Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn quản trị tài chính quản lý ngân quỹ tại công ty tnhh thương mại và phát...

Tài liệu Luận văn quản trị tài chính quản lý ngân quỹ tại công ty tnhh thương mại và phát triển công nghệ khai quốc

.DOC
95
192
58

Mô tả:

1 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị LỜI MỞ ĐẦU N gày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp đang phải đương đầu với nhiều thách thức lớn. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững, hoạt động kinh doanh đạt được kết quả như mong muốn thì điều tất yếu là phải đổi mới và tăng cường cách thức tổ chức sản xuất cũng như phương thức quản lý tài chính doanh nghiệp. Quản lý tài chính giúp nắm rõ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp từ đó kết hợp với các yếu tố bên ngoài để đưa ra các kế hoạch đầu tư đúng đắn và mang lại lợi nhuận cao nhất. Ngân quỹ là một bộ phận khá quan trọng trong tài sản giúp đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong mọi trường hợp. Vì vậy, muốn doanh nghiệp hoạt động được liên tục và hiệu quả đòi hỏi phải quản lý ngân quỹ. Nắm được ngân quỹ sẽ giúp doanh nghiệp thiết lập mức ngân quỹ tối thiểu nhằm đảm bảo khả năng chi trả và có những quyết định đầu tư kịp thời. Do đó, hoạt động quản lý tài chính của một doanh nghiệp không thể thiếu hoạt động quản lý ngân quỹ. Qua thời gian thực tập tại phòng kế toán của Công ty, được tiếp cận với các báo cáo tài chính, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn TS.Phan Hữu Nghị và Quý Công ty em đã quyết định chọn đề tài: “Quản lý ngân quỹ tại Công ty TNHH Thương mại và Phát triển Công nghệ Khai Quốc” để nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động quản lý ngân quỹ của Công ty TNHH Thương mại và Phát triển Công nghệ Khai Quốc. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng quản lý ngân quỹ tại Công ty TNHH Thương mại và Phát triển Công nghệ Khai Quốc trong giai đoạn 2007-2009; các số liệu được lấy từ các BCTC của Công ty TNHH Thương mại và Phát triển Công nghệ Khai Quốc. Chuyên đề gồm ba phần chính: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về ngân quỹ của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng quản lý ngân quỹ tại Công ty TNHH thương mại và phát triển công nghệ Khai Quốc Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 2 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ngân quỹ tại Công ty TNHH thương mại và phát triển công nghệ Khai Quốc Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu và tìm hiểu, xong do thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiệm thực tế của em còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề này được hoàn thiện và có tính ứng dụng cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS.Phan Hữu Nghị cùng các cán bộ công nhân viên Công ty Khai Quốc đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 3 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN QUỸ CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Khái quát chung về ngân quỹ 1.1.1 Tài chính doanh nghiệp và quản lý tài chính doanh nghiệp Tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Tài chính nói chung là các hoạt động liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định. Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính, tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời cũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính khác. Tài chính doanh nghiệp là hoạt động liên quan đến việc huy động hình thành nên nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn đó để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu đề ra là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiêp. Qua định nghĩa này có thể thấy tài chính doanh nghiệp liên quan tới ba loại quyết định chính, đó là: - Quyết định đầu tư: là những quyết định liên quan đến tổng giá trị tài sản và giá trị từng loại tài sản (tài sản lưu động và tài sản cố định) cần có và tỷ lệ hợp lý giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp. Ví dụ như: quyết định đầu tư tài sản cố định – mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng…; quyết định đầu tư tái sản lưu động – tồn kho, tồn quỹ… ; hay các quyết định sử dụng đòn bẩy hoạt động, điểm hòa vốn. Đây là quyết định quan trọng nhất trong các quyết định của tài chính doanh nghiệp vì nó mang lại giá trị mới cho doanh nghiệp. Nếu quyết định đúng sẽ làm gia tăng giá trị doanh nghiệp, nếu sai sẽ làm thiệt hại giá trị tài sản của chủ sở hữu. - Quyết định nguồn vốn: là các quyết định lựa chọn nguồn vốn nào để tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp – nên sử dụng vốn ngắn hạn hay dài hạn, sử Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 4 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị dụng nợ hay vốn chủ sở hữu (đòn bẩy tài chính). Ngoài ra, nó còn xem xét tỷ lệ lợi nhuận để lại tái đầu tư và phần để phân chia cổ tức. - Quyết định phân chia cổ tức: là việc quyết định sử dụng bao nhiêu lợi nhuận có được để tái đầu tư, bao nhiêu để chia cổ tức. Ngoài ra, còn phải xem xét xem công ty nên theo đuổi chính sách cổ tức như thế nào, chính sách đấy có ảnh hưởng gì tới giá trị công ty không. Theo một khía cạnh khác, tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Bao gồm: - Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước (nghĩa vụ thuế…) - Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính (huy động vốn…) - Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác (thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động…) - Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp (chính sách cổ tức, đầu tư…) Vì vậy, tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ngày nay với vô vàn các thử thách và cạnh tranh khốc liệt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là quản lý tài chính. Quản lý tài chính là việc sử dụng các thông tin phản ánh chính xác tình trạng tài chính của một doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh, điểm yếu của nó và lập các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, tài sản cố định và nhu cầu nhân công trong tương lai nhằm tối đa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Vì vậy quản lý tài chính đã trở thành một hoạt động quan trọng và mang tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của công ty. Đây là công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì và mở rộng công việc kinh doanh. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 5 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn có những biến động nhất định trong từng thời kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính là xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn sử dụng sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất:  Quản trị tài chính trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu nguồn vốn huy động tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.  Quản trị tài chính phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một cách hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ doanh nghiệp và các cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho người lao động; xác định phần lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn quan trọng cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh mới, sản phẩm mới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.  Quản trị tài chính trong doanh nghiệp còn có nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản trong doanh nghiệp, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích. Có thể nói, nhiệm vụ của bộ phận quản trị tài chính, bộ não của doanh nghiệp, rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với bộ phận kế toán - thống kê. Người đứng đầu bộ phận quan trọng này được gọi là giám đốc tài chính (CFO). Trong các tập đoàn kinh tế đa quốc gia trên thế giới, giám đốc tài chính chịu trách nhiệm toàn bộ về mặt tài chính kế toán trước tổng giám đốc và quản trị tài chính là bộ phận chức năng quan trọng nhất trong các bộ phận chức năng của doanh nghiệp. 1.1.2 Ngân quỹ và vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp 1.1.2.1 Ngân quỹ Ngân quỹ là quỹ tiền của một tổ chức được dựng để chi tiêu phục vụ cho các hoạt động của tổ chức đó. Ngân quỹ của doanh nghiệp được tạo thành từ tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản. Tiền mặt (cash) được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản…và các chi tiêu khác hàng ngày của doanh nghiệp. Các chứng khoán thanh khoản là những khoản đầu tư vào chứng khoán các công ty có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt. Thông thường, chứng khoán thanh khoản có thời gian đáo hạn rất ngắn và là Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 6 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị chứng khoán của các công ty mạnh, dễ dàng buôn bán, trao đổi trên thị trường, có khả năng chuyển thành tiền mặt nhanh và tốn ít chi phí. Ta có thể thấy rằng, các bộ phận tạo nên ngân quỹ - tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản đều là các tài sản không hoặc ít sinh lãi nhưng bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có ngân quỹ và thiết lập mức ngân quỹ tối ưu cho doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý ngân quỹ. Vậy tại sao các công ty lại phải có ngân quỹ? Theo John Maynard Keynes, đú là do ba động cơ sau:  Động cơ giao dịch. Số tiền được nắm giữ nhằm đáp ứng các nhu cầu giao dịch xuất hiện trong hoạt động kinh doanh thường ngày của công ty, đó là việc chi trả các dòng tiền ra bất thường cũng như việc mua các tài sản cố định và hàng tồn kho theo kế hoạch. Số tiền cần thiết để đáp ứng các nhu cầu giao dịch chịu ảnh hưởng của một số nhân tố, ví dụ như lĩnh vực kinh doanh. Một công ty cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mà nhu cầu về nó ổn định sẽ có thể dự đoán tương đối chính xác. Còn công ty cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mà nhu cầu về nó biến động, như phần mềm, các sản phẩm công nghệ thì thường khó dự đoán được.  Động cơ dự phòng. Số tiền dự phòng là những tài sản có tính thanh khoản được dùng làm vùng đệm nhằm duy trì một cơ số tiền nhất định để đáp ứng những nhu cầu có khả năng phát sinh nhưng chưa được xác định cụ thể, đó là những chi tiêu phát sinh khi có những biến cố bất ngờ xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động thu chi bình thường của công ty, chẳng hạn do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ khiến công ty phải chi tiêu nhiều cho việc mua hàng dự trữ trong khi tiền thu bán hàng chưa thu hồi kịp. Từ đây có thể thấy được tính dự đoán được của dòng tiền có thể ảnh hưởng tới số tiền cần nắm giữ của công ty thông qua việc phối hợp cùng lúc các khoản thu chi tiền mặt. Do mọi khả năng khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều có thể xảy ra nên việc dự đoán dòng tiền trở nên khó chính xác, vì vậy mà ngân quỹ thường lớn hơn mức cần thiết. Bên cạnh tính dự đoán được của dòng tiền, động cơ dự phòng của việc giữ tiền bị ảnh hưởng bởi khả năng tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài. Đặc biệt quan trọng phải kể đến những nguồn tiền mặt từ bên ngoài có thể dùng được khi công ty có nhu cầu. Mối quan hệ tốt với ngân hàng và các hạn mức tín dụng được xác định từ trước có thể làm giảm nhu cầu giữ tiền mặt vì động cơ dự phòng. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 7 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị  Động cơ đầu cơ. Tiền mặt có thể được nắm giữ nhằm sẵn sàng nắm bắt cơ hội đầu tư thuận lợi trong kinh doanh như mua nguyên vật liệu dự trữ khi giá thị trường giảm, hoặc khi tỷ giá biến động thuận lợi, hay mua các chứng khoán đầu tư nhằm mục tiêu góp phần gia tăng lợi nhuận của công ty. 1.1.2.2 Quản lý ngân quỹ Quản lý ngân quỹ là quản lý và điều chỉnh mức ngân quỹ của doanh nghiệp qua việc điều tiết các dòng tiền vào và ra. Quản lý ngân quỹ chính là quá trình quản lý thu, chi và đầu tư tiền mặt tạm thời một cách có hiệu quả. Đó là việc thu hồi nợ, kiểm soát chi tiêu, bù đắp ngân sách, dự báo nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp, đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Sau đây là mô hình mô tả hệ thống quản lý ngân quỹ tại một doanh nghiệp: Sơ đồ 1.1: Hệ thống quản lý ngân quỹ Thu tiền Tiền mặt Đầu tư Chứng khoán ngắn hạn Kiểm soát thông qua báo cáo thông tin Chi tiền Qua sơ đồ mô tả hệ thống quản lý ngân quỹ trên, ta thấy nổi bật lên các vấn đề liên quan tới quản lý ngân quỹ bao gồm: quyết định tồn quỹ, quản trị quá trình thu tiền mặt và đầu tư tiền mặt nhàn rỗi nhằm mục tiêu sinh lợi. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua trung gian là “tiền”. Để hoạt động liên tục thì doanh nghiệp phải luôn duy trì một mức ngân quỹ cần thiết. Ngân quỹ có tác động đến cả hai quá trình chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đó là: mua nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Vì vậy quản lý ngân quỹ giữ vị trí quan trọng, có tính chất sống còn với mỗi doanh nghiệp. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 8 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Khi tiến hành hoạt động quản lý ngân quỹ cần quan tâm tới các khoản mục có ảnh hưởng tới dòng tiền vào và dòng tiền ra của doanh nghiệp. Đó là: + Tiền mặt và các khoản tương đương tiền. + Các khoản phải thu: là số tiền khách hàng nợ công ty do mua chịu hàng hóa hoặc dịch vụ. + Hàng tồn kho: chỉ các nguyên liệu sản xuất, hoặc các sản phẩm đang trong quá trình sản xuất – sản phẩm dở dang, hoặc sản phẩm được mua hoặc sản xuất được được công ty giữ lại chờ để bán. + Các khoản phải trả: là các khoản doanh nghiệp chưa thanh toán cho nhà cung ứng và cung cấp dịch vụ hoặc lương của công nhân viên trong công ty mà doanh nghiệp . + Các khoản vay: là các khoản tín dụng của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng, các tổ chức cung cấp vốn nhằm phục vụ nhu cầu vốn cho doanh nghiệp bao gồm cả ngắn và dài hạn. + Các chi phí và thuế tới hạn trả: là các khoản nghĩa vụ của doanh nghiệp với các tổ chức khác, với Nhà nước đã hình thành nhưng chưa được thanh toán. 1.1.2.3 Nội dung quản lý ngân quỹ Ngân quỹ của doanh nghiệp được hình thành từ dòng tiền vào và dòng tiền ra. Vì vậy để hiểu được nội dung quản lý ngân quỹ, chúng ta hãy tìm hiểu về các dòng tiền của doanh nghiệp. Dòng tiền vào của doanh nghiệp (thu ngân quỹ) Lượng tiền mặt của một công ty có thể tăng bất thường từ một số nguồn bên ngoài. Tiền có thể thu được từ thị trường tài chính bằng việc bán các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu…hoặc kí kết các hợp đồng tín dụng với các ngân hàng. Các dòng tiền này không diễn ra liên tục hàng ngày mà xuất hiện đứt quãng, lẻ tẻ. Nó là các khoản tiền lớn, xuất hiện khi ban giám đốc xác định các dự án lớn như: mở rộng thêm nhà máy, tung ra sản phẩm mới… từ đó nảy sinh các thỏa thuận tài trợ từ bên ngoài. Ngoài các dòng tiền vào bất thường từ bên ngoài, doanh nghiệp còn có các dòng tiền vào xuất phát từ những hoạt động nội bộ diễn ra một cách đều đặn. Trong dài hạn, nguồn tiền vào lớn nhất đến từ việc thu hồi các khoản phải thu và ở mức độ thấp hơn là đến từ việc bán hàng thu tiền mặt trực tiếp. Nhiều công ty sản xuất cũng thu tiền mặt Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 9 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị thường xuyên từ việc thanh lý hàng tồn kho hoặc bán phế liệu. Nhiều khi các tài sản cố định cũng được các công ty thanh lý và do vậy tạo ra dòng tiền vào cho công ty. Dòng tiền ra của doanh nghiệp (chi ngân quỹ) Thông thường không phải lúc nào lượng tiền mặt của công ty cũng vừa hết so với nhu cầu chi tiêu hàng ngày. Khi tiền mặt dư thừa và trở nên nhàn rỗi, nó sẽ có thể được đầu tư vào việc mua chứng khoán khả mại. Khi tiền mặt trở nên thiếu hụt, một phần các chứng khoán khả mại sẽ được bán để thu tiền mặt. Bên cạnh đó, dòng tiền ra của doanh ngiệp cũng có thể xuất phát từ những lý do sau. Thứ nhất, tiền mặt được rút ra để trả cổ tức cho cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi; trả lãi cho các khoản vay nợ, các hợp đồng tín dụng với ngân hàng; hoàn trả số gốc vay của chủ nợ; trả lương cho cán bộ công nhân viên; các chi phí quản lý chi phí bán hàng và chi phí thuê ngoài; thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thứ hai, tiền mặt rút ra để đầu tư các tài sản cố định. Thứ ba, tiền mặt được tiêu dùng cho việc mua sắm hàng tồn kho một cách thường xuyên nhằm đảm bảo cho dòng thành phẩm liên tục được tào ra từ dây chuyền sản xuất. Một phần chi phí mua tài sản cố định được tính vào thành phẩm dưới dạng khấu hao, khoản chi phí này sẽ được thu hồi bằng việc bán ra các thành phẩm bởi vì giá bán thành phẩm đã được quy định nhằm thu lại toàn bộ chi phí sản xuất, trong đó có cả chi phí khấu hao. Một mục tiêu trong quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp đó là giảm tốc độ chi tiêu để hạn chế dòng tiền ra. Hạn chế ở đây không có nghĩa là không chi tiêu hay đầu tư, mà đó là cách trì hoãn thanh toán tới các đối tượng cung cấp của doanh nghiệp nhằm tăng thời gian nắm giữ tiền của doanh nghiệp, lợi dụng các khoản tín dụng thương mại để tăng lượng tiền tranh thủ đầu tư kiếm lợi nhuận. Đó là việc thay vì dựng tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng, nhà quản trị tài chính nên trì hoãn việc thanh toán, nhưng chỉ trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự xói mòn vị thế tín dụng thấp hơn những lợi nhuận do việc chậm thanh toán đem lại. Hai chiến thuật nổi tiếng thường được sử dụng là tận dụng sự chênh lệch thời gian của các khoản thu, chi và chậm trả lương. Sau khi xác định được các dòng tiền vào, ra tạo thành ngân quỹ của doanh nghiệp thì để quản lý ngân quỹ được hiệu quả cần phải dự toán nhu cầu ngân quỹ của doanh nghiệp. Việc dự toán dòng tiền được thực hiện bằng cách đánh giá các dữ liệu tài chính do bộ phận sản xuất và tiếp thị của công ty cung cấp. Đó là việc dự báo dòng tiền vào Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 10 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị và ra của doanh nghiệp trong một thời kì để lập ngân sách tiền mặt. Nếu dự toán được chính xác nhu cầu tiền mặt thì chúng ta sẽ giới hạn được tối đa nhu cầu vốn phải vay mượn do đó giảm chi phí tiền lãi tới mức tối thiểu – làm giảm đầu tư vào tiền mặt. Trước hết, chúng ta cần phải dự toán được dòng tiền vào của doanh nghiệp. Đó là dòng tiền sinh ra từ doanh thu bán hàng được dự toán từ các báo cáo cáo tài chính. Doanh thu thường trở thành các khoản phải thu trước khi trở thành tiền. Mỗi khách hàng, tùy vào quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp mà có thời gian trả nợ khác nhau. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp đều xác định thời gian trung bình để thu tiền về từ các khách hàng của mình. Từ đó, doanh nghiệp có thể dự đoán được lượng doanh thu sẽ chuyển thành tiền trong quý và bao nhiêu sẽ được chuyển thành tiền ở quý sau. Ta có công thức xác định cá khoản phải thu của khách hàng trong từng quý như sau: Các khoản phải thu cuối quý = Các khoản phải thu đầu quý + Doanh thu trong quý - Tiền bán hàng đã thu được trong quý Sau khi dự toán được dòng tiền vào ta tiếp tục dự toán các khoản chi ra của doanh nghiệp. Nội dung của những khoản chi tiêu – dòng tiền ra của doanh nghiệp bao gồm các khoản chi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, trả nợ vay, trả tiền vay, trả cổ tức, mua sắm tài sản cố định, đóng thuế và các khoản phải trả khác đã được trình bày ở trên. Từ đó, doanh ngiệp có thể dự đoán được nhu cầu tiền của mình. Qua đó nhà quản lý sẽ nắm được ngân quỹ dự toán sẽ thặng dư hay thâm hụt so với mức tồn quỹ tối ưu để ra quyết định. Việc dự đoán nhu cầu ngân quỹ trong doanh nghiệp hầu như chỉ dựa trên số liệu quá khứ, ít nhiều còn có những yếu tố không chắc chắn và mang tính dự báo nên có thể chênh lệch khá lớn so với thực tế khi một số yếu tố thực thay đổi so với quá khứ. Việc dự đoán hoàn toàn chính xác dòng tiền chỉ là một trường hợp lý tưởng không diễn ra trong thực tế. Tuy vậy, nó cũng giúp cho các nhà quản lý chủ động bố trí và sắp xếp các khoản thu chi trong từng thời kì hoạt động. Sau khi đã dự toán nhu cầu ngân quỹ, để có thể tính toán được mức tồn quỹ tối ưu ta phải lựa chọn các mô hình phù hợp. Mức tồn quỹ tối ưu là mức tồn quỹ mà công ty hoạch định lưu giữ dưới dạng tiền mặt (bao gồm tiền và các chứng khoán ngắn hạn). Quyết định mức tồn quỹ tối ưu tức là quyết định xem công ty sẽ thiết lập và duy trì bao nhiêu tiền mặt là hợp lý. Đây là nội dung chủ yếu của quá trình quản lý ngân quỹ. Khi Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 11 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị ra quyết định tồn quỹ tối ưu phải quan tâm tới mối quan hệ giữa chi phí cơ hội do nắm giữ nhiều tiền mặt và chi phí chuyển đổi khi nắm giữ quá ít tiền.  Chi phí cơ hội là chi phí mất đi do giữ tiền mặt, khiến cho tiền không được đầu tư vào các cơ hội sinh lời.  Chi phí giao dịch là chi phí liên quan đến chuyển đổi từ tài sản đầu tư thành tiền mặt sẵn sàng cho chi tiêu. Nếu công ty giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí cơ hội sẽ cao nhưng chi phí giao dịch nhỏ và ngược lại. Tổng chi phí giữ tiền mặt chính là chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Để ra quyết định tồn quỹ tối ưu, người ta thường sử dụng hai mô hình: Baumol và Miller-orr. *) Mô hình Baumol William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quyết định kết hợp giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thiết lập tồn quỹ tối ưu. Mô hình này được ứng dụng nhằm thiết lập tồn quỹ mục tiêu. Giả sử công ty K bắt đầu tuần lễ 0 với tồn quỹ là C và chi vượt quá số thu là C/2 một tuần. Như vậy tồn quỹ công ty sẽ bằng 0 sau 2 tuần lễ và tồn quỹ trung bình trong thời gian 2 tuần sẽ là C/2. Vậy đến cuối tuần lễ thứ 2 công ty K sẽ phải bán một số tài sản ngắn hạn như chứng khoán ngắn hạn hoặc vay ngân hàng để bù đắp lượng tiền mặt đã chi tiêu. Sơ đồ 1.2: Tình hình tồn quỹ của doanh nghiệp theo mô hình Baumol Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 12 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Tiền mặt đầu kì C Tiền mặt bình quân C/2 Tiền mặt cuối kì C=0 Tuần 0 1 2 3 4 Tồn quỹ tiền mặt bình quân=(tồn quỹ tiền mặt đầu kì + tồn quỹ tiền mặt cuối kì)/2 = = Số lần bán chứng khoán ngắn hạn để bù đắp lượng tiền đã chi tiêu = Vậy chi phí giao dịch = F Ta có, tổng chi phí = chi phí cơ hội + chi phí giao dịch TC = K + F Trong đó:  C : mức dự trữ tiền mặt  K : chi phí cơ hội của việc giữ tiền mặt  T : tổng cầu về tiền mặt trong năm  F : định phí cho mỗi lần bổ sung tiền mặt Tồn quỹ tiền mặt tối ưu khi TC tối thiểu, tức là : =0 Có : TC = = K+ F – =0 Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 13 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị C* là lượng tiền mặt dự trữ làm cực tiểu tổng chi phí C*= Khi ứng dụng mô hình này, công ty phải:  Ước lượng tổng số tiền mặt cần bù đắp mỗi năm  Ước lượng chi phí giao dịch khi bán chứng khoán ngắn hạn  Ước lượng lãi suất ngắn hạn để xác định chi phí cơ hội Ngoài ra, mô hình Baumol chỉ ứng dụng được khi có thị trường tiền tệ sẵn sàng cung cấp chứng khoán ngắn hạn và giải quyết thanh khoản khi cần thiết. Mĩ hình Baumol được xây dựng dựa trên những giả định:  Công ty áp dụng tỷ lệ bù đắp tiền mặt không đổi  Không có số thu tiền mặt trong kì hoạch định  Không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn  Dòng tiền tệ rời rạc chứ không phải liên tục Những giả định này không đúng trên thực tế, nhưng dù sao mô hình này cũng có sự đóng góp quan trọng trong lý thuyết quản trị tiền mặt. Sau đây sẽ xem xét mô hình Miller-Orr, trong mô hình này một số hạn chế của mô hình Baumol sẽ được khắc phục. *) Mô hình Miller-orr Khác với Baumol, Merton Miller và Daniel Orr phát triển mô hình tồn quỹ với dòng tiền vào (inflows) và dòng tiền ra (outflows) với biến động ngẫu nhiên hằng ngày. Giả định: lượng tiền mặt ở tại công ty bằng dòng tiền vào trừ dòng tiền ra. Lượng tiền mặt này có thể ở mức kỳ vọng (tối ưu nhất), mức cao nhất hoặc mức thấp nhất. Ta sẽ giả định dòng tiền ròng bằng 0, tức là dòng tiền vào đủ bù đắp dòng tiền ra. Sơ đồ 1.3: Mô hình Miller-orr Có ba khái niệm cần chú ý trong mô hình này: Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 14 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị  Giới hạn trên (H): tồn quỹ tiền mặt tối đa – thiết lập dựa trên cơ sở sao cho chi phí cơ hội giữ tiền thấp nhất.  Giới hạn dưới (L): tồn quỹ tiền mặt tối thiểu – thiết lập dựa trên cơ sở chi phí tài chính và giảm thiểu rủi ro thiếu tiền mặt chi tiêu.  Tồn quỹ mục tiêu (Z): tồn quỹ tiền mặt tối ưu Khi tồn quỹ biến động trong mức giữa giới hạn trên và giới hạn dưới thì công ty không cần thiết phải thực hiện các giao dịch mua hay bán chứng khoán ngắn hạn. Khi tồn quỹ đụng giới hạn trên (tại X) thì công ty sẽ mua ( H - Z ) đồng chứng khoán ngắn hạn để giảm tồn quỹ trở về X. Ngược lại khi tồn quỹ giảm đụng giới hạn dưới (tại Y) công ti sẽ bán ( Z – L ) đồng chứng khoán ngắn hạn để gia tăng tồn quỹ lên đến Z. Cũng giống như mô hình Baumol, mô hình Miller – Orr xác định tồn quỹ dựa vào chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Trong đó chi phí giao dịch (F) liên quan đến việc mua bán chứng khoán ngắn hạn để chuyển đổi từ tài sản đầu tư cho mục đích sinh lợi ra tiền mặt. Chi phí cơ hội do giữ tiền mặt (K), bằng lãi suất ngắn ngắn hạn. Khác với mô hình Baumol, trong mô hình Miller – Orr , số lần giao dịch của mỗi thời kỳ là số ngẫu nhiên thay đổi tùy thuộc vào sự biến động của dòng tiền vào và dòng tiền ra. Kết quả là chi phí giao dịch phụ thuộc vào số lần giao dịch chứng khoán ngắn hạn kỳ vọng còn chi phí cơ hội phụ thuộc vào tồn quỹ kỳ vọng. Ta có các công thức sau:  Tồn quỹ tiền mặt mục tiêu (Z) Z*= +L  Tồn quỹ tiền mặt tối đa (H) H*=3Z* - 2L  Tồn quỹ tiền mặt trung bình (C) C = Trong đó:  Dấu * chỉ giá trị tối ưu,  là phương sai của lượng tiền tồn quỹ hàng ngày. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 15 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị  F là chi phí giao dịch  K là chi phí cơ hội  L là tồn quỹ thấp nhất  được xác định bằng cách thu thập dữ liệu quá khứ về chênh lệch giữ dòng tiền vào và dòng tiền ra hàng ngày qua một thời kỳ như một quý hay một tháng. Qua mô hình Miller-Orr ta có thể rút ra những kết luận sau:  Số dư tiền mặt tối ưu tỷ lệ thuận với F và tỷ lệ nghịch với K. Điều này phù hợp với mô hình Baumol.  Tồn quỹ tiền mặt tối ưu và tồn quỹ tiền mặt trung bình tỷ lệ thuận với phương sai dòng ngân lưu. Vì vậy, công ty nào có dòng ngân lưu bất thường thường duy trì tồn quỹ tiền mặt trung bình lớn.  Bên cạnh việc quản lý tiền mặt, các mô hình kiểm soát tiền mặt rất cần thiết cho việc ra quyết định. Mô hình Miller – Orr có thể được ứng dụng để thiết lập tồn quỹ tối ưu. Tuy nhiên, để sử dụng mô hình này giám đốc tài chính cần làm 4 việc:  Thiết lập giới hạn dưới cho tồn quỹ. Giới hạn này liên quan đến mức độ an toàn chi tiêu do ban quản lý quyết định.  Ước lượng độ lệch chuẩn của dòng tiền mặt thu chi hàng ngày qua bảng thống kê  Ước lượng chi phí giao dịch liên quan đến việc mua bán chứng khoán ngắn hạn  Xem xét mức lãi suất để xác định chi phí cơ hội. Thật ra thay vì bán chứng khoán ngắn hạn để bù đắp lại số tiền mặt đã chi tiêu công ty có thể vay ngân hàng. Khi quyết định bán chứng khoán hay vay ngân hàng, doanh nghiệp nên để ý tới các vấn đề sau:  Vay ngân hàng thường đắt hơn là bán chứng khoán vì lói suất vay ngân hàng thường cao hơn chi phí giao dịch. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 16 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị  Sự biến động tiền mặt càng lớn trong khi cơ hội đầu tư chứng khoán ngắn hạn không nhiều khiến nhu cầu vay càng tăng.  Đối với công ty lớn, chi phí cơ hội giữ tiền mặt lớn hơn so với chi phí giao dịch chứng khoán ngắn hạn.  Nhu cầu vay ngân hàng phụ thuộc vào ý muốn giữ tiền mặt ở mức thấp của ban quản lý. Trên đây là toàn bộ nội dung của công tác quản lý ngân quỹ mà một nhà quản lý tài chính phải thực hiện khi muốn lập kế hoạch quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp mình. Khi tiến hành công tác quản lý ngân quỹ, nhà quản lý luôn luôn kì vọng doanh nghiệp sẽ được đảm bảo khả năng thanh toán tại mọi thời điểm với những chi phí nhất định, thấp nhất có thể mà doanh nghiệp phải bỏ ra và không để tiền nhàn rỗi quá nhiều. Để đánh giá được kết quả đạt được từ quản lý ngân quỹ có tương xứng với những chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động này hay không thì nhà quản lý tài chính phải xem xét tới các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ. 1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm hiệu quả quản lý ngân quỹ Hiệu quả quản lý ngân quỹ thể hiện kết quả của quá trình quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp đạt đã được mục tiêu ngân quỹ đề ra, có nghĩa là lượng ngân quỹ của doanh nghiệp ở mức hợp lý phù hợp với nhu cầu, đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp đó và phù hợp với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra. Nó bao gồm các chỉ tiêu giúp nhà quản lý đánh giá được mức độ thành công của quá trình quản lý ngân quỹ và giúp cho các đối tác và khách hàng của doanh nghiệp biết được phần nào về tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Khi quản lý ngân quỹ hiệu quả tức là việc dự trữ tiền hợp lý, ta dễ dàng nhận thấy có được những ưu điểm sau: + Đối với một số ngành như dịch vụ việc lập hóa đơn được lập theo khối lượng dịch vụ đáp ứng, do đó tiền mặt thu vào được phối hợp chặt chẽ với nhu cầu tiền mặt. Do đó, tỉ số tiền mặt trên tổng doanh thu và tỉ số tiền mặt trên tổng tài sản của các doanh nghiệp dịch vụ là tương đối thấp. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 17 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị + Đối với các doanh nghiệp bán lẻ và sản xuất, một số lớn hoạt động đòi hỏi phải có tiền mặt để mua hàng hóa dự trữ. Do đó ngành này đòi hỏi một tỷ số tiền mặt trên tổng doanh thu và tỉ số tiền mặt trên tổng tài sản khá cao. + Các doanh nghiệp hoạt động bị ảnh hưởng bởi tính mùa vụ cao thì cần nhiều tiền để thu mua nguyên liệu hoặc hàng tồn kho. Đảm bảo khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian hoạt động còn lại trong năm. Các điểm lợi đặc biệt: Thứ nhất, doanh nghiệp phải có dự trữ tiền mặt vừa đủ để chiết khấu trên mua hàng trả trước kỳ hạn. VD: DN được hưởng chiết khấu thanh toán 2% trên giá mua hàng nếu hóa đơn được thanh toán trong vòng 10 ngày và thời hạn mua chịu tối đa là 30 ngày.Việc không nhận chiết khấu có ý nghĩa như là DN phải chi thêm 2% cho việc mua hàng, vì muốn sử dụng tiền mua đó thêm 20 ngày, như vậy một năm sẽ phải có 18 kỳ, như vậy lãi suất tương ứng trong năm là 36% năm. DN hoàn toàn có thể vay tiền với lãi suất thấp hơn 36% một năm. Thứ hai, lượng tiền mặt dự trữ cao tạo nên tỉ số trả nợ nhanh cao, DN cần phải có tỉ số phù hợp với tiêu chuẩn chung của ngành, điều này tạo uy tính của DN đối với đối tác. DN có thể dễ dàng vay mượn ở các ngân hàng hay cơ quan tín dụng. Thứ ba, có tiền mặt rộng rãi, doanh nghiệp có thể lợi dụng ngay các cơ hội tốt về kinh doanh. Sau cùng doanh nghiệp cần có lượng tiền mặt nhằm đủ khả năng đáp ứng trong các trường hợp bất ngờ như hỏa hoạn, cạnh tranh về quảng cáo với các doanh nghiệp khác. Qua đây ta có thể thấy, mục tiêu xuyên suốt của quá trình quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp là nâng cao khả năng thanh toán, giảm thiểu rủi ro thanh khoản từ đó tăng uy tín của doanh nghiệp với đối tác, khách hàng và các nhà đầu tư. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp 1.2.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng chi trả của doanh nghiệp  Khả năng thanh toán tức thời Tiền mặt Tỷ số thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 18 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Trong đó: Nợ ngắn hạn = nợ ngắn hạn + các khoản nợ dài hạn đến hạn trả Tỷ số thanh toán tức thời đo lường khả năng thanh toán ngay bằng tiền cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.  Khả năng thanh toán nhanh (Quick ratio) Tỷ số thanh toán nhanh = Tiền mặt + Đầu tư TC ngắn hạn + Phải thu Nợ ngắn hạn Tỷ số thanh toán nhanh được tính bằng cách lấy tổng các tài sản có tính thanh khoản cao nhất chia cho tổng nợ ngắn hạn. Hệ số này nói lên tình trạng tài chín ngắn hạn của một công ty có lành mạnh không. Nếu một công ty có hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1, nó sẽ không đủ khả năng thanh to ngay lập tức toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn và, cần phải rất cẩn trọng khi đầu vào những công ty như vậy. Phân tích sâu hơn nữa, nếu hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn hệ số thanh toán tức thời rất nhiều chứng tỏ tài sản ngắn hạn phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho, đây là một ví dụ của các công ty bán lẻ. Trong trường hợp này tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn là tương đối thấp. Ngoài ra cần phải so sánh hệ số thanh toán nhanh của năm nay so với năm trước để nhận diện xu hướng biến động, so sánh với hệ số của doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá tương quan cạnh tranh.  Khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio) Tài sản lưu động Tỷ số thanh khoản hiện hành = Nợ ngắn hạn Tỷ số thanh khoản hiện thời được tính ra bằng cách lấy giá trị tài sản lưu độn trong một thời kỳ nhất định chia cho giá trị nợ ngắn hạn phải trả cùng kỳ Tỷ số thanh khoản hiện thời cho biết cứ mỗi đồng nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp đang giữ, thì doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể sử dụng để thanh toán. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 Chuyên đề tốt nghiệp 19 GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp không đủ tài sản có thể sử dụng ngay để thanh toán khoản nợ ngắn hạn sắp đáo hạn Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có hiệu quả không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không. Nếu công ty gặp phải rắc rối trong vấn đề đòi các khoản phải thu hoặc thời gian thu hồi tiền mặt kéo dài, thì công ty rất dễ gặp phải rắc rối về khả năng thanh khoản hay tính lỏ Khi đánh giá tình hình thanh khoản của doanh nghiệp, người phân tích thường so sánh tỷ số thanh khoản của một doanh nghiệp với tỷ số thanh khoản bình quân của toàn ngành mà doanh nghiệp đó tham gia.  Vốn lưu động ròng (NWC) và nhu cầu vốn lưu động ròng Vốn lưu động ròng = Tài sản ngắn hạn - Nguồn vốn ngắn hạn (NWC) = Nguồn vốn dài hạn - Tài sản dài hạn. (*) +) (*) dương, nguồn vốn dài hạn ngoài tài trợ cho tài sản dài hạn còn tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Lúc này chi phí tài chính của doanh nghiệp sẽ cao, nhưng an toàn. +) (*)=0, nguồn vốn dài hạn sẽ đủ tài trợ cho tài sản dài hạn. Khả năng xảy ra thiếu rất dễ xảy ra. +) (*) âm, nguồn vốn dài hạn không đủ tài trợ cho tài sản dài hạn. DN đi vay dài hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Tuy nhiên, tùy loại hình doanh nghiệp mà các nhà quản lý tài chính sẽ linh hoạt để vừa có NWC hợp lý vừa không để tình hình tài chính mất ổn định. Trong một số trường hợp có thể dựng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Lúc này chi phí tài chính thấp, nhưng khả năng mất cân đồi tài chính rất lớn. Giống như ngân hàng lấy nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, rất dễ dẫn đến tình trạng mất thanh khoản. Nhu cầu vốn lưu động ròng chính là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một số khoản mục không phải là tiền của vốn lưu động, đó là tồn kho và các khoản phải thu. Ta có: Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho + Phải thu - Nợ ngắn hạn Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48 20 Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Phan Hữu Nghị Nhu cầu vốn lưu động ròng cho thấy tình hình đảm bảo nguồn vốn của doanh nghiệp từ đó cho thấy tình trạng cân đối hoặc mất cân đối giữa vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. NWC thường lớn hơn hoặc bằng nhu cầu vốn lưu động vì NWC ngoài đảm bảo nhu cầu vốn lưu động còn đảm bảo khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.  Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng = Giá trị hàng dự trữ (tồn kho) Vốn lưu động ròng Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó được tính bằng cách chí dự trữ (tồn kho) cho vốn lưu động ròng. Chỉ tiêu này liên quan tới cơ cấu vốn, cơ cấu tài trợ cũng như cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động có liên quan đến hiệu quả quản lý ngân quỹ.  Vòng quay tiền Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng); nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay tiền = Doanh thu Tiền bình quân  Vòng quay khoản phải thu Vòng quay khoản phải thu được tính bằng cách lấy doanh thu thuần (doanh thu không bằng tiền mặ ) chia cho trung bình cộ đầu kỳ và cuối kỳ của giá trị các khoản phải thu. Sở dĩ phải sử dụng số liệu bình quân là vì doanh thu là chỉ tiêu thu nhập từ báo cáo kết quả kinh doanh, phản ánh số liệu thời kỳ trong khi giá trị khoản phải thu thu thập từ số liệu của bảng cân đối kế toán, phản ánh số liệu thời điểm. Nguyễn Hồng Nhung Tài chính doanh nghiệp Pháp 48
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan