LUẬN VĂN:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu,
phương châm đối ngoại và sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà hoạt động quốc tế xuất sắc, chiến sĩ
tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, sứ giả của hoà bình và hữu nghị. Người vừa là
nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, nhà
báo; là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; kiến lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta,
đồng thời cũng là người sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp
hoạt động cách mạng của Người đã để lại kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học
vô giá cho dân tộc Việt Nam. Nó là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam nói chung và cho
việc xây dựng nền ngoại giao nói riêng phát triển, từng bước đánh thắng kẻ thù xâm lược,
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời nó còn có giá trị to lớn đối với
công cuộc đổi mới, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Trên những giá trị lý luận và thực tiễn mà tư tưởng Hồ Chí Minh mang lại, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã khẳng định: “cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động”. Thực tiễn cho thấy, vận dụng tư tưởng của Người đã đưa cách mạng Việt Nam vượt
qua những khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những trang
hào hùng của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Một trong những di sản trong hệ thống tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho
Đảng, dân tộc, nhân dân ta là tư tưởng đối ngoại. Tư tưởng đối ngoại là bộ phận quan trọng
trong hệ thống tư tưởng toàn diện sâu sắc của Người đặc biệt là quan điểm về mục tiêu,
phương châm đối ngoại. Trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, từ
sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
thông qua quá trình khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới để Người hình thành những quan
điểm về đối ngoại. Những quan điểm đó đã trở thành đường lối, chủ trương, chính sách đối
ngoại của Đảng, được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn của nó trong
cách mạng giải phóng dân tộc và cả trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh đã cho Đảng Cộng sản
Việt Nam những chỉ dẫn đúng đắn trong việc xác định mục tiêu, phương châm đối ngoại,
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế quốc tế, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, đem lại những kết quả tốt đẹp mà Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đánh giá: “Hoạt động đối ngoại được mở rộng, góp phần
giữ vững môi trường hoà bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy
tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”[17, tr.59].
Thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hợp tác cùng phát triển, chính sách đối ngoại
mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, tích cực chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, với phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên
thế giới, tích cực tham gia vào tiến trình hợp tác khu vực và quốc tế. Công tác đối ngoại của
nước ta trong những năm qua đã và đang gặt hái được nhiều thành công tuy nhiên bên cạnh
đó cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức: tình hình trong nước và thế giới biến đổi,
nhiều vấn đề mới nảy sinh, chúng ta đang trong tiến trình hội nhập sâu, toàn diện vào đời sống
khu vực và quốc tế, kẻ thù tìm mọi cách thông qua hợp tác kinh tế quốc tế để can thiệp, chi
phối, phá hoại chúng ta, chống phá quyết liệt vào nền tảng tư tưởng của xã hội ta, nếu không
cảnh giác, không xác định đúng đắn mục tiêu, phương châm của đường lối đối ngoại sẽ có
những hậu quả khó lường.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh, đặc biệt là quan điểm của Người về mục tiêu, phương châm đối ngoại, khai thác và vận
dụng sáng tạo quan điểm đó của Người vào việc xây dựng mục tiêu, phương châm của đường
lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm
đối ngoại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” làm đề tài
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong hệ thống tư tưởng toàn diện sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng
Việt Nam, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu. Đến nay có nhiều công trình với nhiều khoa học, nhiều sách chuyên đề, bài viết
có liên quan đến đề tài này. Mỗi nhà nghiên cứu đều có cách tiếp cận, nhìn nhận vấn đề riêng
cụ thể như:
Đề tài:
-
Chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX- 02, Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh, do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm. Chương trình này gồm 13 đề
tài cấp nhà nước, trong đó có đề tài Hồ Chí Minh với thế giới, mỗi đề tài nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống một khía cạnh trong tư tưởng của Người. Chương trình cung cấp cho
chúng ta một bức tranh tổng thể về quan điểm, lý luận chính trị toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Bộ ngoại
giao năm 2002 do Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Đình Bin làm chủ nhiệm. Đề tài gồm một
số đề tài nhánh. Các tác giả đã phân tích các nội dung: bối cảnh ra đời, quá trình phát triển,
nguồn gốc, nội dung cơ bản của tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong cách
và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh thời kỳ hội nhập, Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao, Bộ ngoại giao năm 2008 do
PGS,TS. Vũ Dương Huân làm chủ nghiệm đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tư tưởng
đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư
tưởng đó trong thời kỳ hội nhập. Đó là nguồn tư liệu quý cho tác giả khi thực hiện đề tài luận
văn.
Sách:
-
Viện Quan hệ quốc tế, Vũ Khoan làm chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà nội, 1999, đã phân tích một cách sâu sắc hoạt động đối ngoại
của Hồ Chí Minh từ năm 1941 - 1969, rút ra những bài học và kinh nghiệm quý báu trong
hoạt động đối ngoại của Người. Khái quát về tư tưởng đối ngoại; tư tưởng, phong cách ngoại
giao của Bác.
Tác giả Vũ Dương Huân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 2005 đã đánh giá sâu sắc hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 1945 1969), đồng thời rút ra những quan điểm mang tính khái quát cao.
-
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Luân, Hồ Chí Minh: Trí tuệ lớn của nền ngoại
giao Việt Nam hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999 đã làm rõ một số quan niệm
của Hồ Chí Minh về bạn thù, về sách lược tập hợp lực lượng, về chính sách đối ngoại,
phương pháp dự báo thời cuộc.
-
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, đã phân tích khá toàn diện tư tưởng cơ bản về
ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm rõ nguồn gốc, nội dung tư tưởng, phương pháp,
phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
-
PGS.TS Đinh Xuân Lý, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng
của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, cũng đã khái quát
bối cảnh ra đời, quá trình phát triển, nguồn gốc, nội dung cơ bản của tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh và sự vận dụng của tư tưởng của Người trong thời kỳ đổi mới.
-
GS. Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
2005 cũng nói đến tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
-
bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu Lịch sử ngoại giao, Vận dụng tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009
các tác giả đã đề cập đến những vấn đề đặt ra cho ngoại giao Việt Nam và vận dụng tư tưởng
đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập.
-
Ngoài ra còn một số cuốn sách khác như: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam
(1945 - 1995) của Lưu Văn Lợi, Nxb Công an nhân dân, 1996; Phan Ngọc Liên (chủ biên):
“ Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại”( 2000); Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh 1954 - 1969 của Trần Minh Trưởng, Nxb Công an nhân dân, 2005; Tư tưởng
Hồ Chí Minh về ngoại giao của Vũ Dương Huân, 2005; Đỗ Đức Hinh: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại - Một số nội dung cơ bản ( 2007)…
Luận văn, luận án:
Nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, khoa học chính trị được thực
hiện như:
-
Luận án tiến sĩ: “Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ từ tháng 9/1945
đến tháng 12/1946” của Nguyễn Thị Kim Dung, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
“Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1945 - 1954”, LATS của Đặng
Văn Thái, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; ”Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh giai đoạn 1954 - 1969”, LATS của Trần Minh Trưởng, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh …
-
Luận văn thạc sĩ (2008) “Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh vào việc
hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” của Hoàng Thị
Hương Thu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Những luận án, luận văn đó đã góp một phần quan trọng vào việc làm rõ những quan
điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại, hoạt động ngoại giao và sự vận dụng của Đảng, đồng
thời là tài liệu tốt để tác giả thực hiện luận văn.
Báo, tạp chí:
Nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học về những sự
kiện ngoại giao, hoạt động đối ngoại, đã được đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Lịch
sử Quân sự, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử:
-
Văn Tạo: “Công tác đối ngoại hiện nay trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
-
Lê Mậu Hãn: “ Chiến lược đại đoàn kết hợp tác với các nước Đông Nam á của
Hồ Chí Minh, quan điểm lịch sử và triển vọng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
-
Vũ Dương Ninh: “Quan điểm quốc tế trong tư tưởng chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
-
Vũ Oanh - Văn Thành: “Hồ Chí Minh trong mối quan hệ hoà bình hữu nghị
với nước Mỹ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
-
Nguyễn Văn Hồng: “Tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh - tố chất hợp luyện cội
nguồn sức mạnh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993.
Vũ Khoan: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại vẫn còn nguyên giá trị”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 6 - 1993.
-
Trịnh Vương Hồng - Nguyễn Minh Đức: “ Hồ Chí Minh với quan hệ Việt -
Mỹ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6 - 1993.
-
Nguyễn Trọng Phúc: “ Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao từ sau
hiệp định Giơnevơ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1995.
-
Phạm Hồng Chương - Phùng Đức Thắng: “ Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 12 - 1999.
-
Phạm Hồng Chương - Phùng Đức Thắng: “ Hồ Chí Minh với “ Dĩ bất biến
ứng vạn biến”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 - 2000.
Các công trình nghiên cứu trên đã ngày càng làm rõ hơn tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh, phân tích sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng và
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa
học cụ thể nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương
châm đối ngoại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Các
công trình trên là cơ sở cung cấp luận cứ, luận chứng để tác giả nghiên cứu, hoàn thành đề
tài của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích:
Nghiên cứu và làm rõ hơn những nội dung cơ bản quan điểm của Hồ Chí Minh về
mục tiêu, phương châm đối ngoại; đồng thời, nghiên cứu sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc xác định mục tiêu, phương châm đối ngoại để xây dựng và thực hiện
đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ những nội dung cơ bản của mục tiêu, phương châm đối ngoại trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ Làm rõ sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
+ Bước đầu nêu ra một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức và vận dụng đúng đắn,
hiệu quả quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
-
Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại.
-
Sự vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại của
Đảng trong thời kỳ đổi mới, hội nhập khu vực và quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-
Nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại.
-
Nghiên cứu thực tiễn chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong hoạt động thực hiện
đường lối đối ngoại của Nhà nước Việt Nam (1945 - 1969).
-
Nghiên cứu sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
(1986 - 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin về cách mạng, đấu tranh cách mạng, liên minh, thoả hiệp, đồng thời dựa vào những
quan điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại; những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam;
những quan điểm của các nhà khoa học trong nước và nước ngoài về mục tiêu, phương châm
đối ngoại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
-
Luận văn chủ yếu thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đặc biệt là phương pháp của CNDVBC và CNDVLS để làm rõ vấn đề.
-
Tuân thủ các nguyên tắc: khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển.
-
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội
- nhân văn, chú trọng các phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích - tổng hợp, phương pháp
hệ thống, so sánh, tổng kết thực tiễn… để làm rõ những nội dung chủ yếu của đề tài.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn góp phần tổng hợp, hệ thống và luận giải nội dung cơ bản và những giá
trị đặc sắc trong quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại. Nghiên
cứu sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần vận
dụng tư tưởng của Người vào việc xây dựng đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập vào khu vực và quốc tế.
- Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, luận văn khái
quát và làm rõ hơn một bước quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối
ngoại và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, mong muốn góp một phần nhỏ bé vào
việc nghiên cứu di sản tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 6 tiết.
Chương 1
quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu,
phương châm đối ngoại
1.1. một số nhận thức chung về Quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh
1.1.1. Một số khái niệm về quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh
Quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Vì vậy để hiểu được quan điểm đối ngoại Hồ Chí
Minh thì trước hết phải hiểu khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta [17, tr.83-84].
Như vậy, có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh của những tinh
hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận trong nội hàm của khái niệm tư
tưởng Hồ Chí Minh, giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống các quan điểm của Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đối ngoại, về ngoại giao cũng đã được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng và
đ
đã có một số hội thảo chuyên đề hay một số nội dung đã được kết hợp ở một số chuyên đề
khác của tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình học tập lý luận tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và một số chương trình khác.
Có nhiều nhận thức khác nhau về khái niệm tư tưởng đối ngoại, tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh. Trong chuyên đề thứ 11 do Viện tư tưởng Hồ Chí Minh và các lãnh tụ thuộc
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn và giới thiệu đề cập đến Tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác quốc tế và đưa ra một nhận xét có tính khái niệm là: “tư tưởng Hồ Chí
Minh về hợp tác quốc tế bao gồm nhiều vấn đề lớn từ nguồn gốc, quá trình hình thành, phát
triển đến những nội dung và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam”
[30, tr.265]. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế gồm: Xác lập vị trí của Việt
Nam trên trường quốc tế; nguyên tắc hợp tác quốc tế; hợp tác với các nước láng giềng; hợp
tác kinh tế quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, anh cả của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam trong
tác phẩm Hồ Chí Minh - Quá khứ, hiện tại và tương lai, đưa ra một khái niệm rất cơ bản:
Toàn bộ những tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động ngoại giao như biết đánh
giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận rõ bạn thù, tranh
thủ đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách
lược, biết thắng trong bước để tiến tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập tự chủ gắn liền
với đoàn kết quốc tế [20, tr.155].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại nêu lên một định nghĩa khái quát hơn. Ông cho rằng
tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là “một hệ thống quan điểm và đường lối chiến lược và
sách lược đối với các vấn đề quốc tế, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao của Đảng
và Nhà nước ta, là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam”
[26, tr.14] . Đại tướng đã phân tích năm nội dung lớn của tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về
ngoại giao: Độc lập tự chủ, tự cường; Hoà bình, chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền
thống nhân văn của dân tộc; Thêm bạn, bớt thù; Dĩ bất biến, ứng vạn biến; Ngoại giao là
một mặt trận, là nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Trong cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao”, Học viện Quan hệ
quốc tế thuộc Bộ ngoại giao đưa ra quan niệm: Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là toàn bộ
luận điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược, sách lược ngoại giao:
Phương pháp đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực
lượng, phân rõ bạn thù, củng cố đồng minh, phân hoá đối phương, tranh thủ trung
gian, cô lập kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất, quán triệt tư tưởng tiến công, vững
chắc về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước đi đến thắng lợi
hoàn toàn, độc lập tự chủ, đoàn kết quốc tế [74, tr.132-142].
Nguyên Phó thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm trong hội
thảo “50 năm ngoại giao Việt Nam” khái quát tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh như sau:
Không có gì quý hơn độc lập, tự do, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đem
sức ta mà giải phóng cho ta, vạch ra chính sách và phương hướng ứng dụng biện
pháp của riêng mình, luôn giương cao ngọn cờ hoà bình và hữu nghị, “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại [24, tr .91].
Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan lại sử dụng tư tưởng đối ngoại, và cho rằng những
nhận thức của Hồ Chí Minh về tính chất thời đại, mục tiêu đối ngoại, sắp xếp lực lượng, chỉ
đạo chiến lược (độc lập tự chủ, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược, nắm bắt thời cơ, “dĩ
bất biến, ứng vạn biến”… [32].
Nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên trình bày một khái niệm về ngoại giao khá
toàn diện:
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh, là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một hệ thống những nguyên lý, quan
điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới và thời đại, đường lối quốc tế, chiến lược,
sách lược đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn
đ
thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà nước
Việt Nam [56, tr .89].
PGS,TS. Vũ Dương Huân trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao” đã nêu
khái niệm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là một bộ phận hữu cơ tư tưởng Hồ Chí
Minh về đường lối cách mạng Việt Nam, là hệ thống các quan điểm về khoa học quan hệ
quốc tế, đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta, kết quả sự vận
dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và khoa học quan hệ quốc tế vào điều kiện Việt Nam…
[30, tr.27].
PGS,TS .Đinh Xuân Lý trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới” đã đưa ra khái niệm:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về các vấn đề
quốc tế; về chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới.
Hệ thống quan điểm đó được thể hiện ở các nội dung: quan niệm của Hồ Chí Minh
về các vấn đề quốc tế; về mục tiêu đối ngoại; về tập hợp và mở rộng lực lượng
đối ngoại; về phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ thuật đấu tranh ngoại
giao nhằm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam [38, tr.57].
Tác giả Đỗ Đức Hinh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - một số nội
dung cơ bản, sau khi nêu ra những khái niệm khác nhau về đối ngoại, ngoại giao lại khẳng
định: “tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là: Hệ thống các quan điểm về đấu tranh ngoại giao,
hoạt động đối ngoại và hợp tác phát triển bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược,
phương pháp, nghệ thuật và phong cách Hồ Chí Minh” [26, tr.16].
Chính sách đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng biệt nhưng gắn bó rất chặt
chẽ với nhau, đồng thời lại có sự khác biệt nhất định. Chính sách đối ngoại là tổng thể mục
tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, nguyên tắc, phương châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi
trong quan hệ với các quốc gia khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế nhằm phục
vụ cho lợi ích của quốc gia dân tộc trong giai đoạn lịch sử. Ngoại giao là công cụ, phương
tiện quan trọng nhất, phương tiện hoà bình, thực hiện mục tiêu của chính sách đối ngoại của
quốc gia. Chính sự gắn kết trong nội hàm của các khái niệm nên nhiều học giả đồng nhất
nghĩa của khái niệm tư tưởng đối ngoại với nghĩa của tư tưởng ngoại giao trong tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung.
Mặc dù có trình bày khác nhau, song về cơ bản các khái niệm đều thống nhất tư tưởng
Hồ Chí Minh về đối ngoại hay ngoại giao là:
-
Bộ phận hữu cơ tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt
-
Hệ thống quan điểm, quan niệm về thế giới và quan hệ quốc tế, đường
Nam.
lối, chính sách, chiến lược, sách lược đối ngoại Việt Nam thời kỳ hiện đại;
-
Bao gồm cả phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao.
Tìm hiểu quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh, một mặt giúp cho chúng ta có những
định hướng lý luận và xây dựng đường lối đối ngoại đúng đắn sáng tạo, mặt khác góp phần
thiết thực vào nhiệm vụ nghiên cứu và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh nói riêng. Từ những khái niệm của các nhà nghiên cứu đã đề cập ở trên,
theo tác giả có thể hiểu về tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh như sau:
Quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh
về đường lối cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin
vào điều kiện Việt Nam, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn
hoá của nhân loại về khoa học quan hệ quốc tế. Đó là những quan điểm về mục tiêu đối
ngoại; phương châm đối ngoại; lực lượng và thứ tự ưu tiên trong đối ngoại; nguyên tắc và
phương pháp đối ngoại…
Những quan điểm trên đây là kim chỉ nam cho hoạt động quốc tế, đối ngoại và ngoại
giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và cả trong giai đoạn hiện nay khi đất nước bước
vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập và phát triển.
1.1.2. Vị trí của quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh trong hệ tư tưởng của Người
đ
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là khoa học, vừa là “một cẩm nang” cho hoạt động thực
tiễn. Việc nghiên cứu, tổng kết hệ thống những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
vận dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta phải là một quá trình, được tiếp cận từ nhiều
hướng khác nhau, được lý giải ở nhiều lĩnh vực khác nhau, và được đánh giá tổng kết ở nhiều
cấp độ khác nhau. Bởi vì, bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh không giới hạn bởi một lĩnh vực,
không nhằm giải thích riêng cho một vấn đề cụ thể nào, mà tư tưởng Hồ Chí Minh là một
tổng thể, một hệ thống quan điểm các vấn đề bao trùm tất cả các hoạt động của đời sống và
xã hội.
Để hiểu được vị trí của quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh trong hệ tư tưởng của
Người trước hết ta tìm hiểu một số khái niệm có liên quan.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đường lối là những nguyên tắc cơ bản về phương
hướng, nhiệm vụ, phương châm, lực lượng, phương thức tổ chức thực tiễn về chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, tư tưởng, tổ chức…do một nhà nước, một chính đảng, một tổ
chức chính trị xã hội vạch ra nhằm thực hiện mục tiêu nhất định…Đường lối là cơ sở để
hoạch định chính sách, biện pháp thực hiện trên mọi lĩnh vực hoặc một lĩnh vực nhất định
[70,
tr.915].
Chính sách là những nguyên tắc, cách thức cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;
chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó.
Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá [70, tr.475].
Hai khái niệm này đã phân biệt đường lối và chính sách cũng như mối quan hệ giữa
chúng. Tuy nhiên việc phân biệt giữa đường lối với chính sách là mang tính tương đối. Sự
phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm đó trong nhiều trường hợp là máy móc, không đúng
với thực tiễn chính trị đa dạng và phức tạp. Ngay ở nước ta, khi nói đến đường lối thì thường
được hiểu là đường lối của Đảng, còn chính sách là của Nhà nước. Đường lối của Đảng là
phương châm chỉ đạo có tính xuyên suốt, còn chính sách của Nhà nước là sự thể chế hoá, cụ
thể hoá đường lối của Đảng trong từng thời kỳ nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đó. Đường
lối của Đảng trong từng lĩnh vực cụ thể cũng chính là chính sách của Đảng về lĩnh vực đó.
Đường lối, hay chính sách của một quốc gia bao giờ cũng gồm hai mặt: đối nội và
đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc. Đường lối đó trước hết được xác định
bởi tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia. V.I Lênin nói: “Những cội rễ
sâu xa nhất của chính sách đối nội lẫn đối ngoại của nhà nước chúng ta đều do những lợi ích
kinh tế, địa vị kinh tế của giai cấp thống trị ở nước ta quyết định. Những luận điểm đó vốn
là cơ sở toàn bộ thế giới quan của người mác-xít…đã được kinh nghiệm chứng thực” [37,
tr.403404].
Hai mặt đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể thống nhất vì chính trị là mối
quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong lòng quốc gia và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc trên
trường quốc tế. Song, trong quốc gia lại thi hành chính sách thống nhất để thực hiện những
lợi ích chiến lược của giai cấp cầm quyền ở trong nước và tạo điều kiện tốt nhất thực hiện
lợi ích ấy trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại thống nhất với chính sách đối nội ở nội
dung giai cấp, xuất xứ và phương hướng. Nói cách khác, mối liên hệ giữa chính sách đối nội
và chính sách đối ngoại của một quốc gia là ở chỗ chúng đều nhằm giải quyết một nhiệm vụ
bảo vệ, duy trì hệ thống quan hệ kinh tế - xã hội hiện hành của quốc gia đó. Như V.I.Lênin
thường nhắc nhở: “Đem tách chính sách đối ngoại ra khỏi chính trị nói chung, hay hơn nữa,
đem đối lập chính sách đối ngoại với chính sách đối nội, đó là tư tưởng hoàn toàn sai lầm,
không Mácxít, không khoa học”[36, tr.121].
Mục đích và lợi ích của một quốc gia trong quan hệ quốc tế được thực hiện trước tiên
thông qua quan hệ chính thức giữa các chính phủ, nhưng đồng thời cũng được thực hiện
thông qua các quan hệ kinh tế và văn hoá, dưới sự bảo trợ của chính phủ cũng như của các
công ty, đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi chính phủ v.v… Cuối cùng được thực hiện
thông qua việc sử dụng lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang này tuỳ thuộc vào tính chất
giai cấp của Nhà nước và tính chất của chính sách đối ngoại mà mang tính chất, mục đích
xâm lược hay tự vệ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quan hệ thống nhất giữa đối nội và đối
ngoại là quy luật tuyệt đối của quan hệ quốc tế [30, tr.17].
đ
Chính sách đối ngoại (hay chính sách ngoại giao) của một quốc gia bao giờ cũng gắn
kết chặt chẽ với chính sách đối nội của quốc gia đó, có nghĩa nó là sự nối tiếp của chính sách
đối nội. Vì thế có thể nói, chính sách đối ngoại là sự “kéo dài” của chính sách đối nội.
Đường lối chính sách đối ngoại luôn phục vụ cho mục tiêu của đường lối chính sách
đối nội, bị chi phối bởi đường lối, chính sách đối nội. Giữa đường lối, chính sách đối ngoại
với đường lối, chính sách đối nội có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau, đường
lối, chính sách đối nội là tiền đề, là cơ sở của đường lối chính sách đối ngoại và đường lối,
chính sách đối ngoại sẽ tạo điều kiện, tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện đường lối,
chính sách đối nội.
Đường lối, chính sách đối ngoại của một quốc gia nhằm mục đích thực hiện những
lợi ích của quốc gia, mở rộng quan hệ quốc tế. ở nước ta, việc thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà (1945) do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đã khởi đầu đường lối, chính sách đối
ngoại mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng đường lối, chủ
trương, thông qua Nhà nước; Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội dưới sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện của Đảng. Bởi vậy, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước có thể nói gộp lại là một. Có thể gọi là đường lối đối ngoại, có thể nói là chính sách
đối ngoại. Tuy nhiên, theo chức năng, Nhà nước thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng về đối
ngoại được thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương thành các chính sách và pháp
luật, theo đó hoạt động ngoại giao của Nhà nước được thực thi trong cuộc sống.
Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là sản phẩm của
Cách mạng Việt Nam trước những biến đổi của tình hình chính trị thế giới. Đó là hệ thống
những quan điểm lý luận với tính cách là những định hướng cơ bản về quan hệ đối ngoại của
đất nước trong một giai đoạn nhất định và những chính sách được Nhà nước hoạch định với
tư cách là chủ thể đại diện cho chủ quyền quốc gia tham gia vào đời sống chính trị quốc tế.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại là những bộ
phận hợp thành của chiến lược cách mạng. Điểm lại lịch sử cuộc đấu tranh vì độc lập tự do
của nhân dân ta từ nhiều thế kỷ trước đến nay, từ khi có Đảng, phong trào yêu nước và cách
mạng nước ta mới có được đường lối quốc tế rõ ràng, gắn được với xu thế phát triển của thế
giới, chọn đúng vị thế cách mạng nước ta trong quan hệ toàn cầu. Hơn nữa, cũng từ đó cách
mạng nước ta mới có sách lược nhất quán về quan hệ bạn - thù và sắp xếp lực lượng bên
ngoài, đi đến hình thành một hệ thống chủ trương và biện pháp sách lược trong việc xử lý
những vấn đề quốc tế có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích chiến lược của sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đường lối quốc tế của cách mạng nước ta bắt nguồn từ “Đường Kách mệnh” (1927),
“Chánh cương vắn tắt của Đảng” (1930), v.v.. do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Nó được thể
hiện sinh động trong chiến lược đứng về phe dân chủ chống phát xít và tiến đến dân tộc giải
phóng trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Đặc biệt, nó được khẳng định thành hệ thống bốn
điểm cho chính sách ngoại giao trong chương trình của Việt Minh và được Người khái quát
thành nguyên tắc, được coi như cơ sở của đường lối đối ngoại của nước Việt Nam mới thể
hiện trong Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) và trong “Thông cáo về chính sách ngoại giao”
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3/10/1945).
Như vậy, đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta được
Hồ Chí Minh vạch ra cùng việc hình thành đường lối giải phóng dân tộc, được thể hiện sinh
động trong cách mạng tháng Tám, được bổ sung, sửa đổi mỗi lúc cách mạng Việt Nam đứng
trước khúc quanh của thời đại đòi hỏi phải điều chỉnh chiến lược nhằm phục vụ tốt hơn cho
mục tiêu cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc đưa đường lối đối
ngoại, xu thế vận động quốc tế vào thực hiện mục tiêu cách mạng Việt Nam như vậy?
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa chính sách đối nội và
chính sách đối ngoại, đánh giá cao vị trí, vai trò của đối ngoại, vai trò của nhân tố quan hệ
quốc tế, nhân tố bên ngoài trong cuộc đấu tranh giành độc lập bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, tư tưởng của Người về đường lối cách mạng Việt Nam,
bao gồm cả lĩnh vực đối nội và cả lĩnh vực đối ngoại đã dần dần được hình thành và phát
triển.
đ
Nhận thức về vai trò của vũ khí đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: ngày nay,
“ngoại giao ai thuận lợi hơn thì thắng” [46, tr.514]. Quan điểm trên đây được cụ thể hoá
trong việc đề ra và vận hành đường lối đối ngoại và xây dựng mạng lưới hoạt động ngoại
giao, vận động quốc tế sau những chặng đường đấu tranh trong gần 80 năm qua, nó đã khẳng
định vị trí của đối ngoại trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như trong thực hiện đường lối,
mục tiêu cách mạng.
Theo quan điểm của Người, một nước nhỏ muốn đánh thắng đế quốc to, đường lối
đối ngoại và hoạt động ngoại giao có vai trò tích cực, mở ra khả năng liên kết với lực lượng
đồng minh xa gần bên ngoài, làm suy yếu, phân hoá thế lực thù địch, góp phần quan trọng
làm thay đổi cục diện đấu tranh và tương quan lực lượng có lợi cho nước nhỏ. Lý giải về
“đánh bằng mưu” trong “Binh pháp Tôn Tử”, Người nhấn mạnh: “..dùng binh giỏi nhất là
đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới đánh bằng binh. Vây thành
mà đánh là kém nhất…” (Như quân Đức vây thành Xtalingrát mà không lấy được, từ đó bị
thất bại đến cùng) [46, tr.518].
Đường lối, chính sách, chiến lược và sách lược ngoại giao và hoạt động đối ngoại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn hướng vào việc thực hiện có hiệu quả mục tiêu
chung của cách mạng nước ta cũng như những mục tiêu cụ thể trong giai đoạn phát triển của
cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm lớn, quan điểm trung tâm,
xuyên suốt, có tính chất chi phối trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt
Nam. Đồng thời nó cũng là quan điểm chi phối, nói lên bản chất của đường lối quốc tế, chính
sách đối ngoại của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chính sách đối ngoại của Việt
Nam vừa mang đặc điểm dân tộc vừa có tính chất xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu hoà
bình, phát triển trên thế giới.
Mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp là một vấn đề trung tâm của đường
lối đối ngoại Việt Nam. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nói đến độc lập dân tộc là nói đến
lợi ích dân tộc. Lợi ích cơ bản, lâu dài của Việt Nam là: “hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ, giàu mạnh”. Vì vậy, chỉ có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải
phóng dân tộc bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo điều kiện cho giải phóng giai
cấp, đó cũng là vấn đề mà đường lối đối ngoại của Đảng phải giải quyết. Lợi ích dân tộc là
sợi chỉ đỏ trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại. Đó chính là cái “hồn”, cái
“thần” trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không
thể nói nội dung nào, bộ phận nào, quan điểm nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan trọng
hay không quan trọng, bởi tư tưởng của Người là một chỉnh thể, các nội dung, các bộ phận,
các quan điểm đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự chi phối, ảnh hưởng và tác
động lẫn nhau. Vì vậy, tư tưởng đối ngoại của Người là một bộ phận không thể thiếu trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh sẽ giữ vai trò định hướng
cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; là cơ sở để xây dựng các
chính sách, các chương trình hoạt động của nền ngoại giao nước ta bao gồm hoạt động đối
ngoại của Đảng, hoạt động ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao Quốc hội, ngoại giao của
các đoàn thể chính trị, của các tổ chức phi chính phủ, của nhân dân…trên tất cả các lĩnh vực
với tất cả các đối tác phải quan hệ, có quan hệ và cần quan hệ. Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh còn là cẩm nang trong xử lý tình thế, ứng xử quốc tế góp phần xây dựng nền nghệ
thuật ngoại giao và phong cách ngoại giao Việt Nam.
1.1.3. Vị trí của mục tiêu, phương châm đối ngoại trong quan điểm đối ngoại Hồ
Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là một vấn đề lớn, phong phú, bởi vì tư tưởng
Hồ Chí Minh về đối ngoại cũng bao gồm một hệ thống vấn đề (hay các quan điểm) về đối
ngoại trên các mặt hoạt động và qua các thời kỳ khác nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại cũng được hình thành và phát triển trong một quá trình, theo một quy luật và logic
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập đến những quan điểm của
Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại góp phần lý giải về tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh nhưng bên cạnh đó cũng khẳng định vị trí của mục tiêu, phương châm trong
quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh.
- Xem thêm -