Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học ở việt nam...

Tài liệu Luận văn quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học ở việt nam

.PDF
79
1223
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- NGUYỄN TRUNG PHÚ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- NGUYỄN TRUNG PHÚ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60 34 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG XÁC NHẬN CỦA XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CÁN BỘ HƯỚNG DẪN CHẤM LUẬN VĂN Hà Nội – 2015 MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ ....................................................................i PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY .............................. 5 1.1. Lý luận chung về khoa học và công nghệ ...................................................... 5 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và lực lượng tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại các trường Đại học ở Việt Nam............................................................. 12 1.2.1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động khoa học công nghệ........................ 12 1.2.2. Lực lượng cán bộ khoa học trong các trường đại học............................ 12 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY ............................................. 23 2.1. Thực trạng ................................................................................................... 23 2.2. Đánh giá những thành tựu và yếu kém......................................................... 23 2.3. Nghiên cứu mô hình quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại trường Đại học Công nghiệp Hà nội và Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà nội. ........... 45 2.3.1. Mô hình quản lý tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ..................... 45 2.3.2. Mô hình quản lý tại trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội ..... 49 2.3.3. So sánh kết quả của hai mô hình quản lý trên ........................................ 52 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC .............................. 54 3.1. Bối cảnh mới: .............................................................................................. 54 3.2. Phương hướng ............................................................................................. 57 3.3. Giải pháp ..................................................................................................... 61 3.3.1. Tăng cường quản lý hoạt động khoa học công nghệ bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin vào hệ thống quản lý ....................................................... 61 3.3.2. Tạo liên kết giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để từ đó có thể tạo ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thực tế ........................................ 62 3.3.3. Tuyên truyền sâu rộng cho sinh viên hiểu về hoạt động nghiên cứu hoạt động khoa học công nghệ thông qua các buổi hội thảo chuyên đề................... 62 3.3.4. Tìm cách cải thiện đời sống cho các nhà khoa học đặc biệt là các giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng, học viện, viện nghiên cứu và các trường nghề ........................................................................................................... 63 3.3.5. Đưa các môn về kỹ năng nghiên cứu khoa học với nội dung cập nhật vào giảng dạy ở mọi cấp bậc đào tạo ở trường Đại học......................................... 63 3.3.6. Nâng cao trình độ cho các giảng viên, các nhà khoa học thông qua việc cử đi đào tạo tại các nước có nền khoa học phát triển .................................... 64 3.3.7. Tạo cơ chế, tìm hướng đi cho các sản phẩm khoa học công nghệ được đưa vào ứng dụng trên thực tế......................................................................... 64 3.3.8. Công bố các công trình khoa học công nghệ mới của Việt lên các phương tiện thông tin đại chúng................................................................................... 65 3.3.9. Tái cấu trúc tổ chức hoạt động trường đại học:..................................... 65 3.3.10. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học: .......................... 66 3.3.11. Hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài:.................................. 66 3.3.12. Công bố nghiên cứu: ........................................................................... 67 3.3.13. Quốc tế hoá tập san khoa học: ............................................................ 67 3.3.14. Thành lập nhóm nghiên cứu: ............................................................... 67 3.3.15. Cải thiện tốt hơn cơ sở dữ liệu và cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên cứu: ........................................................................................................... 68 3.3.16. Chính sách khen thưởng thỏa đáng: .................................................... 68 3.3.17. Yêu cầu các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam dịch và đăng đều đặn các bài báo khoa học mới, có chất lượng cao, được dịch từ các tạp chí có uy tín. ........................................................................................................... 69 3.3.18. Thay đổi cơ chế tuyển chọn và bảo vệ đề tài nghiên cứu: .................... 69 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 74 DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Bảng 2.1– Bảng theo dõi số lưọng và kinh phí dành cho các đề tài NCKH trong 05 năm. ............................................................................................... 47 Hình 2.1 Quản lý đề tài đăng ký ..................... Error! Bookmark not defined. Hình 2.2 Quản lý thuyết minh đề tài ............... Error! Bookmark not defined. i PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Từ khi Việt Nam đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các thuật ngữ du nhập vào nước ta như: vi mô, vĩ mô, marketing, bảo hiểm, kiểm toán, môi trường … trong đó có thuật ngữ công nghệ. Ngày nay, các quốc gia đều thừa nhận khoa học và công nghệ là một trung những công cụ chiến lược để phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng và bền vững trong môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Ở Việt Nam, vai trò của công nghệ đã được khẳng định và được coi là một vấn đề then chốt trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nó còn được coi là nền tàng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tính đến nay thì nhà nước còn yêu cầu phải tăng cười tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Ở các quốc gia trên thế giới, nơi nghiên cứu khoa học công nghệ nhiều nhất là các viện nghiên cứu, các trường đại học. Tại Việt Nam công tác nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học đã và đang phục vụ cho nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, đáp ứng nhu cầu xã hội, thực hiện theo hướng kết hợp giảng dạy, học tập với ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn và nghiên cứu. Bên cạnh những vấn đề đã đạt được thì hoạt động khoa học công nghệ còn có nhiều vấn đề cần được giải quyết, đặc biệt là vấn đề quản lý các hoạt động này như thế nào cho có hiệu quả. Cần tìm ra các hướng giải quyết khó khăn trong hoạt động khoa học công nghệ đặc biệt là tại các trường đại học sau đó đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề đó. Từ những mục tiêu và yêu cầu như trên mà tôi lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học ở Việt Nam”. 1 Để thực hiện được điều đó trong đề tài cần trả lời được một số các câu hỏi, yêu cầu, vấn đề như sau: - Tại sao phải quản lý hoạt động khoa học công nghệ? - Hoạt động khoa học và công nghệ ảnh hưởng gì tới sự phát triển kinh tế của các nước và đặc biệt là ở Việt Nam. - Các thành tựu mà hoạt động khoa học công nghệ đã đạt được hiện nay bên cạnh đó cần trình bày các yếu kém còn tồn tại - Các chính sách của Đảng và nhà nước về lĩnh vực này ra sao? Đặc biệt là đối với các trường đại học thì nhà nước có quan điểm và định hướng như thế nào? - Sử dụng một mô hình quản lý cụ thể của hai trường Đại học nào đó để phân tích từ đó xem xét mô hình quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường Đại học hiện nay như thế nào? Có phù hợp không? Cần cải tiến và đưa ra các giải pháp gì nhằm nâng cao hiệu quả. 2. Tình hình nghiên cứu: Tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới vấn đề nghiên cứu khoa học cũng như quản lý hoạt động này luôn luôn được coi trọng hàng đâu. Cũng chính vì lẽ đó mà hàng năm tại Việt nam luôn có những người, đơn vị, tổ chức quan tâm và đưa ra vấn đề này để thảo luận thu thập ý kiến sau đó trình bày thành các dự thảo để kiến nghị lên các tổ chức cao hơn nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả trong quản lý hoạt động khoa học công nghê. Tại các trường đại học ở Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn vì đây là nơi sản sinh và đào tạo ra các cán bộ nghiên cứu. Tuy nhiên với những thông tin mà tôi thu thập được thì vấn đề này cũng rất ít người tập trung nghiên cứu đẩy mạnh. Có thể kể đến một số trường đại học đã từng bước nghiên cứu về vấn đề này như Đại học Kinh tế - Quốc Gia Hà nội, Đại học Cần Thơ, Học viện chính trị quốc gia, Đại học Công nghiệp hà nội .... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích để nhận diện được các đặc điểm của quản lý Nhà nước về hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học ở Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị, các biện pháp khắc phục những yếu điểm đang tồn tại trong quản lý Nhà nước về hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước tới hoạt động này trong thời kỳ hội nhập, đổi mới. Luận văn đưa ra một số đóng góp chính như sau: - Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản khoa học công nghệ, vai trò quản lý nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học - Điểm qua tình hình hoạt động cơ bản của hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học trong đó nhấn mạnh về tình hình quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại trường Đại học Công nghiệp Hà nội và Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà nội - Điểm qua hoạt động quản lý nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò quản lý của nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hoạt động khoa học công nghệ nói chung và hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học tại Việt Nam còn nhiều vấn đề cần phải phân tích và làm sáng tỏ nhưng trong khuôn khổ một bài tiểu luận, tác giả tập trung đi sâu phân tích vai trò Quản lý của Nhà nước tới hoạt động quản lý khoa học tại các trường đại học.. 3 Thời gian nghiên cứu: Phân tích và đánh giá vai trò quản lý nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học từ năm 2006 đến năm 2014 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh....để tập trung vào phân tích nội dung và công cụ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học. 6. Kết cấu của đề tài Tác giả xin trân trọng giới thiệu đề tài tiểu luận với bố cục như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường đại học hiện nay - Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động khoa học tại các trường đại học hiện nay - Chương 3: Phương hướng và giải pháp quản lý hoạt động khoa học tại các trường đại học Trong quá trình viết báo cáo chắc chắn sẽ có những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để bổ sung hoàn thiện để tài liệu được chính xác và hữu ích hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn. 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY 1.1. Lý luận chung về khoa học và công nghệ Trước tiên ta cần làm rõ quan niệm về khoa học và đặc biệt khoa học trong các trường đại học. Theo các tài liệu cung cấp cho thấy khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, những lý thuyết mới … về các mặt tự nhiên của xã hội. Những kiến thức mới, học thuyết mới phải tốt hơn và nó có thể thay đổi dần những cái cũ, không còn phù hợp. Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật vật chất và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức được phân biệt thành hệ thống tri thức thực nghiệm và hệ thống tri thức khoa học. Hệ thống tri thức thực nghiệm hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội nhưng hệ thống tri thức thực nghiệm chỉ phát triển đến một giới hạn hiểu biết nhất định, hệ thống này được coi là cơ sở của hệ thống tri thức khoa học. Tri thức khoa học là nhưng hiểu biết tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học. Tri thức khoa học là dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Còn đối với công nghệ ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ và mục đích nghiên cứu. Nhưng có thể nói chung nhất về công nghệ có thể được hiểu là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào trong sản xuất và đời sống. Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Trong đó phần cứng được coi là các trang thiết bị và phần mềm được coi là bất kỳ quy trình sản xuất nào để đảm bảo tạo ra một sản phẩm dịch vụ. Trước đây cách hiểu truyền thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với 5 thực tế vận hành, tay nghề của người sản xuất, năng lực tổ chức hoạt động sản xuất vì vậy hiện nay thuật ngữ công nghệ thường được dùng cho thuật ngữ kỹ thuật, việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Khác với khoa học giải pháp kỹ thuật của công nghệ đóng góp trực tiếp vào sản xuất và đời sống nên nó được sự bảo hộ của nhà nước dưới hình thức sở hữu trí tuệ, sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi kiểu dáng công nghệ, xuất xứ hàng hóa và do vậy nó là thứ hàng có thể mua bán. Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất rất còn yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như hiện nay thì tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sản xuất. Khoa học và công nghệ, là kết quả của sự vận dụng những sự hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải tiến các công cụ, phương tiện phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được phát triển qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Vào thế kỷ 17-18 khoa học công nghệ tiến hóa theo những con đường riêng, có những mặt công nghệ đi trước khoa học. Vào thế kỷ 19 khoa học công nghệ bắt đầu có sự tiếp cận, mỗi khó khăn của công nghệ gợi ý cho sự nghiên cứu của khoa học và ngược lại những phát minh khoa học tạo điều kiện cho các nghiên cứu, ứng dụng. Sang thế kỷ 20-21 khoa học chuyển sang vị trí chủ đạo dẫn dắt sự nhảy vọt về công nghệ. Ngược lại sự đổi mới của công nghệ tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học tiếp tục phát triển. Thuật ngữ khoa học và công nghệ là sự thể hiện, đồng hành gắn bó giữa lý luận, lý thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tế. 6 Đầu thế kỷ XX, loài người đã tích lũy được một kho tàng trí tuệ về khoa học và kỹ thuật đồ sộ. Karl-Marx (1818 - 1883) đã từng có một luận điểm nổi tiếng: “tri thức xã hội phổ biến (được hiểu là khoa học) đã chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều, không dưới 80 - 90% dân số thế giới vẫn sống trong nghèo nàn lạc hậu. Khoa học và công nghệ giai đoạn mới hiện nay bắt đầu phát triển mạnh từ những năm 40 thế kỷ trước và đặc trưng rõ nét nhất từ khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên chinh phục không gian vũ trụ (1957) tiếp đó là con người bay vào vũ trụ, đặt chân lên mặt trăng, cũng như các công trình nghiên cứu vũ trụ khác đến nay hầu như là chuyện “hàng ngày”. Được sự kích thích và sự hỗ trợ của công nghệ vũ trụ, các ngành công nghệ mới, có tầm cao mới liên tiếp ra đời, đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ năng lượng tái tạo,… với những phát minh kỳ diệu như lade (1967), truyền hình qua vệ tinh nhân tạo (1964), tổng hợp gien (1973), mạch tổ hợp cho (1965), máy tính điện tử, máy tính điện tử sinh học dựa trên cấu tạo bộ óc con người (1994), bộ vi xử lý (1971), rệp điện tử, máy gia tốc, v.v… Có thể nói từ nửa cuổi thế kỷ XX, con người đã mở rộng thêm tầm nhìn, thực sự nối thêm cánh để bay và làm việc trong không gian bao la, đã làm cho không gian thu hẹp khoảng cách, con người xích lại gần gũi nhau hơn, cuộc sống tốt đẹp, sôi nổi hơn, khối óc, sâu rộng hơn, hiểu biết thế giới khách quan khám phá quá khứ lịch sử cũng như dự đoán tương lai xác thực hơn (1) … 11 Tháng 4/1992 vệ tinh nhân tạo Cobe (người thám hiểm nền vũ trụ) truyền về trái đất hình ảnh vũ trụ khi mới hình thành sau vụ nổ Big Bang cách đây khoảng 15 tỷ năm. Các nhà khoa học hy vọng trên các máy gia tốc năng lượng lớn có thể tái tạo lại sự ra đời của vũ trụ (Almanach những nền văn minh thế giới - NXB Văn hóa - Thông tin, 1997, trang 1932). 7 Đến cuối thế kỷ XX, có thể khẳng định rằng nền sản xuất xã hội đang biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động tạo nên một sự phát triển nhảy vọt, một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại sang một thời đại kinh tế mới (thường gọi là thời đại kinh tế tri thức) quá độ sang một nền văn minh mới (thường gọi là nền văn minh trí tuệ) mà nguyên nhân và động lực chính là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới (2) hình thành từ mấy chục năm qua. Nói kinh tế tri thức tức là nói nền “kinh tế trong đó sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”(3). Đặc điểm của kinh tế tri thức là vai trò ngày càng to lớn của những đổi mới liên tục về khoa học và công nghệ trong sản xuất và vai trò chủ đạo của thông tin và tri thức với tư cách là nguồn lực cơ bản tạo nên sự tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các nhà nghiên cứu còn chỉ rõ, theo cấp độ tiến hóa của các nền văn minh nhân loại, có thể thấy quyền lực đang dịch chuyển từ sức mạnh của bạo lực, vũ khí, tiền bạc (thuộc hai nền văn minh nông nghiệp, công nghiệp, sang sức mạnh của tri thức, trí tuệ. Trong nền văn minh mới này, quyền lực không còn phụ thuộc vào sức mạnh vật chất và của cải sẵn có trong tay mà chủ yếu phụ thuộc vào những nguồn tri thức nắm được. Tài nguyên tri thức - trí tuệ cơ bản khác với tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động ở chỗ khi sử dụng hoặc trao đổi đã không mất đi mà còn được bảo tồn hoặc có bổ sung phong phú thêm, trái lại chi phí cho việc sử dụng, trao đổi, phổ biến hầu như không đáng kể. Tri thức 2 Còn gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba, động lực chính là khoa học và công nghệ, hình thành từ giữa thế kỷ XX (cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 1 (thế kỷ 18) bắt nguồn từ giai đoạn thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ giới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 2 (thế kỷ 19) tiêu biểu là sản xuất điện năng và nền sản xuất đại cơ giới. 3 Sổ tay Báo cáo viên về Đại hội IX Đảng CSVN. Trung tâm thông tin công tác tư tưởng/Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương - 2001 8 còn là thứ “của cải” mà bất cứ người nào, dân tộc nào, dù là yếu, nghèo nhất, nếu có quyết tâm học hỏi cũng đều có thể giành được, chiếm đoạt được. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ đã thực sự thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người. Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm,… Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa năng, mẫu mã đẹp, kích thước nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng được rút ngắn đáng kể. Theo một số số liệu thống kê đáng tin cậy: + Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 1990 so 1982 tăng 28,5% khối lượng thương mại thế giới tăng 57,9% (IMF 10/1990). + Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, GDP của thế giới tăng 40,5% (44 nghìn tỷ USSD/31,6 nghìn tỷ USD - Niên giám thống kê/ TCTK 2006). + Thế kỷ XVIII, một nước muốn công nghiệp hóa thường mất 100 năm. Đầu thế kỷ XX, còn khoảng 30 năm. Vào thập niên 70 - 80 rút xuống 20 năm. Thập niên 90 chỉ còn trên dưới 10 năm. Quãng thời gian cần thiết để tăng gấp đôi GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) theo đầu người đã được rút ngắn một cách ổn định. Nếu như Anh mất 58 năm (kể từ 1780), Mỹ 47 năm (từ 1839), Nhật 34 năm (kể từ 1880) thì từ sau Đại chiến thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp lần thứ ba còn đẩy tốc độ này lên cao hơn như Brazin 18 năm, Indonesia 17 năm, Hàn Quốc 11 năm, Trung Quốc 10 năm(4). Có thể hiểu, nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức … đạt 4 Almanach những nền văn minh thế giới 1997 (trang 1943) 9 được các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường. Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm thu được hiệu quả mà nếu để mỗi người hoạt động riêng lẻ thì không thể đạt được. Như vậy một cách tổng quát có thể hiểu quản lý là tập hợp các hoạt động có hướng đích đến đối tượng nhằm đạt được mục tiêu đã định. Vậy tại sao phải quản lý hoạt động khoa học công nghệ? Thứ nhất,không phải tất cả đổi mới về khoa học và công nghệ đều mang lại lợi ích cho xã hội. Tất cả mọi khoa học và công nghệ đều có tính hai mặt của nó, bên mặt tích cực như nâng cao hiệu quả trong sản xuất, dịch vụ là khía cạnh tiêu cực như làm suy thoái tài nguyên, hủy hoại môi trường. Ngoài ra việc sử dụng khoa học và công nghệ sai mục đích, sử dụng quá mức cần thiết sẽ mang lại tại họa cho tự nhiên và xã hội. Thực ra, những ảnh hướng xấu của khoa học và công nghệ không phải bản chất của khoa học và công nghệ mà do con người lạm dụng nó. Vì vậy quản lý khoa học và công nghệ để chống lại sự làm dụng của khoa học và công nghệ. Thứ hai, theo tổng quan của Liên Hiệp Quốc năm 1984 thì: “sự cung cấp tiền bạc và khoa học, công nghệ cho các nước đang phát triển đã không mạng lại sự phát triển. Nguyên nhân là các nước này thiếu năng lực trong quản lý hoạt động khoa học và công nghệ”. Tháng 1/1985 chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã cùng Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á – Thái Bình Dương (APCTT) đã thực hiện chương tình “Tăng cường năng lực quản lý khoa học và công nghệ”. Như vậy quản lý khoa học và công 10 nghệ là khâu yếu kém của các nước đang phát triển, không quản lý khoa học công nghệ tốt, không thể thành công trong việc phát triển đất nước dựa trên khoa học và công nghệ. Thứ ba, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy. Để phát triển đất nước, một số quốc gia chú trọng xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh dựa trên cơ chế thị trường tự do, dẫn đến kinh tế phát triển song kía cạnh văn minh công bằng của xã hội bị xem nhẹ. Một số quốc gia khác lại chú trọng vào xây dựng nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung nhằm mang lại lợi ích cho tất cả mọi người song ở các quốc gia này có biểu hiện sự trì trệ trong nền kinh tế. Để kết hợp hai yếu tố hiện đại và văn minh trong quá trình công nghiệp hóa đồng thời có thể đi tắt tiếp cận nhanh quá trình công nghệ tiên tiến, cần quản lý tốt quá trình phát triển khoa học và công nghệ. Vì vậy quản lý hoạt động khoa học công nghệ là công cụ để có thể thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ tư, ở phạm vi cơ sở, quản lý hoạt động khoa học công nghệ là quản lý tiến bộ kỹ thuật ở cơ sở. Quản lý khoa học công nghệ ở cơ sở thông qua các hoạt động như phân tích đầu vào, phân tích thị trường, phân tích khả thi về khoa học, công nghệ, xã hội, pháp lỹ … làm cơ sở cho các quyết định của lãnh đạo trong việc đầu tư cơ sở vật chất, tìm kiếm, mở rộng thị trường, đổi mới khoa học và công nghệ. Nhờ những hoạt động này, quản lý khoa học công nghệ là phương tiện để đáp ứng thỏa đáng lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng. Xuất phát từ những phân tích trên về quản lý và sự cần thiết phải quản lý hoạt động khoa học công nghệ. Ta có thể đưa ra các khái niệm và quản lý khoa học công nghệ như sau: Ở góc độ vĩ mô: Quản lý hoạt động khoa học công nghệ là một lĩnh vực kiến thức liên quan đến thiết lập và thực hiện các chính sách về phát triển và 11 sử dụng khoa học công nghệ, về sự tác động của khoa học công nghệ đối với xã hội, đối với các tổ chức, các cá nhân và tự nhiên, nhằm thúc đẩy đổi mới, tạo tăng trưởng kinh tế và tăng cường trách nhiệm trong sử dụng công nghệ đối với lợi ích nhân loại. Ở góc độ cơ sở: Quản lý khoa học và công nghệ là một bộ môn khoa học liên ngành, kết hợp khoa học - công nghệ và các tri thức quản lý để hoạch định, triển khai và hoàn thiện năng lực công nghệ nhằm xây dựng và thực hiện các mục tiêu trước mắt và lâu dài của một tô chức 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và lực lượng tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại các trường Đại học ở Việt Nam 1.2.1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động khoa học công nghệ Trong các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ ở trên đã mô tả thì các cơ sở giáo dục và đào tạo rất được chú trọng. Qua thực tế, chúng ta nhận thức được rằng, khoa học công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Trong công tác đào tạo đại học ở nước ta hiện nay, khoa học công nghệ được xem là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. khoa học công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học vì không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại. Với tầm quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành TW khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: "Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống" Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác khoa học, nhất là giảng viên tại các trường đại học phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và 12 ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. QĐ số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/4/2012) về Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011- 2020 chỉ rõ: "Phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, để khẳng định được vai trò của khoa học công nghệ, các trường đại học luôn hướng tới mục tiêu "Mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu". Bởi vì, nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học và đó là con đường hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển năng lực sư phạm của mỗi người làm công tác giảng dạy và giáo dục. Trong những năm vừa qua, ngành giáo dục và nền khoa học công nghệ nước ta đã đạt được thành tích đáng kể là nhờ có những đóng góp không nhỏ từ hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng nói chung. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện nền sản xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp sang sử dụng lao động được đào tạo ngày càng nhiều hơn cho năng suất chất lượng và hiệu quả cao hơn dựa trên phương pháp sản xuất công nghiệp, vận dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Có thể nói, thực chất và nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sáng tạo và ứng dụng tri 13 thức do giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ tạo ra vào phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Với tư cách là những thành tố cơ bản của nền văn hoá, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ có một vị trí đặc biệt trong chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ, nội dung, qui luật vận động của giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, nhằm phát huy vai trò là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(5). Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”(6). Giáo dục ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển nền sản xuất vật chất của xã hội. Trong thời đại chuyển dịch mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kiểu cũ dựa vào bóc lột sức lao động và tàn phá môi trường tự nhiên là chính sang cuộc cách mạng khoa học kiểu mới hướng tới nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao chất lượng cuộc sống con người, hàm lượng khoa học kết tinh trong các sản phẩm hàng hoá 5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.94-95. 6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.77. 14 ngày càng tăng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội gắn liền với sản xuất hàng hoá và thị trường, gắn liền với phân công lao động và hợp tác quốc tế, gắn liền với trình độ và năng lực sáng tạo, tiếp nhận và trao đổi công nghệ mới. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá trong lĩnh vực kinh tế - xã hội làm cho các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng mở rộng liên kết để tối ưu hoá sự cạnh tranh và hợp tác toàn cầu. “Kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin” đang dần dần hình thành trên cơ sở phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia với mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị của hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển khoa học – công nghệ. Tài năng và trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát mà phải trải qua một quá trình chuẩn bị và đào tạo công phu, bền bỉ, có hệ thống. Vì vậy, giáo dục - đào tạo hiện nay được đánh giá không phải là yếu tố phi sản xuất, tách rời sản xuất mà là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xã hội. Không thể phát triển được lực lượng sản xuất nếu không đầu tư cho giáo dục đào tạo và khoa học – công nghệ, đầu tư vào nhân tố con người, nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất lành mạnh nếu không nâng cao giác ngộ lý tưởng chính trị, nâng cao trình độ học vấn, trình độ tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội cho đội ngũ lao động và quản lý lao động. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư ngắn nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa dân tộc. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hoá nguồn nhân lực. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã xác định “Khoa học và công nghệ giữ vai 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất