Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ LUẬN VĂN THẠC SĨ: Đánh giá tính đa dạng thực vật VQG Bái Tử Long, tỉnh Quảng Nin...

Tài liệu LUẬN VĂN THẠC SĨ: Đánh giá tính đa dạng thực vật VQG Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh

.DOC
93
335
102

Mô tả:

Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng vịnh Bái Tử Long, liền kề phía Bắc vịnh Hạ Long, thuộc huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. VQG có nhiều hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới trên núi đất và núi đá vôi, trong đó hệ sinh thái rừng nhiệt đới đóng vai trò vô cùng quan trọng. Rừng tự nhiên hiện còn thực sự là sinh cảnh thích nghi của nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt trên các đảo lớn: Ba Mùn, Sậu Nam, Sậu Đông, Trà Ngọ Nhỏ, Trà Ngọ Lớn. Hiện nay, một số nghiên cứu về thực vật đã được triển khai tại VQG Bái Tử Long nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về đa dạng thực vật bậc cao có mạch ở nơi đây. Do vậy, chúng tôi đề xuất đề tài: Đánh giá tính đa dạng thực vật VQG Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh, để tìm hiểu về nguồn tài nguyên thực vật, tạo cơ sở sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này, góp phần vào công cuộc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam cũng như trong khu vực.
1 ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ TÊN ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT VQG BÁI TỬ LONG, TỈNH QUẢNG NINH Học Viên: Phan Thị Thu Dung Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Trần Lê Tuất Hà Nội - 2016 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới có hệ sinh thái rừng vô cùng phong phú và đa dạng. Do sự tác động của tự nhiên cũng như của con người đã làm cho các hệ sinh thái này luôn luôn có sự biến đổi. Vì vậy, việc điều tra, đánh giá tính đa dạng thực vật rừng để xây dựng các biện pháp quản lý và bảo tồn chúng là rất cần thiết. Tài nguyên rừng không những cung cấp cho con người nguồn thức ăn, nước uống, dược liệu,…mà còn có một vai trò đặc biệt quan trọng hơn cả đó là cung cấp nguồn oxi vô tận cho con người và các loài sinh vật có thể tồn tại đến ngày nay. Do đó, rừng là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường sinh thái. Ngoài những giá trị to lớn trên, hàng năm, ngành lâm nghiệp cũng đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân, rừng luôn gắn liền với đời sống của nhân dân cùng sự sống còn của tất cả các loài sinh vật trên trái đất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang bị suy giảm một cách nhanh chóng, nguyên nhân chủ yếu là do con người sử dụng nguồn tài nguyên rừng không hợp lý. Mất rừng đồng nghĩa với sự thay đổi môi trường sinh thái và làm không ít các loài sinh vật đã và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Đứng trước những hiểm hoạ do việc mất rừng gây, ra những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã thay đổi, bổ xung nhiều chính sách nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Năm 1962, Chính phủ Việt nam đã quyết định thành lập Vườn quốc gia (VQG) đầu tiên ở nước ta, đó là VQG Cúc Phương. Đây chính là cơ sở cho việc thành lập và phát triển hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên trên cả nước. Tới nay (1-2010) cả nước ta đã có 32 VQG và hàng trăm khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) được thành lập. Đây là một bước ngoặt quan trọng nhằm mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam. Nghiên cứu về hệ thực vật rừng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cho công tác nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc nghiên cứu về hệ thực vật giúp người ta hiểu biết rõ được thành phần, tính chất các hệ thực vật ở từng nơi, từng vùng, nhằm xây dựng mô hình về khai thác, sử dụng, phát triển và 3 bảo vệ nguồn tài nguyên thực vật một cách bền vững, không gây ảnh hưởng đến môi trường sống, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, mang lại lợi ích lâu dài cho con người. Vườn quốc gia Bái Tử Long nằm trong vùng vịnh Bái Tử Long, liền kề phía Bắc vịnh Hạ Long, thuộc huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. VQG có nhiều hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới trên núi đất và núi đá vôi, trong đó hệ sinh thái rừng nhiệt đới đóng vai trò vô cùng quan trọng. Rừng tự nhiên hiện còn thực sự là sinh cảnh thích nghi của nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt trên các đảo lớn: Ba Mùn, Sậu Nam, Sậu Đông, Trà Ngọ Nhỏ, Trà Ngọ Lớn. Hiện nay, một số nghiên cứu về thực vật đã được triển khai tại VQG Bái Tử Long nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về đa dạng thực vật bậc cao có mạch ở nơi đây. Do vậy, chúng tôi đề xuất đề tài: Đánh giá tính đa dạng thực vật VQG Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh, để tìm hiểu về nguồn tài nguyên thực vật, tạo cơ sở sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này, góp phần vào công cuộc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam cũng như trong khu vực. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. QUAN ĐIỂM NHẬN THỨC VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC Ngày nay, yêu cầu bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH ), tài nguyên thiên nhiên và môi trường là một vấn đề hàng đầu. ĐDSH không những có giá trị về mặt môi trường sinh thái mà còn có giá trị về Văn hoá, Giáo dục, Thẩm mỹ... Chính vì vậy mà công ước về bảo tồn ĐDSH đã được thông qua tại Đại hội Thượng đỉnh tại Rio de Janeiro (Braxin, 1992), đây là cái mốc đánh giá sự cam kết của các quốc gia trên toàn thế giới về bảo tồn ĐDSH, đảm bảo việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên sinh vật. Do mới được quan tâm nên ĐDSH vẫn còn là một khái niệm rất mới và nghĩa khá rộng nên được nhiều tập thể tác giả đề cập đến. Trong Công ước Quốc tế về bảo tồn ĐDSH đã định nghĩa: “ĐDSH là tính khác biệt, muôn hình muôn vẻ về cấu trúc, chức năng và các đặc tính khác giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn bao gồm hệ sinh thái trên đất liền và các hệ sinh thái dưới nước”. Theo Quỹ quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF, 1990) đề xuất khái niệm ĐDSH như sau: “ĐDSH là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong một môi trường”. Như vậy, ĐDSH được xem xét ở cả 3 mức độ: ĐDSH ở cấp độ loài bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài động, thực vật và các loài nấm. Ở mức độ tinh tế hơn, ĐDSH bao gồm cả sự khác biệt về gen giữa các loài, giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. ĐDSH còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống, giữa các hệ sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại, và cả sự khác biệt của các môi trường sống tương tác giữa chúng với nhau. Bên cạnh đó ĐDSH còn được định nghĩa như sau: “ĐDSH là tập hợp tất cả các nguồn sống trên hành tinh chúng ta, bao gồm tổng số các loài động, thực vật, tính đa dạng và phong phú trong từng loài, tính đa dạng của các hệ sinh thái trong 5 các cộng đồng sinh thái khác nhau hay là tập hợp của các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế giới với các hoàn cảnh khác nhau” trong “Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam”. Định nghĩa này tuy đã đề cập đến mức độ đa dạng của sinh vật trên hành tinh, song còn quá dài và không cụ thể khiến người đọc khó hình dung. Mặt khác, định nghĩa trên vẫn chưa đề cập đến mức đa dạng gen (di truyền), chỉ đề cập đến tính đa dạng của hệ động vật, thực vật mà chưa đề cập đến các sinh vật khác như vi sinh vật, tảo, nấm,… là một trong những mắt xích không thể thiếu được trong chuỗi thức ăn để từ đó tạo ra quần xã sinh vật và hệ sinh thái [16]. Vào năm 1993, Viện Tài nguyên gen và Thực vật Quốc tế (IPJRI) đã cho ra đời tác phẩm “Đa dạng cho sự phát triển” trong đó ĐDSH được hiểu rằng “ĐDSH là sự biến dạng của các cơ thể sống và các phức hệ sinh thái mà chúng sống”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn, song chưa chính xác và gây cho người đọc khó hiểu. Tiếp đó, Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) trong “Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật” đã đưa ra “ĐDSH là toàn bộ các dạng sống khác nhau của cơ thể sống trên trái đất gồm từ các sinh vật phân cắt đến động, thực vật ở trên cạn cũng như ở dưới nước, từ mức độ phân tử AND đến các quần thể sinh vật kể cả xã hội loài người. Khoa học nghiên cứu về tính đa dạng đó gọi là ĐDSH” [44]. Ở đây, ĐDSH được hiểu theo 3 khía cạnh: + Đa dạng ở mức độ di truyền: mỗi loài sinh vật và thậm chí trong một cá thể của loài đều có những phân tử AND đặc trưng cho loài. Tính đặc trưng này được thể hiện qua số lượng và trình tự sắp xếp các nucleotit trong phân tử AND, qua hàm lượng trong nhân tế bào và tỷ lệ giữa các cặp bazo A+T/G+X. Trật tự các nucleotit trong các gen có liên quan đến việc qui định các tính trạng và các đặc tính của cơ thể. Trong quá trình tiến hóa của sinh vật từ thấp đến cao, hàm lượng AND trong các tế bào cũng được tăng lên. Đó là một sự biểu hiện của đa dạng gen. + Đa dạng ở mức độ loài: phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng các loài hoặc số lượng các phân loài (loài phụ) trên trái đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay một sinh cảnh nhất định. Loài là một nhóm cá thể khác biệt với các 6 nhóm cá thể khác về mặt sinh học và sinh thái. Các cá thể trong loài có vật chất di truyền tương tự nhau và có khả năng trao đổi thông tin di truyền (giao phối, giao phấn) với nhau và cho ra các thế hệ con cái hữu thụ (có khả năng sinh sản tiếp tục). Như vậy, các cá thể trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài. Vì vậy, tính đa dạng loài hoàn toàn bao trùm tính đa dạng di truyền và thường được coi trọng nhất khi đề cập đến tính ĐDSH. + Đa dạng ở mức độ hệ sinh thái: Thể hiện bằng sự khác nhau của các kiểu quần xã sinh vật tạo nên. Quần xã sinh vật được xác định bởi các loài sinh vật trong một sinh cảnh nhất định cùng các mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong loài và giữa các loài với nhau. Quần xã sinh vật cũng quan hệ với môi trường vật lý tạo thành một hệ sinh thái. Hệ sinh thái là một cấu trúc và chức năng của sinh quyển bao gồm các quần xã động, thực vật, các quần xã vi sinh vật, thổ nhưỡng (đất) và các yếu tố khí hậu. Các thành phần này liên hệ với nhau thông qua các chu trình vật chất và năng lượng (chu trình sinh địa hoá). Cao hơn nữa, định nghĩa này đã đề cập đến xã hội loài người đó là đa dạng các loại hình văn hóa dân tộc. Đây là một quan điểm mới được đề cập đến mang tính nhân đạo và sự công bằng xuất phát từ nguyên nhân đạo đức, đó chính là câu trả lời cho một phần của câu hỏi vì sao phải bảo tồn ĐDSH. 1.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG THỰC VẬT 1.2.1 Nghiên cứu về đa dạng phân loại 1.2.1.1. Trên thế giới Cho đến nay, vấn đề đa dạng sinh vật và bảo tồn nguồn tài nguyên đã trở thành chiến lược trên toàn thế giới. Đã có nhiều tổ chức quốc tế được ra đời với mục tiêu nhằm hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh vật trên toàn phạm vi toàn cầu như: Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (IUCN), Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), Tổ chức quốc tế bảo tồn các loài và các hệ sinh thái có nguy cơ trên phạm vi toàn cầu (FFI), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật nguy cấp (CITES),... Loài người muốn tồn tại lâu dài trên hành tinh này thì phải 7 xây dựng các chiến lược phát triển một cách bền vững. Bởi nhu cầu cơ bản và sự sống còn của con người phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn tài nguyên tự nhiên của trái đất, nếu những tài nguyên đó bị mất đi hoặc giảm sút thì cuộc sống của chúng ta và con cháu của chúng ta sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Chúng ta đã quá lạm dụng tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến các thế hệ tương lai, nên ngày nay loài người đang đứng trước những hiểm hoạ khôn lường. Để tránh sự huỷ hoại các nguồn tài nguyên chúng ta phải tôn trọng các quy luật của tự nhiên. Vì vậy tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh vật được tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) có 150 nước đã ký vào Công ước về đa dạng sinh vật và bảo vệ chúng. Từ đó nhiều hội thảo được tổ chức nhằm thảo luận và có nhiều cuốn sách mang tính chất chỉ dẫn ra đời. Năm 1990, WWF đã cho xuất bản cuốn sách nói về tầm quan trọng về đa dạng sinh vật (The importance of biological diversity) hay IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến lược bảo tồn thế giới (World conservation strategy), Wri, IUCN và WWF đưa ra chiến lược sinh vật toàn cầu (Global biological strategy). Năm 1991, Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản cuốn bảo tồn đa dạng sinh vật thế giới (Conserving the World's biological diversity) hoặc IUCN, UNEP, WWF xuất bản cuốn "Hãy quan tâm tới trái đất" (Caring for the earth). Cùng năm, Wri, IUCN và UNEP xuất bản cuốn chiến lược đa dạng sinh vật và chương trình hành động. Năm 1992 – 1995, WCMC công bố một cuốn sách tổng hợp các tư liệu về đa dạng sinh vật của các nhóm sinh vật khác nhau ở các vùng khác trên toàn thế giới là (Đánh giá đa dạng sinh vật toàn cầu) (Global biodiversity assessment) [50]. Tất cả các cuốn sách đó nhằm hướng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo tồn đa dạng sinh học, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong tương lai. Bên cạnh đó, hàng ngàn tác phẩm, những công trình khoa học khác nhau ra đời và hàng ngàn cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức nhằm thảo luận về quan điểm, về phương pháp luận và thông báo các kết quả đã đạt được ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế hay khu vực được nhóm họp tạo thành mạng lưới phục vụ cho việc đánh giá bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. 8 1.2.1.2. Ở Việt Nam Ngay từ thế kỷ 18, Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về thực vật như các công trình của Loureiro (1790), sang thế kỷ 19 có công trình của Pierre (1879 - 1907) và cho đến những năm đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là nền tảng cho việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam, đó là bộ Thực vật chí Đại cương Đông Dương do Lecomte chủ biên (1907 - 1952). Trong công trình này, các tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, con số kiểm kê và được đưa ra 7004 loài thực vật bậc cao có mạch. Tiếp theo phải kể đến bộ Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960 - 2001) cùng với nhiều tác giả khác. Đến nay đã công bố 31 tập nhỏ gồm 75 họ cây có mạch nghĩa là chưa đầy 21% tổng số họ đã có [81]. Tuy nhiên con số này còn ít xa so với số loài thực có ở 3 nước Đông Dương. Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, Thái Văn Trừng (1978, tái bản năm 2000) đã thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài, 1850 chi và 289 họ. Trong đó, ngành Hạt kín có 3366 loài (90,9%), 1727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%). Ngành Dương xỉ và họ hàng Dương xỉ có 599 loài (8,6%), 205 chi (5,57%) và 42 họ (14,5%). Ngành Hạt trần 39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8 họ (2,8%) [55]. Gần đây, đáng chú ý nhất phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam (1999 - 2000); hay bộ sách Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam (2001 - 2005). Đây là những bộ sách đầy đủ nhất và dễ sử dụng nhất góp phần đáng kể cho nghiên cứu khoa học thực vật ở Việt Nam. Bên cạnh đó một số họ riêng biệt đã được công bố như họ Lan (Orchidaceae) Đông Dương của Seidenfaden (1992), họ Lan (Orchidaceae) Việt Nam của Leonid V. Averyanov (1994), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), họ Na (Annonaceae) Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), họ Bạc hà (Lamiaceae) của Vũ Xuân Phương (2000), họ Đơn nem (Myrsinaceae) của Trần Thị Kim Liên (2002), họ Cói (Cyperaceae) của Nguyễn Khắc Khôi (2002), họ Trúc 9 đào (Apocynaceae) của Trần Đình Lý (2007), họ Cúc (Asteraceae) của Lê Kim Biên (2007),.... Đây là những tài liệu quan trọng làm cơ sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam. Để phục vụ công tác khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thực vật Viện Điều tra Qui hoạch Rừng đã công bố 7 tập Cây gỗ rừng Việt Nam (1971 - 1988) giới thiệu khá chi tiết cùng với hình vẽ minh hoạ, đến năm 1996 công trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và tập thể (1993) công bố 1900 cây có ích ở Việt Nam; Võ Văn Chi (1997) công bố từ điển cây thuốc Việt Nam; Viện Dược liệu (2004) cho ra cuốn Cây thuốc và động vật làm thuốc, hay 20 tập viết về Tài nguyên Thực vật Đông Nam Á (1991-2003) do các nhà khoa học các nước Đông Nam Á công bố,... Bên cạnh những công trình mang tính chất chung cho cả nước hay ít ra một nửa đất nước, có nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thực vật từng vùng dưới dạng danh lục được công bố chính thức như hệ thực vật Tây Nguyên đã công bố 3754 loài thực vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984); Danh lục thực vật Phú Quốc của Phạm Hoàng Hộ (1985) công bố 793 loài thực vật có mạch trong một diện tích 592 km2; Lê Trần Chấn và cộng sự (1990) về hệ thực vật Lâm Sơn, Lương Sơn (Hoà Bình); Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2024 loài thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan [53], hay một loạt các bài báo công bố về đa dạng thành phần loài ở các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên như vùng núi đá vôi Sơn La, vùng ven biển Nam Trung Bộ, vườn Quốc gia Ba Bể, Cát Bà, Bến En, Phong Nha, Cát Tiên, Yok Đôn, Phong Nha - Kẻ Bàng,... do nhiều tác giả công bố trong những năm gần đây 1999-2010. Ngoài những công trình là các bài báo, một số tác giả đã công bố các kết quả nghiên cứu về đa dạng thực vật dưới dạng sách chuyên khảo như Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Bá Thụ đã công bố cuốn sách "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương" (1997), Nguyễn Nghĩa Thìn và Mai Văn Phô công bố cuốn "Đa dạng sinh học khu hệ Nấm và Thực vật ở Vườn quốc gia Bạch Mã" (2003), Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thanh Nhàn đã công bố cuốn “Đa dạng 10 thực vật ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An” (2004), Phân viện điều tra quy hoạch rừng công bố cuốn “Tài nguyên Động thực vật rừng vườn quốc gia Côn Đảo” (2004), Nguyễn Nghĩa Thìn và Đặng Quyết Chiến với “Đa dạng thực vật ở Khu BTTN Na Hang - Tuyên Quang” (2006), Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự với “Đa dạng sinh học VQG Hoàng Liên” (2008),... Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến Bân (1990) đã thống kê và đi đến kết luận thực vật Hạt kín trong hệ thực vật Việt Nam hiện biết 8500 loài, 2050 chi trong đó lớp Hai lá mầm 1590 chi và trên 6300 loài, lớp Một lá mầm 460 chi với 2200 loài [2]. Phan Kế Lộc (1998) đã tổng kết hệ thực vật Việt Nam có 9628 loài cây hoang dại có mạch, 2010 chi, 291 họ, 733 loài cây trồng, như vậy tổng số loài lên tới 10361 loài, 2256 chi, 305 họ chiếm 4%, 15% và 57% tổng số các loài, chi và họ của thế giới. Ngành Hạt kín chiếm 92,47% tổng số loài, 92,48% tổng số chi và 85,57% tổng số họ. Ngành Dương xỉ kém đa dạng hơn theo tỷ lệ 6,45%, 6,27%, 9,97% về loài, chi, họ. Ngành Thông đất đứng thứ 3 (0,58%) tiếp đến là ngành Hạt trần (0,47%) hai ngành còn lại không đáng kể về họ, chi và loài [32]. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên theo hệ thống Brummitt (1992) và chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2582 chi, 395 họ thực vật bậc cao và 30 họ có trên 100 loài với tổng số 5732 loài chiếm 51,3% tổng số loài của hệ thực vật [44]. 1.2.1.3. Ở Vườn quốc gia Bái Tử Long Theo các nguồn tài liệu mà chúng tôi được biết từ khi thành lập khu BTTN Ba Mùn (về sau đổi tên thành Vườn quốc gia Bái Tử Long) đến nay chỉ có một vài công trình nghiên cứu như: điều tra đánh giá lại rừng đảo Ba Mùn (Sở Lâm nghiệp Quảng Ninh, 1996-1997) hoặc điều tra nhanh thảm thực vật Ba Mùn và các đảo kế cận (Viện điều tra Quy hoạch rừng, 2000), đã đưa ra kết quả điều tra hệ thực vật ở nơi đây bao gồm khoảng 494 loài, thuộc 337 chi, 117 họ thực vật bậc cao có mạch [56]. Tuy nhiên con số này vẫn chưa thể hiện hết được mức độ đa dạng của hệ thực vật ở Vườn quốc gia Bái Tử Long. Từ các năm 2005-2008, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (có sự tham gia của tác giả luận văn này) đã tiến hành điều tra tại 11 Vườn quốc gia Bái Tử Long, kết quả là một số công trình được công bố tiếp theo như Nghiên cứu Tính đa dạng thực vật ở VQG BTL, tỉnh Quảng Ninh (Vũ Xuân Phương và cộng sự, 2007), Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG BTL (Nguyễn Thế Cường và cộng sự, 2007), Các loài cây ngập mặn tại vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh (Phạm Khánh Linh, Đỗ Thị Xuyến, 2009). 1.2.2. Đa dạng về hệ sinh thái 1.2.2.1. Trên thế giới Có rất nhiều tác giả khác nhau đưa ra những lý luận riêng của mình về phân loại rừng phục vụ cho đánh giá đa dạng về sinh thái. Mỗi lý luận đều đưa ra những cách thức phân loại riêng theo mục đích của tác giả như phân loại rừng dựa theo cấu trúc và ngoại mạo: đây là hướng cổ điển được nhiều người áp dụng như A. F. Schimper (1903), A. Aubréville (1949), UNESCO (1973),… cơ sở phân loại của xu hướng này thường là đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật. 1.2.2.2. Ở Việt Nam Về đa dạng quần xã thực vật trên phạm vi cả nước: phải kể đến công trình nổi tiếng của Thái Văn Trừng (1978) về thảm thực vật Việt Nam. Dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả đã phân chia thảm thực vật Việt Nam thành các kiểu phụ, kiểu trái và thấp nhất các ưu hợp. Trong các yếu tố phát sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật, còn các yếu tố địa lý, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khu hệ thực vật và con người là yếu tố phát sinh của các kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp, Đối với mỗi miền có những tác phẩm lớn: ở miền Nam có công trình thảm thực vật nam Trung Bộ của Schmid (1974). Ngoài điều kiện khí hậu với chế độ thoát nước khác nhau, các tiêu chuẩn phân biệt các quần xã là sự phân hoá khí hậu, thành phần thực vật đai cao. Tác giả xác nhận các loài thuộc về hệ thực vật Malêzi ở đai thấp dưới 600m còn các loài thuộc hệ thực vật Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa ở đai trên 1200m, từ 600 - 1200m được coi là đai chuyển tiếp. Ở miền Bắc có công trình của Trần Ngũ Phương (1970) đã chia các đai trên cơ sở độ cao, sau đó kiểu 12 dựa vào điều kiện địa hình và tính chất sinh thái, các kiểu khu vực dựa vào thành phần thực vật. Năm 1995, Nguyễn Vạn Thường xây dựng bản đồ thảm thực vật Bắc Trung Bộ đã chia 4 vùng sinh thái chính căn cứ vào độ cao so với mặt biển: < 700m nhiệt đới ẩm, < 700m nhiệt đới ẩm có nửa mùa khô, < 700m hơi khô có mùa mưa rõ và 800 - 1500m nhiệt đới ẩm. Có thể nói, đó là sơ đồ tổng quát nhất về thảm thực vật Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Mãi năm 1985, theo cách phân loại mới của UNESCO (1973) Phan Kế Lộc đã vận dụng thang phân loại đó để xây dựng thang phân loại thảm thực vật Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ, 77 quần hệ khác nhau [32, 78]. Đối với các khu bảo tồn: Năm 1995, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã nghiên cứu các quần xã thực vật và xây dựng bản đồ thảm thực vật Vườn Quốc gia Cúc Phương, cùng năm đó có một số thông báo của Vũ Văn Dũng về các kiểu thảm thực vật ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Vũ Quang, của Nguyễn Đức Ngắn, Lê Xuân Ái về các kiểu thảm thực vật Côn Đảo, của Nguyễn Duy Chuyên về các kiểu thảm thực vật ở các khu bảo tồn và Vườn Quốc gia các tỉnh miền Nam Việt Nam, của Trần Ngọc Bút về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Cát Bà, Lê Đức Giang về các kiểu thảm thực vật vườn quốc gia Bến En, của Huỳnh Văn Kéo về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Bạch Mã, của Võ Văn Bền về các kiểu thảm thực vật Đảo Phú Quốc, của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên, Đỗ Minh Tiến về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Tam Đảo, Bùi Văn Định, Cao Văn Sung, Phạm Đức Tiến về các kiểu thảm thực vật Vườn Quốc gia Ba Bể. Những năm gần đây, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời giới thiệu về các kiểu thảm thực vật vùng Sa Pa - Phan Si Pan (1998), J. W. Kim, Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) và Nguyễn Nghĩa Thìn (1999) về các kiểu thảm ở Vườn Quốc gia Cát Bà. Gần đây nhất là công trình của Phùng Ngọc Lan và cộng sự đã công bố trong các cuốn sách: "Tính đa dạng thực vật Cúc Phương" (1997), Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự với "Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa Phan Si Pan" (1998), "Đa dạng sinh học khu hệ Nấm và Thực vật ở Vườn Quốc gia 13 Bạch Mã" (2003) “Đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An” (2004), “Đa dạng thực vật khu BTTN Na Hang, Tuyên Quang” (2006), “Đa dạng sinh học VQG Hoàng Liên” (2008),... 1.2.2.3. Ở Vườn quốc gia Bái Tử Long Theo các nguồn tài liệu mà chúng tôi được biết thì từ khi thành lập Khu BTTN đảo Ba Mùn, sau chuyển thành VQG BTL chỉ có công trình “Dự án đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh” của Viện Điều tra Quy hoạch rừng (2000) đã đưa ra 4 kiểu rừng trên núi đá, trên núi đất và vùng ngập mặn ở Vườn quốc gia này: + Rừng tự nhiên, lá rộng thường xanh trên núi đất, chủ yếu phân bố ở Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Đông, Sậu Nam. Đây là một hệ sinh thái điển hình cho vùng núi đất phía Bắc Việt Nam, đây cũng là kiểu rừng chủ yếu của VQG BTL. Mặc dù theo báo cáo khẳng định không còn trạng thái rừng già, rừng nguyên sinh trên các đảo nhưng rừng ở trạng thái trung bình khá, kém hoặc nghèo, rừng non đang phục hồi đều có xu hướng tái sinh mạnh, sinh trưởng khoẻ, thành phần các loài cây đặc hữu hoặc bản địa thông thường đều ít biến đổi. + Rừng lá rộng thường xanh trên núi đá vôi, tập trung rải rác ở Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ. + Rừng Tre nứa, chỉ có một phần nhỏ trên Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ. + Rừng trồng chỉ có một phần nhỏ trên Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ. + Rừng ngập mặn, bao quanh tất cả các đảo Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Đông, Sậu Nam,.… Đây là báo cáo lưu hành nội bộ, ngoài những nét sơ bộ về báo cáo này, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu hơn về kiểu thảm thực vật rừng ở nơi đây. 1.2.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật (HTV). 1.2.3.1. Trên thế giới Các loài thực vật cấu thành nên một HTV nào đó không chỉ khác nhau về thành phần phân loại mà còn khác nhau về sự phân bố địa lý, nguồn gốc địa lý và cả tuổi xuất hiện trong HTV. Phân tích các yếu tố địa lý thực vật là một trong những 14 nội dung quan trọng khi nghiên cứu một hệ thực vật hay bất kỳ một khu hệ sinh vật nào để hiểu bản chất cấu thành của nó làm cơ sở cho việc định hướng bảo tồn và dẫn giống vật nuôi, cây trồng,... Phân tích các loài thành các nhóm căn cứ vào sự giống nhau ít hay nhiều về khu phân bố của chúng. Tập hợp tất cả các loài của một HTV có khu phân bố ít nhiều giống nhau tập hợp lại thành một yếu tố địa lý. Tập hợp tất cả các yếu tố địa lý của hệ thực vật (tính %) là phổ các yếu tố địa lý của HTV đó. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành của HTV cũng rất phức tạp và phải phụ thuộc vào khả năng của từng tác giả cũng như nguồn tài liệu cho phép. Việc chia nhóm khu phân bố rộng hay hẹp khác nhau đều phải đảm bảo nguyên tắc chung là “mỗi yếu tố địa lý của HTV bao gồm tất cả các loài của HTV đó có khu phân bố ít nhiều giống nhau”. Các yếu tố địa lý thực vật này được phân ra làm 2 nhóm yếu tố chủ đạo là yếu tố đặc hữu và yếu tố di cư, các loài thuộc yếu tố đặc hữu thể hiện ở sự khác biệt giữa các hệ thực vật với nhau, còn các loài thuộc yếu tố di cư sẽ chỉ ra sự liên hệ giữa các hệ thực vật đó. Một số tác giả tiêu biểu như E. Gail et al. (1979), Maguran (1995), Gagnepain (1926),... 1.2.3.2. Ở Việt Nam Phân tích và đánh giá các yếu tố cấu thành hệ thực vật Việt Nam về mặt địa lý trước tiên phải kể đến các công trình của Gagnepain: “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương” (1926) và “Giới thiệu về hệ thực vật Đông Dương” (1944). Theo tác giả, hệ thực vật Đông Dương bao gồm các yếu tố (ghi theo M. Schmid, 1974) [84]: Yếu tố Trung Quốc 33,8% Yếu tố Xích Kim - Himalaya 18,5% Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác 15,0% Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương 11,9% Yếu tố nhập nội và phân bố rộng 20,8% Theo Pócs Tamás (1965) khi nghiên cứu hệ thực vật Bắc Việt Nam đã phân tích về phương diện địa lý thực vật của miền Bắc Việt Nam, đã phân biệt 3 nhóm các yếu tố như sau [70]: * Nhân tố bản địa đặc hữu 39,90 % 15 Đặc hữu Việt Nam 32,55 % Đặc hữu Đông Dương 7,35 % * Nhân tố di cư từ các vùng nhiệt đới: 55,27 % Từ Trung Quốc 12,89 % Từ ấn Độ và Himalaya 9,33 % Từ Malaysia - Indonesia 25,69 % Từ các vùng nhiệt đới khác 7,36 % * Nhân tố khác Ôn đới 4,83 % 3,27 % Thế giới 1,56 % Tổng: 100,00 % * Nhân tố nhập nội, trồng trọt 3,08 % Thái Văn Trừng (1978, tái bản 2000) căn cứ vào bảng thống kê các loài của hệ thực vật Bắc Việt Nam đã cho rằng ở Việt Nam có 3 % số chi và 27,5% số loài đặc hữu. Nhưng khi thảo luận tác giả đã gộp các nhân tố di cư từ nam Trung Hoa và nhân tố đặc hữu bản địa Việt Nam làm một và căn cứ vào khu phân bố hiện tại, nguồn gốc phát sinh của loài đó đã nâng tỷ lệ các loài đặc hữu bản địa lên 50% (t ương tự 45,7% theo Gagnepain và 52,79% theo Pócs Tamás), còn yếu tố di cư chiếm tỷ lệ 39% (trong đó từ Malaysia - Indonesia là 15%, từ Hymalaya - Vân Nam - Quí Châu là 10% và từ Ấn Độ - Miến Điện là 14%), các nhân tố khác theo tác giả chỉ chiếm 11% (7% nhiệt đới, 3% ôn đới và 1% thế giới), nhân tố nhập nội vẫn là 3,08% [55]. Năm 1997 và 2007, Nguyễn Nghĩa Thìn căn cứ vào các khung phân loại của Pócs (1965) và Ngô Chính Dật (1993) đã xây dựng thang phân loại các yếu tố địa lý thực vật cho hệ thực vật Việt Nam và áp dụng cho việc sắp xếp các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa lý như sau [44, 48]: 1. Yếu tố toàn cầu 2. Yếu tố Liên nhiệt đới 2-1. Yếu tố Á - Úc - Mỹ 16 2-2. Yếu tố Á - Phi - Mỹ 2-3. Yếu tố Á - Mỹ 3. Yếu tố Cổ nhiệt đới 3-1. Yếu tố Á - Úc 3-2. Yếu tố Á - Phi 4. Yếu tố nhiệt đới châu Á 4-1. Yếu tố Đông Dương - Malêzi 4-2. Yếu tố Đông Dương - Ấn Độ 4-3. Yếu tố Đông Dương - Himalaya 4-4. Yếu tố Đông Dương - Nam Trung Hoa 4-5. Yếu tố Đông Dương 5. Yếu tố ôn đới 5-1. Yếu tố Đông Á - Nam Mỹ 5-2. Yếu tố ôn đới Cổ thế giới 5-3. Yếu tố ôn đới Địa Trung Hải 5-4.Yếu tố Đông Nam Á 6. Yếu tố đặc hữu Việt Nam 6-1. Cận đặc hữu. 6-2. Yếu tố đặc hữu miền Bắc - Trung 7. Yếu tố cây trồng. Từ khung phân loại các yếu tố địa lý đó Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã lần lượt xác định các yếu tố địa lý thực vật của hệ thực vật một số Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên của nước ta. Tài liệu mới nhất về các yếu tố địa lý thực vật của hệ thực vật được tác giả công bố về Vườn Quốc gia Bạch Mã (2003), Vườn Quốc gia Pù Mát (2004), Khu BTTN Na Hang (2006), VQG Hoàng Liên (2008). 1.2.3.3. Ở Vườn quốc gia Bái Tử Long Tính đến thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu thì chưa có một nghiên cứu nào về yếu tố địa lý thực vật ở Vườn quốc gia Bái Tử Long. 17 1.2.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật Dạng sống là một đặc tính biểu hiện sự thích nghi của thực vật với điều kiện môi trường. Vì vậy, việc nghiên cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ chặt chẽ của các dạng với điều kiện tự nhiên của từng vùng và biểu hiện sự tác động của điều kiện sinh thái đối với từng loài thực vật. Khi người ta lập được phổ dạng sống (phổ sinh học) của hệ thực vật, nghĩa là tính được tỷ số % số loài của mỗi nhóm dạng sống nhất định thì người ta có thể hiểu được bản chất sinh thái của một hệ thực vật và có thể so sánh với các hệ thực vật khác. 1.2.4.1. Trên thế giới Trên thế giới, người ta thường dùng thang phân loại của Raunkiaer (1934) về phổ dạng sống, thông qua dấu hiệu vị trí chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi (do lạnh, khô hay cả hai) của năm. Thang phân loại này gồm các nhóm dạng sống cơ bản sau. 1- Cây có chồi trên đất (Ph) trong đó: a- Cây gỗ lớn cao trên 30m (Mg) b- Cây lớn có chồi trên đất cao 8 - 30m (Me) c- Cây nhỏ có chồi trên đất 2 - 8m (Mi) d- Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na) e- Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp) f- Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep) g- Cây có chồi trên đất thân thảo (Hp) 2- Cây chồi sát đất (Ch) 3- Cây chồi nửa ẩn (Hm) 4- Cây chồi ẩn (Cr) (trong đó có cây thủy sinh – Cr (Hy)) 5- Cây chồi một năm (Th) Tác giả đã tính toán cho hơn 1000 loài cây ở các vùng khác nhau trên trái đất và tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình cho từng loài, gộp lại thành phổ dạng sống tiêu chuẩn (SN). SN = 46 Ph + 9 Ch + 26 Hm + 6 Cr + 13 Th 18 Đây là cơ sở để so sánh phổ dạng sống của thảm thực vật ở các vùng khác nhau trên trái đất. Do đó, khi đã tổng hợp được khối lượng các kiểu sống trong kiểu thảm thực vật, chúng ta có thể tính phần trăm của từng dạng sống trên phổ dạng sống của kiểu đó, tức SB để so sánh với SN. Thông thường, ở các vùng nhiệt đới, trong rừng ẩm thì Ph là 80%, Ch khoảng gần 20%, còn Hm, Cr, Th ít gần như không có. Trái lại trong vùng khô hạn thì Th và Cr có thể có tỷ lệ khá cao, còn Ph thì giảm xuống. 1.2.4.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong công trình nghiên cứu hệ thực vật Bắc Việt Nam, tác giả Pócs Tamás (1965) đã đưa ra công thức phổ dạng sống như sau : SB = 52,21 Ph + 40,68 (Ch, H, Cr) + 7,11 Th [70] Hay đối với một số vườn quốc gia, khu BTTN: + Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Bá Thụ (1997), đã công bố dạng sống của Vườn Quốc gia Cúc Phương như sau: SB = 57,78Ph + 10,46Ch + 12,38Hm + 8,37Cr + 11,01Th [29] + Nguyễn Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô (2003) đã công bố dạng sống của Vườn Quốc gia Bạch Mã như sau: SB = 75,71Ph + 5,78Ch + 4,83Hm + 10,23Cr + 3,45Th [52]. + Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn (2004) đã lập được phổ dạng sống của vườn Quốc gia Pù Mát: SB = 78,88Ph + 4,14Ch + 5,76Hm + 5,97Cr + 5,25Th. [51] + Nguyễn Nghĩa Thìn, Đặng Quyết Chiến (2006) đã lập được phổ dạng sống của khu BTTN Na Hang như sau: SB = 70,14Ph + 4,33Ch + 3,50Hm + 11,98Cr + 10,05Th. [50] + Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2008) đã lập được phổ dạng sống của VQG Hoàng Liên như sau: SB = 79,26Ph + 7,82Ch + 1,43Hm + 5,06Cr + 6,44Th. [49] 1.2.4.3. Ở Vườn quốc gia Bái Tử Long 19 Tính đến thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu thì chưa có một nghiên cứu nào về phổ dạng sống thực vật ở Vườn quốc gia Bái Tử Long, đây cũng là lý do thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài này. 20 Chương 2 MỤC TIÊU - ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI + Kiểm kê thành phần loài của HTV, VQG BTL + Phân tích và đánh giá tính đa dạng của hệ thực vật về các mặt: đa dạng về phân loại, đa dạng về các yếu tố địa lý, về dạng sống, về giá trị tài nguyên và quần xã thực vật. 2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Toàn bộ các loài thực vật bậc cao có mạch thuộc VQG BTL với 3 cụm đảo chính là cụm Ba Mùn, cụm Trà Ngọ, cụm Sậu, chủ yếu thuộc các đảo Ba Mùn, Trà Ngọ Lớn, Trà Ngọ Nhỏ, Sậu Đông, Sậu Nam, với tổng diện tích 15.873 ha (trong đó 6.125 ha đảo và 9.658 ha thềm, biển xen kẽ các đảo), gồm 3 nhóm: Thực vật có bào tử (Khuyết lá thông, Thông đất, Cỏ tháp bút, Dương xỉ), thực vật Hạt trần và thực vật Hạt kín. 2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2.3.1. Xây dựng bảng danh lục thực vật của VQG BTL Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên khoa học cho các loài thực vật và xây dựng danh lục. 2.3.2. Phân tích tính đa dạng thực vật Phân tích tính đa dạng thực vật về các mặt như sau: + Thành phần loài + Dạng sống + Yếu tố địa lý thực vật. + Quần xã thực vật + Giá trị tài nguyên và mức độ bị đe dọa 2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2.4.1. Điều tra theo hệ thống tuyến và ô tiêu chuẩn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan