi sĩ lãng mạn tiêu biểu (Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê) Trong cuốn “Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông” nhóm tác giả trường ĐHSP Hà Nội I đã cung cấp những kiến thức cơ bản, những tư liệu cần thiết và gợi ý, hướng dẫn những phương hướng, kĩ năng tìm hiểu, cảm thụ…về cuộc đời, sự nghiệp và những áng văn tiêu biểu của các nhà văn Việt Nam được giảng dạy trong nhà trường THPT. Cuốn SGV Ngữ văn 11 của Bộ giáo dục và đào tạo do Giáo sư Trần Đình Sử tổng chủ biên cũng đưa ra những gợi ý hướng dẫn trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài học của các bài Thơ mới trong chương trình. Đã có một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo khoa học của các bạn sinh viên viết về cách dạy Thơ mới, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc khái quát cách dạy tác phẩm của từng tác giả như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính… Xin được rút ra một số nhận xét của các bài viết về Thơ mới và cách dạy Thơ mới : Các bài viết đều đã nêu được những đóng góp cũng như hạn chế của Phong trào Thơ Mới, đã phân tích phong cách nghệ thuật độc đáo của một số gương mặt thi sĩ lãng mạn tiêu biểu, đã đưa ra những gợi ý tìm hiểu, cảm thụ một số tác phẩm tiêu biểu. Những cuốn SGV, Thiết kế bài giảng cũng đã hướng dẫn, định hướng phương pháp giảng dạy một số tác phẩm Thơ mới trong trường THPT. Nhưng nhìn chung, các bài viết chỉ đưa ra những gợi ý chung chung, những lời bình chứ chưa thật sự đề xuất một PPDH mới khi tiếp cận các tác phẩm Thơ mới. Như vậy chưa có một đề tài nào nghiên cứu về cách dạy Thơ mới 1930-1945 nói chung được chọn dạy trong chương trình 12 giảng văn lớp 11 (chương trình mới) . Là một giáo viên giảng dạy hơn 10 năm, đã từng lúng túng khi giảng dạy tác phẩm Thơ mới. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, do thực tiễn giảng dạy chưa thực sự đạt hiệu quả, luận văn của tôi xin được đi sâu tìm hiểu phương pháp giảng dạy bốn tác phẩm Thơ mới đang được giảng dạy trong nhà trường THPT hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua khảo sát sự tiếp nhận phần Thơ mới 1930 – 1945 của học sinh để rút ra những thực trạng của việc dạy học văn nói chung, dạy các bài Thơ mới nói riêng. Từ đó đề xuất đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930 – 1945 ở lớp 11 nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ phận văn học này ở trường THPT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Những thi phẩm Thơ mới 1930 - 1945 trong chương trình Ngữ văn lớp 11. - Học sinh lớp 11 năm học 2009 - 2010. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn này chúng tôi nghiên cứu và đề xuất những phương pháp khi tiến hành giảng dạy các thi phẩm Thơ mới 1930 – 1945 trong chương trình THPT lớp 11 năm học 2009 - 2010 theo quan điểm của đổi mới phương pháp dạy học. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Điều tra và đánh giá thực tiễn hiệu quả giảng dạy Thơ mới trong nhà trường THPT. - Khảo sát sự tiếp nhận của học sinh về Thơ mới 1930-1945 ở lớp 11. Tập hợp kết quả, phân tích, đánh giá và rút ra kết luận cần thiết. - Trên cơ sở khảo sát, đề xuất đổi mới phương pháp giảng Thơ mới một cách hiệu quả nhất. - Thiết kế giáo án thể nghiệm bốn tác phẩm Thơ mới ở lớp 11 theo hướng đổi mới phương pháp đã đề xuất. 13 5.2. Đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở khảo sát, tổng hợp, đánh giá, luận văn đã chỉ ra được thực trạng của việc dạy Thơ mới trong nhà trường THPT chưa đạt hiệu quả cao, đề xuất đổi mới phương pháp dạy học bốn tác phẩm Thơ mới trong nhà trường THPT để giúp cho giáo viên, học sinh có thêm những gợi mở cần thiết khi dạy học những tác phẩm này. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát, thống kê kết quả tiếp nhận Thơ mới 1930 – 1945 của học sinh lớp 11. - Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm liên ngành: vận dụng những kiến thức về Văn học Việt Nam, những thành tựu về tâm lí học, lí luận dạy học hiện đại vào quá trình giải quyết đề tài. - Phương pháp quy nạp, tổng hợp, khái quát. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của việc giảng dạy Thơ mới 1930 - 1945 trong nhà trường trung học phổ thông Chương 2: Điều tra thực tiễn giảng dạy Thơ mới 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông Chương 3: Đề xuất đổi mới phương pháp dạy học Thơ mới 1930 – 1945 ở trường trung học phổ thông 14 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY THƠ MỚI TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học Phương pháp dạy học là con đường để đạt được mục đích dạy học. Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập. Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục đích dạy học. Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy-học hoặc nhấn mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Tôi cho rằng, cho dù các phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó do vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình. Theo chúng tôi, phương pháp giảng dạy được gọi là tích cực nếu hội tụ được các yếu tố sau: Thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có; thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học; thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động; thể hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác trong quá trình học; thể hiện được kết quả mong đợi của người học. Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là là gạt bỏ các phương pháp dạy học truyền thống. Các sách lí luận đã chỉ rõ, về mặt hoạt động nhận thức, thì phương pháp thực hành là “tích cực” hơn phương pháp trực quan, phương 15 pháp trực quan thì sinh động hơn phương pháp thuyết trình. Muốn dạy và học tích cực thì cần phát triển phương pháp thực hành, phương pháp trực quan. Đổi mới phương pháp dạy học cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của hệ thống phương pháp dạy học đã quen thuộc, đồng thời cần học hỏi, vận dụng một số phương pháp mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học. Một số phương pháp dạy học tích cực gồm: Dạy học vấn đáp, đàm thoại; Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề; Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ… Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (1 – 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12 – 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt chỉ thị số 14 (4 – 1999). Luật Giáo dục, điều 28.2, đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh ; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đổi mới phương pháp dạy học cần có một cuộc cách mạng về tư duy: thay đổi kiểu tư duy đơn tuyến: là tư duy coi phương pháp là hệ thống các nguyên tắc, điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn; chuyển kiến thức của thầy sang trò theo một chiều. Tư duy đơn tuyến là tư duy dễ cả tin, cần phải khắc phục. Tư duy đa tuyến: là tư duy đặt phương pháp vào hệ thống hoạt động gồm nhiều thành tố, là tư duy theo hệ hình thái tương tác, 16 bao quát tổng thể mỗi sự vật từ đó nắm bắt được bản chất cụ thể và sâu xa của sự vật. Hãy chiêm nghiệm những triết lí về phương pháp: “Phương pháp là linh hồn của một nội dung đang vận động”; “Học phương pháp chứ không học dữ liệu”; “Thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, Thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lí”; “Phương pháp tốt là làm đơn giản những phức tạp, Phương pháp tồi là phương pháp làm phức tạp những đơn giản”; “Thầy giỏi dạy cho mọi người hiểu, đồng thời tối ưu khả năng mỗi người”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động chống lại thói quen học tập thụ động. Định hướng chung của đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tự học, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo được hứng thú học tập cho học sinh, tận dụng được công nghệ mới nhất; khắc phục lối dạy truyền thống truyền thụ một chiều các kiến thức có sẵn. Rất cần phát huy cao năng lực tự học, học suốt đời trong thời đại bùng nổ thông tin. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với hợp tác. Định hướng vào người học được coi là quan điểm định hướng chung trong đổi mới phương pháp dạy học. Quan điểm định hướng chung cần được cụ thể hoá thong qua những quan điểm dạy học khác, như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo tình huống (dạy học gắn với tình huống thực tiễn), dạy học định hướng hành động…cũng như các phương pháp, kĩ thuật dạy học cụ thể nhằm tăng cường hơn nữa việc gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy với hành động, nhà trường với xã hội. Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện theo các định hướng sau: Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông; phù hợp với nội dung dạy học cụ thể; phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh; phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường; phù hợp với việc đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả dạy - học; kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả 17 các phương tiện dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống; tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin. 1.2. Đặc trƣng thể loại Thơ mới 1930 – 1945 thuộc thể loại trữ tình. Tính trữ tình trong văn học bao gồm khía cạnh diễn đạt sự phát triển nội tâm con người, một vấn đề khoa học về con người. Đặc trưng của loại trữ tình là bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc, nhiệt tình, tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động phong phú của tâm hồn và trí tuệ con người. “Sự rung động truyền cảm của tác phẩm trữ tình là lời nói tràn đầy cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ, những lời nói thốt ra tự đáy lòng. Không phải tất cả các tác phẩm bằng thơ đều là tác phẩm trữ tình, nhưng tác phẩm trữ tình thường được sáng tác bằng thơ, bằng thứ ngôn ngữ tràn đầy âm thanh, nhịp điệu, ngưng đọng cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ, kết tinh hiện thực và cuộc sống, có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng người đọc” [22; Tr.4]. Như vậy thơ thể hiện một cách tập trung nhất đặc trưng và sức mạnh của văn học. Và có lẽ sự tác động mạnh mẽ nhất ở thơ chính là “ý lớn tình sâu trong lời hay tiếng đẹp”. “Thơ tức là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường” (Sóng Hồng, Thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,1966). Thơ tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, tinh tuý, lý tưởng trong cuộc sống và những gì cao quý, đằm thắm, thiết tha nhất trong lòng người. Cùng với những đặc trưng như vậy của thơ, lại thêm những nét độc đáo mới lạ của một trào lưu lãng mạn mà nhà phê bình Hoài Thanh đã gọi là “một thời đại trong thi ca”, 18 “Thơ mới” có khả năng tác động mạnh mẽ tới lí trí và tình cảm, mang lại cho bạn đọc niềm say mê, hứng thú. Thơ mới ra đời đến nay đã gần một thế kỉ. Hoàn cảnh xã hội mà Thơ mới ra đời khá phức tạp. Thế hệ học sinh ngày nay có thể chưa hiểu hết bởi do khoảng cách về thời gian. Bạn đọc nói chung say mê Thơ mới, tìm đến Thơ mới để đáp ứng những nhu cầu tinh thần hết sức phong phú của bản thân. Những bài thơ, những câu thơ có cấu trúc tinh vi và dị biệt đã đem đến cho người đọc những khả năng hình dung liên tưởng tưởng tượng, những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống con người. Thơ mới 1930-1945 chủ yếu là tiếng nói của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Những thanh niên trí thức yêu đời, đầy nhiệt huyết, nhưng không tìm thấy con đường đi, họ bế tắc. Họ bất bình “ghét đương thời…ngấy đến cực độ cái đạo lí Khổng Mạnh treo bày trên vách…ngấy đến cực độ cái văn chương rỗng tuếch trong các nhà trường, ngấy đến cực độ cái lối sống công thức, công chức đang bao trùm ở quanh mình” (Lưu Trọng Lư). Họ khao khát được khẳng định mình, được bộc lộ mình. Họ chọn thơ để kí thác tâm sự, gửi gắm những khao khát trần thế. Và “cái tôi cá nhân” chính là một phương diện biểu hiện của Thơ mới Việt Nam 1930 – 1945. Ngay khi ra đời Thơ mới đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các “hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Huy Cận khẳng định: “Trong lịch sử văn học Việt Nam Phong trào Thơ mới giữ một vị trí quan trọng. Thơ mới đã nằm trong mạch của dân tộc như máu thịt trong cơ thể giống nòi”. Nội dung chính của Thơ mới là khẳng định cái tôi. Cái tôi cá nhân tự ý thức, “bản ngã đòi được khẳng định” (Nguyễn Hoành Khung). Cái tôi có nhu cầu giao cảm, thổ lộ mình để mong tìm sự đồng cảm, chia sẻ ở người khác, cá nhân khác. Hoài Thanh gọi thời đại Thơ mới là “thời đại chữ tôi”: Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn họ chỉ thu trong khuôn khổ chữ tôi. Và nó “mang theo một 19 quan niệm chưa từng có ở xứ này”: quan niệm cá nhân. Cái tôi trong Thơ mới được đề cao và giữ vị trí trung tâm của những sáng tạo nghệ thuật, được bộc lộ hết sức phong phú, phức tạp và hấp dẫn. Các nhà Thơ mới sống thành thực với chính mình, dám bộc lộ những nhiệt thành, những mong muốn của cá nhân mình. Thơ mới phá bỏ qui phạm, thoát khỏi hệ thống ước lệ có tính phi ngã. Hoài Thanh, Hoài Chân tổng kết phong trào lại cho rằng: “phong trào Thơ mới vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ bền vững... trong các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ mười hai chữ, hay sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp”. Sau này (1971), GS Hà Minh Đức thống kê 168 bài thơ của 45 nhà Thơ mới được Hoài Thanh, Hoài Chân tuyển vào tập Thi nhân Việt Nam và đi đến kết luận: “Nhìn chung các thể thơ 7 từ, 8 từ, lục bát và 5 từ là những thể thơ được phổ biến nhất trong phong trào Thơ mới”. Đề tài cảm xúc trong Thơ mới cũng rất phong phú, mới lạ chứ không còn nhất nhất theo những khuôn mẫu như xưa. Cái tôi Thơ mới nhìn thế giới bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, khiến nó phát hiện ra nhiều điều mới lạ về thiên nhiên và lòng người. Xuân Diệu cảm nhận được ý tình của hoa lá, cỏ cây: Một tối bầu trời đắm sắc mây. Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy… ( Với bàn tay ấy ) Thế Lữ dù mơ màng theo “Tiếng sáo thiên thai”, đắm mình trong không gian tiên cảnh: “ Trời cao xanh ngắt- ô kìa! Hai con hạc trắng bay về bồng lai”. Nhưng rồi lại thấy thấm thía cái “xa vắng , mênh mông” của một nỗi buồn: Tiếng đưa hiu hắt bên lòng Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn. ( Tiếng sáo thiên thai ) 20 Nhà thơ Lưu Trọng Lư lại sống với “những nỗi đau thương thành thực của loài người” [30;Tr.258]. Giữa không gian yên ắng, âm thanh của tiếng gà gáy trưa đã khơi dậy nơi tâm hồn nhà thơ một nỗi sầu buồn thương nhớ: Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác gà trưa gáy não nùng, Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng. Chập chờn sống lại những ngày không. ( Nắng mới ) Có thể nói cảm xúc bao trùm trong thơ vẫn là cảm xúc buồn. “Thơ mới vừa cất tiếng khóc chào đời đã buồn ngay trong bản chất” (Phan Cự Đệ). Những thanh niên trí thức thời ấy rất yêu đời nhưng lại nhận thấy “cuộc đời cay cực”. “Thơ ca của họ phản ánh cái tâm trạng u uất, day dứt của những người không có lối thoát” (Hồng Chương), nhưng cái tình của họ, cái tình của những người yêu đời, yêu cuộc sống nhưng “đứng giẫm chân tại chỗ khóc than” (Chế Lan Viên) cũng rất đáng để chúng ta cảm thông và trân trọng. Thơ Xuân Diệu có lúc thiết tha dào dạt: “Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn. Làm dây da quấn quýt cả mình xuân”. Nhưng rồi lại tự nhận “Tôi là một con chim không tổ. Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi” (Dối trá). Nhà thơ Huy Cận cũng có lúc thấy lòng thư thái: “Cả không gian hồn hậu rất thơm tho. Gió đưa hương mùi, dìu dịu phất phơ”. Nhưng có lúc lại xót xa, cay đắng: “Nhưng cô độc đã ngầm ghi trên trán. Lòng lạc loài ngay giữa thuở sơ sinh” (Trình bày). Những vần thơ của họ là “tiếng hát đau khổ, không chịu vui với cái xã hội ngang trái vùi dập đương thời”. Đọc Thơ mới, người đọc tiếp xúc với thế giới những cảm xúc khác nhau, rất phong phú, nhiều sắc điệu. Sức hấp dẫn của Thơ mới không phải chỉ ở sự cách tân về nghệ thuật mà còn ở “nhạc điệu tâm hồn riêng của người Việt Nam” thấm nhuần trong đó. Thế hệ học sinh ngày nay tìm thấy trong thơ tiếng nói của chính mình, tiếng nói của tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt thành yêu cuộc sống, yêu Tổ quốc. Tình yêu đó trong Thơ mới có khi được bộc lộ một cách trực tiếp, nồng nàn, tha thiết nhưng cũng có lúc lại ẩn sau tâm trạng buồn đau, cô 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất