Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý ứng dụng cntt đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các...

Tài liệu Luận văn quản lý ứng dụng cntt đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các trường tiểu học quận ngô quyền, thành phố hải phòng

.PDF
108
468
67

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn để tài Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, và cho đến nay, khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, tin học và công nghệ thông tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Để biểu đạt bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại người ta đã nói đến một thời đại tin học với sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến mức chóng mặt. Đó chính là nền tảng khoa học - công nghệ của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo. Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng. Trong bối cảnh ấy, kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và trở nên rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến…Cho đến hôm nay việc tìm kiếm thông tin, kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc sách, báo giấy trước đây và đặc biệt, học trực tuyến đang trở thành hình thức mới và phổ biến tại Việt Nam bởi tính chủ động về mặt thời gian và phong phú về hình thức học tập, giúp người học tự học, tự nghiên cứu và nắm được kiến thức kỹ năng khá tốt. Để hội nhập thế giới và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng trường học điện tử trở thành một nhiệm vụ cấp thiết và được xếp vào một trong những lĩnh vực ưu tiên, một mũi nhọn đột phá 1 trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ - giáo dục trong thời đại ngày nay. Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu rõ: “Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập”. Trường học điện tử tạo ra hệ thống tin học hóa quản lý nhà trường, phục vụ trực tiếp công tác điều hành của Ủy ban nhân dân quận, các cấp quản lý giáo dục, cán bộ, giáo viên, HS và phụ huynh HS tham gia vào các hoạt động quản lý, giảng dạy, học tập và giáo dục của nhà trường, từ đó nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng nghề nghiệp, giảm thời gian đầu tư, tăng năng suất lao động của giáo viên; hỗ trợ đắc lực cho việc học tập của HS đảm bảo nhu cầu học mọi lúc mọi nơi, giáo dục ý thức và hình thành nhu cầu tự tiếp cận và lĩnh hội thông tin thông qua hệ thống của nhà trường; tạo điều kiện thuận lợi cho phụ huynh HS cùng tham gia vào hoạt động giáo dục một cách chủ động và đạt hiệu quả nhất. Thời gian qua, xây dựng trường học điện tử ở các trường Tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo yêu cầu xây dựng trường học điện tử đang đưa vào thí điểm tại một số trường và đã đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập về phương tiện hiện đại và chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới về CNTT; kỹ thuật quản lý trên hệ thống trường học điện tử với năng lực của người cán bộ quản lý,.... Với những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học tập nghiên cứu và thực tiễn công tác chúng tôi chọn đề tài: "Quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng" với mong muốn được góp phần của mình nâng cao chất lượng giáo dục trong trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng về ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Quản lý ứng dụng CNTT của Hiệu trưởng các trường tiểu học đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử. 3.2 Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử của Hiệu trưởng trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng 4. Giả thuyết khoa học Biện pháp quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử của Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã có những ưu điểm nhất định nhưng cũng còn có những hạn chế. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT như: xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin đủ mạnh, bồi dưỡng thường xuyên năng lực ứng dụng CNTT cho cán bộ giáo viên, ban hành những quy định để thể chế hóa việc ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý nhà trường, hỗ trợ, động viên, khích lệ việc ứng dụng CNTT... nhằm xây dựng thành công mô hình trường học điện tử, từ đó góp phần nâng cao được chất lượng giáo dục cho bậc tiểu học ở quận Ngô Quyền. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử của Hiệu trưởng các trường tiểu học 5.2 Phát hiện, phân tích thực trạng quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử của Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng 5.3 Đề xuất các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử của Hiệu trưởng các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng 6. Giới hạn và phạm vi nghiên của đề tài Do điều kiện có hạn nên đề tài được nghiên cứu trong giới hạn vi sau: Đề tài chỉ tập trung vào việc nghiên cứu biện pháp quản lý ứng dụng CNTT của các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. 3 Điều tra, khảo sát 6 trường tiểu học công lập ở quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đang xây dựng thí điểm mô hình trường học điện tử. - Nghiên cứu mỗi trường 30 giáo viên và 3 cán bộ quản lý theo yêu cầu xây dựng trường học điện tử. Xin ý kiến 3 cán bộ của Phòng Giáo dục – Đào tạo quận Ngô Quyền: 03 Tổng mẫu: giáo viên là 180 21 cán bộ quản lý - Thời gian khảo sát và số liệu thu thập từ năm 2014 đến năm 2017 7. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa…để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1 Phương pháp điều tra Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến của các đối tượng bằng các An-két mở và đóng. 7.2.2 Phương pháp quan sát: Bằng dự giờ quan sát hoạt động của HS, giáo viên, các hạt động chung của nhà trường. 7.2.3 Phương pháp trò chuyện: Nhằm bổ sung thêm số liệu 7.2.4 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Bước đầu dựa trên kinh nghiệm của các trường tiểu học trong địa bàn quận 7.2.5 Phương pháp chuyên gia: Nhằm khảo nghiệm những kết luận khoa học được rút ra đặc biệt là các biện pháp 7.2.6 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm giáo dục: Nghiên cứu trên các giáo án, sổ đầu bài… 7.3 Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý các số liệu và kết quả nghiên cứu. 8. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, luận văn gồm 03 chương sau: 4 Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các trường tiểu học. Chương 2: Thực trạng quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử ở các trường tiểu học quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. 5 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC ĐIỆN TỬ Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài Trên thế giới, các nước có nền giáo dục phát triển đều chú trọng đến ứng dụng CNTT như: Australia, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Mỹ... Họ ứng dụng CNTT vào khoa học công nghệ và giáo dục, coi đây là vấn đề then chốt của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, là chìa khoá để xây dựng và phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng trưởng nền kinh tế để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, hội nhập với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Các nước trên đã rất quan tâm đầu tư, quản lí việc ứng dụng CNTT. Ví dụ như: Ở Mỹ và một số nước châu Âu thì những nghiên cứu về quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục được thực hiện từ sớm nên dạy và học điện tử đã nhận được sự ủng hộ và trợ giúp của Chính phủ ngay từ cuối thập niên 90. Ở nước Anh: Từ cấp trung học các trường trung bình được đầu tư khoảng 198 máy tính PC và 53 máy tính xách tay/trường, tỉ lệ nối mạng ở tiểu học là 96%, trung học là 99,8%. CNTT được ứng dụng trong tất cả các môn học chứ không phải là một môn riêng biệt; không dạy HS phổ thông lập trình phần mềm, đây là công việc của các chuyên gia hoặc các trường trung học chuyên nghiệp. Máy chiếu có ở mọi phòng học, các trường phổ thông kể cả tiểu học đều có phòng đa phương tiện (multimedia) [34]. Hàn Quốc đã xác định rõ: Mục tiêu chiến lược của chính sách đẩy mạnh tin học hóa ở Hàn Quốc là xây dựng một xã hội thông tin phát triển vào năm 2000. Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ Hàn Quốc thành lập “Quỹ thúc đẩy CNTT” do Bộ Thông tin và Truyền thông quản lí. Tương ứng, có hai cơ quan 6 chỉ đạo và điều phối: Ban thúc đẩy tin học hóa và Ban đặc biệt về chính phủ điện tử thuộc ban đổi mới chính phủ của Tổng Thống. [34] Singapore: Bộ Giáo dục Singapore đã khởi động kế hoạch tổng thể về Công nghệ thông tin trong giáo dục (Master Plan for IT in Education) từ năm 1997. Với chương trình này, mọi trẻ em của Singapore được đảm bảo cơ hội tiếp cận với môi trường học đường mang đậm màu sắc CNTT. Một Ủy ban máy tính quốc gia đã ra đời để quản lí và chỉ đạo công tác đó. Tháng 7/ 2002, Bộ giáo dục Singapore đã công bố Kế hoạch tổng thể CNTT 2 nhằm kế thừa và phát huy những thành công của Kế hoạch 1 và tiếp tục đưa ra những định hướng chung cho các trường trong việc tận dụng những cơ hội CNTT đem lại để phục vụ giảng dạy và học tập. [34] Nhờ những bước đầu tư và quản lí đúng đắn về phát triển CNTT mà những quốc gia nói trên đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục trong những thập kỉ qua. 1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam đã có Chương trình quốc gia về CNTT (1996 - 2000) và Đề án thực hiện về CNTT tại các cơ quan Đảng (2003-2005) ban hành kèm theo Quyết định 47 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rất quan tâm đến ứng dụng CNTT trong các nhà trường thông qua Chỉ thị nhiệm vụ các năm học đặc biệt từ năm học 2008-2009 được chọn là năm học với chủ đề: “Năm học ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới quản lý tài chính”... những năm học tiếp theo Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn tiếp tục chỉ đạo: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục, thống nhất quản lý nhà nước về ứng dụng CNTT trong Giáo dục - Đào tạo...” Trong những năm qua việc ứng dụng CNTT trong quản lý và tổ chức hoạt động dạy học đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các hội nghị, hội thảo khoa học nghiên cứu về CNTT đã đề cập nhiều đến vấn đề quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục và khả năng áp dụng vào môi trường Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam như: 7 Hội thảo khoa học với chủ đề “Nghiên cứu và triển khai E-learning” do Viện Công nghệ Thông tin (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức tiến hành vào đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về ứng dụng CNTT trong hệ thống giáo dục đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Hội thảo khoa học toàn quốc về CNTT& Truyền thông với chủ đề “Các giải pháp công nghệ và quản lý trong ứng dụng CNTT và truyền thông vào đổi mới phương pháp dạy học” Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phối hợp với Dự án Giáo dục đại học tổ chức từ 9-10/12/2006 tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Một số tác giả như Nguyễn Hữu Chí [12], Đỗ Trung Tá [31],… đã đánh giá xu thế phát triển của giáo dục thế giới, cũng như của Việt Nam, đồng thời phân tích những ưu thế của CNTT mang lại để từ đó khẳng định ứng dụng CNTT trong dạy học là cần thiết và là xu thế tất yếu của nhà trường Việt Nam. Các tác giả như Phó Đức Hòa [17], Nguyễn Văn Hiền [15],… đã nghiên cứu và đưa ra những yêu cầu đối với GV về ứng dụng CNTT nói chung và kỹ năng ứng dụng CNTT trong dạy học nói riêng. Có một số luận văn thạc sỹ khoa học nghiên cứu về quản lý việc ứng dụng CNTT trong dạy học ở tiểu học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có một số tác giả sau: Tác giả Nguyễn Giang Thanh với đề tài “Quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học ở các trường tiểu học quận Đồ Sơn - Thành phố Hải Phòng’ được thực hiện năm 2013, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 6 trường tiểu học của quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng với 162 giáo viên tiểu học đã cho kết quả: Đa số các hiệu trưởng và GV có nhận thức đúng đắn về tính cần thiết phải ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn có GV nhận thức chưa cao về vấn đề này. Đội ngũ GV tiểu học có trình độ chuyên môn tương đối cao. Tuy nhiên, trình độ ứng dụng CNTT trong dạy học của của đội ngũ GV còn hạn chế. Đội ngũ GV hàng ngày lên lớp đã trực tiếp quyết định sự thành công 8 của việc ứng dụng CNTT trong dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Đồng thời luận văn cũng đã đề xuất được 5 biện pháp để quản lý hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học ở các trường tiểu học quận Đồ Sơn - Thành phố Hải Phòng. [35]. Tác giả Phạm Văn Tỉnh với đề tài luận văn thạc sĩ ngành Quản lí giáo dục “Biện pháp quản lí hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường tiểu học tỉnh Ninh Bình”, luận văn đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận liên quan đến quản lí hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường tiểu học, đồng thời với việc sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với số lượng khách thể là 80 cán bộ quản lý, 320 giáo viên CBQL, giáo viên cho thấy nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên đã nhận thức đúng đắn về sự cần thiết ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học, bước đầu việc ứng dụng CNTT có hiệu quả. Qua khảo sát, đánh giá thực trạng để khắc phục những mặt yếu, những khó khăn đồng thời phát huy những thế mạnh, những thuận lợi, tác giả đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học ở Tiểu học góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT của tỉnh hiện nay. Qua đó luận văn cũng đã đề xuất được 6 biện pháp, khảo nghiệm được tính cần thiết và tính khả thi của 6 biện pháp. [37 ]. 1.2. Quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học 1.2.1. Quản lý Theo từ điển giáo dục học, quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Theo hai tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc và đã đưa ra định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. [9]. 9 Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng quản lý: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra; Quản lý là quá trình thực hiện các công việc xây dựng kế hoạch hành động (bao gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế hóa), sắp xếp tổ chức (bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc, điều phối nguồn lực tài chính và kĩ thuật…), chỉ đạo, điều hành, kiểm soát và đánh giá kết quả, sửa chữa sai sót (nếu có) để bảo đảm hoàn thành mục tiêu của tổ chức đã đề ra. Bản chất của quản lý là sự phối hợp các thành tố trong tổ chức nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra và sự phối hợp này mang dấu ấn chủ quan của chủ thể quản lý (nói cách khác là nó phụ thuộc vào ý tưởng, năng lực, nhân cách… của chủ thể quản lý), vì việc đạt được sự hài hoà của những nỗ lực cá nhân hướng tới hoàn thành các mục tiêu của tổ chức chính là mục đích của quản lý. Từ những quan niệm trên ta có thể hiểu: Quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý một cách gián tiếp và trực tiếp nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Từ đó có thể rút ra một số dấu hiệu bản chất của quản lý như sau: + Quản lý là hoạt động bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội loài người, nó có vai trò điều khiển quá trình hoạt động lao động và là phạm trù tồn tại khách quan, là tất yếu lịch sử. + Quản lý là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một nhóm người, một cơ quan, tổ chức hay nói rộng hơn là một nhà nước. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển. + Quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các thành phần: Chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đề ra mục tiêu, dẫn dắt, điều khiển các đối tượng quản lý để đạt mục tiêu. Khách thể quản lý (đối tượng quản lý) là : Con người được tổ chức thành một tập thể, một xã hội. 10 Mục tiêu quản lý : Chung cho cả đối tượng quản lý và chủ thể quản lý, là căn cứ để chủ thể quản lý tạo ra các tác động quản lý. Mục tiêu của quản lý là tạo dựng một môi trường mà trong đó mỗi thành viên có thể hoàn thành được mục đích, nhiệm vụ của mình, của nhóm với các giới hạn về thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn của cá nhân ít nhất. Chức năng quản lý Trong quá trình quản lý cần phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản là: tính quy hoạch, tính khả thi và tính định lượng; và thực hiện theo bốn chức năng bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, trong đó thông tin được coi là “mạch máu” của quá trình quản lý đó. Trong đó, mối quan hệ giữa chức năng quản lý và hệ thống thông tin được biểu diễn bằng chu trình quản lý sau: Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý 1.2.2. Quản lý nhà trường tiểu học 1.2.2.1. Quản lý nhà trường Trường học là hình thức thể hiện của hệ thống giáo dục trên qui mô toàn xã hội, là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, HS và các lực 11 lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và cán bộ khác,nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới". [28; 43] Vậy bản chất của hoạt động quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học để đưa hoạt động này phát triển đi lên theo xu thế tất yếu của thời đại và đạt tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo. Trong đó cần lưu ý, quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở lí luận chung của khoa học quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng của nó. Quản lý nhà trường khác với việc quản lý các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các tổ chức xã hội khác, bởi nhà trường là một tổ chức đặc biệt, là nơi tạo ra những “sản phẩm” cũng hết sức đặc biệt, đó là nhân cách phát triển toàn diện của con người và đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. 1.2.2.2. Quản lý trường tiểu học * Vị trí của nhà trường tiểu học Trong hệ thống giáo dục quốc dân, cấp tiểu học là cấp học có tính nền tảng, nhằm cung cấp lượng kiến thức và các kỹ năng cơ bản nhất, giúp HS có những kiến thức, kỹ năng cần thiết để có thể tiếp tục học lên các bậc học cao hơn hoặc có thể sống được trong cuộc sống lao động sau này. “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng”. * Mục tiêu của nhà trường tiểu học Mục tiêu của nhà trường tiểu học là “Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở”. 12 * Nhiệm vụ của nhà trường tiểu học Trong điều 3 của Điều lệ trường tiểu học đã nêu rõ nhiệm vụ của trường tiểu học như sau: - Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo mục tiêu, chương trình giáo dục tiểu học do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành. - Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em tàn tật, khuyết tật, trẻ em đã bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục và chống mù chữ trong cộng đồng. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công nhận hoàn thành chương tình tiểu học của HS trong nhà trường và trẻ em trong địa bàn quản lý của trường. - Quản lý GV, nhân viên và HS. - Quản lý sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính theo quy định của pháp luật. - Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện hoạt động giáo dục. - Tổ chức cho cán bộ quản lý, GV, nhân viên và HS tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng. - Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. * Đặc điểm dạy và học của nhà trường tiểu học Trường tiểu học có vị trí, chức năng và nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp “trồng người”. “Trường tiểu học tác động đến HS bằng phương pháp nhà trường (bao gồm cả nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục)”. Ngoài việc tổ chức một cách tự giác hoạt động học – hoạt động chủ đạo cho trẻ em, trường tiểu học còn tổ chức nhiều hoạt động khác để các em được rèn luyện, trải nghiệm, từ đó dần hình thành và hoàn thiện nhân cách cho các em. Nói cách khác, trường tiểu học là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển của trẻ em, là đơn vị cơ sở, là công trình văn hóa – giáo dục bền vững, hấp dẫn các lớp trẻ em, là nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ, là nơi tạo cho trẻ có hạnh phúc đi học. 13 Cấp tiểu học có bản sắc riêng và có tính độc lập tương đối của nó: mang tinh sư phạm cao, không phụ thuộc nghiêm ngặt vào sự giáo dục trước đó và các cấp học kế sau đó. Theo tác giả Nguyễn Kế Hào, “Bậc tiểu học có các tính chất: nhân văn, dân tộc và hiện đại. Bậc tiểu học có các đặc điểm là bậc học nền tảng, bậc học dành cho mọi trẻ em, bậc học mang đến cho trẻ em hạnh phúc đi học”. Trẻ em ở độ tuổi HS tiểu học bao gồm các em có độ tuổi từ 6 đến 14, học từ lớp 1 đến lớp 5.. Lứa tuổi trẻ em học cấp tiểu học này có những đặc điểm tâm sinh lý như sau: Một là, sự phát triển về thể chất, tâm lý của HS được hình thành, phát triển và hoàn chỉnh dần. Ở lứa tuổi này, các thuộc tính và đặc điểm tâm lý thường bộc lộ một cách hồn nhiên và chân thực. Do đó, cần đảm bảo tính hồn nhiên, tính toàn vẹn như một chỉnh thể và các điều kiện phát triển lành mạnh, toàn diện. Muốn đảm bảo được điều này, các em cần được nuôi dưỡng trong một môi trường vật chất và tinh thần có tính chọn lọc cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Hai là, mỗi HS tiểu học là một chỉnh thể, một thực thể tiềm tàng khả năng phát triển. Khả năng này sẽ bộc lộ và phát triển tùy thuộc vào điều kiện và hoạt động của mỗi em trong môi trường hoạt động nhất định. Ba là, trẻ em ở độ tuổi tiểu học là một thực thể, một chỉnh thể trọn vẹn nhưng chưa định hình, chưa hoàn thiện và đang lớn lên, đang tiếp tục phát triển. Đây là lứa tuổi tiền dậy thì, cơ cấu sinh lý, trí tuệ vẫn đang tiếp tục phát triển và các mối quan hệ xã hội đang được hình thành. Chính vì vậy, nội dung chương trình học, phương pháp giảng dạy của GV, đặc biệt là cách thức tổ chức hoạt động học tập cho HS đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kiến thức, kỹ năng và thái độ cho HS tiểu học. Với các đặc điểm trên, HS tiểu học dễ tiếp thu sự nuôi dưỡng, giáo dục, dễ thích nghi với điều kiện sống và học tập. HS tiểu học phát triển theo hướng hình thành nhân cách, định hình và hoàn thiện dần con người mình theo hướng mục tiêu giáo dục. Chính vì vậy mà những gì ta đưa đến cho trẻ phải được chọn lọc, bảo đảm sự đúng đắn và lành mạnh. Phương pháp giáo dục trẻ cũng phải 14 đúng, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em. Trong giáo dục, đối với HS tiểu học, cần phải coi các em như một chỉnh thể, một nhân cách đang hình thành, nhà trường cần thực hiện giáo dục toàn diện, cần đảm bảo tính chuẩn mực về mọi mặt để có thể tạo được sự phát triển tốt nhất ở mỗi em. “Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở”. Từ năm 2000, nước ta đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, điều đó có nghĩa là cấp tiểu học là cấp học toàn dân. 1.2.2.3. Vai trò quản lý của Hiệu trưởng trường tiểu học Hiệu trưởng trường tiểu học là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lí các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo bổ nhiệm đối với trường tiểu học công lập, công nhận đối với trường tiểu học tư thục theo quy trình bổ nhiệm hoặc công nhận Hiệu trưởng của cấp có thẩm quyền. Vai trò quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học thể hiện ở những nội dung cụ thể sau: - Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, giáo dục; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền; - Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó; - Phân công, quản lí, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng, thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định; - Quản lí hành chính; quản lí và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà trường; - Quản lí HS và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường; tiếp nhận, giới thiệu HS chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỉ luật, phê duyệt kết quả đánh giá, xếp loại, danh sách HS lên lớp, ở lại lớp; tổ chức kiểm tra, xác nhận 15 việc hoàn thành chương trình tiểu học cho HS trong nhà trường và các đối tượng khác trên địa bàn trường phụ trách; - Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lí; tham gia giảng dạy bình quân 2 tiết trong một tuần; được hư­ởng chế độ phụ cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định; - Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; - Thực hiện xã hội hoá giáo dục, phối hợp tổ chức, huy động các lực lượng xã hội cùng tham gia hoạt động giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối với cộng đồng. 1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học và xây dựng trường học điện tử 1.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường 1.3.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin Công nghệ thông tin: là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và quá trình xử lý thông tin. Như vậy, “CNTT là một hệ thống các phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa,… của con người”. Công nghệ thông tin được phát triển trên nền tảng của các công nghệ Tin học - Điện tử - Viễn thông và Tự động hóa. CNTT nghiên cứu về các khả năng và các giải pháp, tức là nghiêng về công nghệ theo nghĩa truyền thống. Khi nói “CNTT” là hàm ý muốn nói tới nghĩa kỹ thuật công nghệ. Còn Tin học thì nghiên cứu về cấu trúc và tính chất, vì thế tin học gần gũi với cách hiểu là môn khoa học, hay môn học. CNTT là lĩnh vực khoa học rộng lớn nhưng có nhiều chuyên ngành hẹp. Như trong toán học có các phân môn số học, đại số, hình học phẳng, hình học không gian,.... Trong vật lý có các phân môn nhiệt học, cơ học, điện học, quang học và lượng tử, ... thì tin học cũng có các phân môn là khoa học máy tính, kỹ thuật máy tính, công nghệ phần mềm, mạng máy tính, v.v… 16 Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Công nghệ thông tin (tiếng Anh là: Information technology gọi tắt là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu nhập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ ký ngày 04/08/1993 về “Phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90 đã định nghĩa: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”. Theo luật CNTT số 67/2006/QH11 ngày 29/6/2006 điều 4 giải thích: CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. [31]. Đến nay CNTT đã phát triển qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1, từ khi máy tính ra đời năm 1943 đến những năm 60,70 của thế kỷ 20- đây là giai đoạn khởi đầu của CNTT; giai đoạn 2 những năm 80, giai đoạn tin học hóa các ngành kinh tế quốc dân và xã hội; giai đoạn 3 của CNTT là internet hóa, được bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ 20. Có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của CNTT và đặc biệt là của mạng internet hiện nay vừa tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi đồng thời cũng là một đòi hỏi cấp thiết đối với GD&ĐT nói chung, phương pháp dạy học trong mỗi nhà trường, của mỗi thày cô giáo nói riêng phải đổi mới mạnh mẽ theo hướng tích hợp và sử dụng triệt để những thế mạnh của CNTT vào dạy học. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành giáo dục tiểu học là cấp học rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Hiện nay các trường tiểu học có điều kiện đầu tư và trang bị Tivi, đầu Video, xây dựng phòng đa năng với hệ thống máy tính và máy chiếu, nối mạng internet. Một số trường còn trang bị thêm máy quay phim, chụp ảnh,…tạo điều 17 kiện cho giáo viên tiểu học có thể ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Qua đó người giáo viên tiểu học không những phát huy được tối đa khả năng làm việc của mình mà còn trở thành một người giáo viên năng động, sáng tạo và hiện đại, phù hợp với sự phát triển của người giáo viên nhân dân trong thời đại CNTT. Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công nghệ thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục và có rất nhiều những phần mềm hữu ích cho người giáo viên tiểu học như Bộ Office, Lesson Editor/ Violet, Active Primary, Flash, Photoshop, Converter, Kispix, Kismatrs,…Các phần mềm này rất tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu, bảng tương tác cũng như trên các thiết bị hỗ trợ khác như Tivi, đầu Video…vừa tiết kiệm được thời gian cho người giáo viên tiểu học, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy. Nếu trước đây giáo viên tiểu học phải rất vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng CNTT giáo viên có thể sử dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo dục phong phú, chủ động quayphim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài giảng điện tử. Chỉ cần vài cái “nhấp chuột” là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện nhảy ra với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu hút được sự chú ý và kích thích hứng thú của HS vì được chủ động hoạt động nhiều hơn để khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý giáo dục của Vưgotxki “Dạy học lấy HS làm trung tâm” một cách dễ dàng. Có thể thấy ứng dụng của CNTT trong giáo dục tiểu học đã tạo ra một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục tiểu học, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa giáo viên và HS. Ứng dụng CNTT trong GD&ĐT là một yêu cầu đặt ra trong những chủ 18 trương chung của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Ứng dụng CNTT trong giáo dục còn là một điều tất yếu của thời đại. Thực tế này yêu cầu các nhà trường phải đưa các kỹ năng công nghệ vào trong chương trình giảng dạy của mình. Một trường học mà không có CNTT là một nhà trường không quan tâm gì tới các sự kiện đang xảy ra trong xã hội. Ứng dụng CNTT là quá trình vận dụng CNTT vào công tác quản lý, hoạt động dạy và học nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Việc ứng dụng CNTT trong ở trường tiểu học được các trường, các giáo viên tiếp nhận với các mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, nhận thức, năng lực khác nhau của mỗi người, mỗi trường. Một vấn đề quan trọng nữa đi theo cho việc ứng dụng CNTT là điều kiện về cơ sở vật chất, máy tính. 1.3.1.2. Quản lý ứng dụng CNTT trong nhà trường Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua mang, dạy học qua cầu truyền hình. Mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho HS, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, HS được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Quản lý ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học trước hết là quản lý ứng dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý và trong hoạt động dạy học ở trường học nhằm nâng cao chất lượng quản lý và chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu xây dựng trường học điện tử. 19 Khi nói đến ứng dụng CNTT trong dạy học, các CBQLGD ở các trường tiểu học vẫn còn tình trạng lạm dụng CNTT (Ví dụ: sử dụng bản trình chiếu được quan niệm là sử dụng giáo án điện tử, sử dụng máy tính kết nối với máy chiếu đa năng, chiếu các nội dung cho HS xem mặc dù những nội dung đó có thể tiến hành thí nghiệm thật, có thể viết trên bảng tĩnh… ). Như vậy, xét về mặt bản chất, ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học và quản lý ứng dụng CNTT là nhằm đưa vào các nội dung có ứng dụng CNTT (Tư liệu điện tử) một cách hiệu quả mà những nội dung đó không thể hiện được trên bảng tĩnh, không tiến hành bằng thí nghiệm truyền thống. Giáo án DHTC nhằm tích cực hóa quá trình nhận thức, quá trình tư duy của HS, HS sẽ tự mình phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới. Hiệu trưởng các Tiểu học quản lý ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học. Bên cạnh đó việc quản lý ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học cũng đóng vai trò rất quan trọng, bởi lẽ để đạt được mục tiêu quản lý của mình, CNTT chính là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động lập kế hoạch công việc, triển khai thực hiện kế hoạch, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá bằng việc ứng dụng CNTT sẽ giúp hiệu trưởng trường tiểu học hoàn thành công việc quản lý của mình thuận lợi nhất, hiệu quả nhất, tốn ít thời gian, tiền bạc cho hoạt động của mình. .3.1.3. Đặc điểm ứng dụng CNTT ở trường tiểu học Trong những năm gần đây, mặc dù các trường tiểu học ở nhiều địa phương trên cả nước đã được trang bị phòng máy tính, tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho HS thực hành môn tin học hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lí hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn mà CNTT mà một trong những ứng dụng đó là sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các phân môn như Toán, Tiếng Việt mà đặc biệt là Tự Nhiên Xã Hội lớp 1,2,3; Khoa -Sử -Địa lớp 4,5… Chính vì vậy nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan