Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty cp chứng khoán dầu ...

Tài liệu Luận văn phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty cp chứng khoán dầu khí

.DOC
84
354
99

Mô tả:

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT PV Securities: Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí TTCK: Thị trường chứng Khoán CTCK: Công ty chứng khoán UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán TTLKCK: Trung tâm lưu ký chứng khoán TVLK: Thành viên lưu ký CTCP: Công ty cổ phần LKCK: Lưu ký chứng khoán HĐQT: Hội đồng quản trị HĐCĐ: Hội đồng cổ đông TCPH: Tổ chức phát hành P.LK&QLCĐ PVS: Phòng lưu ký và quản lý cổ đông của công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. BLPH: bảo lãnh phát hành TDCK: Tự doanh chứng khoán MG và LK: Môi giới và lưu ký Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Năm 2006, hòa mình cùng với nền kinh tế thế giới Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới-WTO. Việc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một phần của khu vực tài chính của một quốc gia. Đây là một nguồn vốn dài hạn quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một nước. Trong thời gian gần đây, thị trường chúng khoán non trẻ của Việt Nam liên tục biến động, Để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển lành mạnh, công bằng, sôi động, hiệu quả không thể không nói đến vai trò của hoạt động lưu ký chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là hoạt động quan trọng, là một khâu không thể thiếu của thị trường chứng khoán, hoạt động này góp phần đảm bảo cho các giao dịch trên thị trường được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Một thị trường chứng khoán muốn phát triển mạnh mẽ và vững vàng thì cần phải có bộ phận lưu ký hiện đại, phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí em nhận thấy hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng cần được nghiên cứu và em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí.” Mục tiêu nghiên cứu là qua lý thuyết và thực tiễn để đánh giá hiệu quả của hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động lưu ký chứng khoán của công ty chứng khoán. Chương II: Thực trạng hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, mặt khác hoạt động lưu ký chứng khoán có tính phức tạp đặc thù nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp và những ý kiến bổ sung của thầy giáo cũng như bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG LƯU KÝ CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.Tổng quan về chứng khoán và công ty chứng khoán 1.1.1.Chứng khoán. Chứng khoán là hàng hóa của TTCK . Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể nó để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị trường, hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng. Nói chung, người ta phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, và các chứng khoán phái sinh. 1.1.1.1.Cổ phiếu. Khái niệm: Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì cổ phiếu được định nghĩa như sau: Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Khi mua cổ phiếu, những người đầu tư (hay còn được gọi là các cổ đông) sẽ trở thành những người chủ sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ mọi thành quả cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty. Trong trường hợp xấu nhất là công ty phải thanh lý hay phá sản, cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi công ty đã trang trải xong các khoản nghĩa vụ khác (như thuế, nợ ngân hàng hay trái phiếu…). Cổ phiếu là công cụ tài chính không có thời hạn, các cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có thể chia thành hai loại cổ phiếu cơ bản: Cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.  Cổ phiếu phổ thông: Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu điển hình nhất. Nếu một công ty chỉ được phát hành một loại cổ phiếu, nó sẽ phát hành cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu phổ thông mang lại các quyền sau cho các cổ đông: Quyền hưởng cổ tức Cổ tức là phần lợi nhuận của công ty dành để trả cho những người chủ sở hữu. Cổ tức có thể được trả bằng tiền (dạng phổ biến nhất), cũng có thể được trả bằng cổ phiếu. Cổ phiếu phổ thông không quy định mức cổ tức tối thiểu hay tối đa mà cổ đông được nhận. Việc có trả cổ tức hay không, tỷ lệ và hình thức chi trả cổ tức cho cổ đông phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và chính sách của công ty, chính sách này do đại hội đồng cổ đông quyết định. Quyền mua cổ phiếu mới Khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới để tăng vốn, các cổ đông hiện đang nắm giữ cổ phiếu phổ thông có quyền được mua trước cổ phiếu mới, trước khi đợt phát hành được chào bán ra công chúng, trong một thời hạn nhất định. Lượng cổ phiếu mới được mua theo quyền này tương ứng với lỷ lệ cổ phiếu đang nắm giữ. Như vậy quyền này cho phép cổ đông hiện hữu duy trì tỷ lệ sở hữu của mình trong công ty sau khi công ty đã tăng thêm vốn. Mỗi cổ phiếu đang nắm giữ mang lại cho cổ đông một quyền mua trước. Số lượng quyền cần có để mua cổ phiếu mới sẽ được quy định cụ thể trong từng đợt chào bán, cùng với giá mua, thời hạn của quyền mua và ngày phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu bán theo quyền thường có mức giá thấp hơn so với giá thị trường hiện hành. Khi cổ đông thực hiện quyền, công ty sẽ huy động được thêm vốn. Nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì có thể bán quyền trên thị trường. Quyền bỏ phiếu Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Cổ đông phổ thông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ quản lý trong công ty, có quyền tham gia các đại hội cổ đông và bỏ phiếu quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Nếu không tham gia được, cổ đông có thể ủy quyền cho người khác thay mặt họ biểu quyết theo chỉ thị của họ hoặc tùy ý người được ủy quyền. Tùy theo quy định, mỗi cổ đông có thể được bỏ số phiếu tối đa cho mỗi ứng cử viên bằng số cổ phiếu nắm giữ, hoặc được dồn toàn bộ số phiếu có thể chi phối (bằng tổng số phiếu nhân với số ứng cử viên) để bầu cho một (hoặc hơn) ứng cử viên. Cách thứ hai có lợi cho các cổ đông nhỏ, vì tuy có ít phiếu bầu nhưng lại có thể tập trung phiếu để tăng thêm giá trị quyền bỏ phiếu của mình. Ngoài những quyền lợi cơ bản về kinh tế trên đây, cổ đông phổ thông còn có những quyền pháp lý khác nữa, như quyền được kiểm tra sổ sách của công ty khi cần thiết, được yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường…  Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi dành cho cổ đông nắm giữ nó những ưu đãi so với cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm hai loại chính là ưu đãi về cổ tức và ưu đãi quyền biểu quyết. Cổ phiếu ưu đãi cổ tức ấn định một tỷ lệ cổ tức tối đa so với mệnh giá, hay một mức cổ tức tuyệt đối tối đa. Trong điều kiện công ty hoạt động bình thường, cổ đông ưu đãi sẽ đc hưởng mức cổ tức này, vì thế thu nhập từ cổ tức của cổ phiếu ưu đãi hầu như là cố định. Đổi lại điều đó, cổ đông ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Trong trường hợp công ty không có đủ lợi nhuận để trả theo tỷ lệ đó, công ty sẽ trả theo khả năng có thể. Đặc biệt khi thua lỗ, công ty có thể không trả cổ tức ưu đãi, và khi mà cổ đông ưu đãi chưa được trả cổ tức thì cổ đông phổ thông cũng chưa được trả. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trong trường hợp công ty thanh lý tài sản, cổ đông ưu đãi được ưu tiên nhận lại vốn trước cổ đông phổ thông, nhưng sau người có trái phiếu. Cổ phiếu ưu đãi cũng có thể kèm theo đó những điều khoản để tăng thêm tính hấp dẫn của nó. Cổ phiếu ưu đãi cộng dồn quy định rằng nếu chưa trả cổ tức cho cổ đông ưu đãi thì xem như công ty còn mắc nợ, cho đến khi nào có đủ lợi nhuận để trả, và tất nhiên cho tới khi đó, khi trả hết cổ tức kể cả cộng dồn của cổ phiếu ưu đãi thì cổ đông phổ thông mới nhận được cổ tức. Cổ phiếu ưu đãi tham dự cho phép cổ đông ưu đãi được chia sẻ thành quả hoạt động của công ty khi công ty làm ăn phát đạt. Cổ đông sẽ được nhận mức cổ tức cao hơn mức tối đa đã quy định nếu cổ tức thường vượt quá một mức nhất định. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi cho phép cổ đông, trong những điều kiện cụ thể có thể chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường. Tỷ lệ và điều kiện chuyển đổi thì được quy định cụ thể tùy theo trong điều lệ của từng công ty. Ngoài cổ phiếu ưu đãi về cổ tức còn có cổ phiếu ưu đãi về quyền biểu quyết. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lợi tức của cổ phiếu Lợi tức của cổ phiếu bao gồm cổ tức và lãi vốn. Cổ tức là một phần trong lợi nhuận của doanh nghiệp dành chia cho cổ đông, được gọi là thu nhập của cổ đông. Trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi, nói chung cổ tức là không cố định. Tuy nhiên mức độ cao thấp của cổ tức cũng như tính chất ổn định tương đối của việc chi trả cổ tức giữa các ngành và các công ty trong từng ngành có sự khác nhau. Lãi vốn là khoản chênh lệch giữa giá thu được khi bán cổ phiếu và giá đã mua vào. Lãi vốn cấu thành một phần quan trọng trong tổng lợi tức mà cổ phiếu đem lại cho cổ đông. Tuy nhiên, chỉ khi nào giá cổ phiếu tăng lên thì mới có lãi vốn. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống thì sẽ gây lỗ vốn. Vì thế người đầu tư cũng phải quan tâm tới khả năng tăng giá của cổ phiếu. Giữa mức cổ tức được chi trả và khả năng tăng giá của cổ phiếu không có mối liên hệ cố định. Có loại cổ phiếu có mức trả cổ tức cao và ổn định nhưng tiềm năng tăng giá lại ít, trái lại có loại cổ phiếu trả cổ tức thấp, thậm chí không trả cổ tức nhưng lại hứa hẹn khả năng tăng giá cao. Tùy theo mục tiêu và mức độ chấp nhận rủi ro của từng nhà đầu tư mà có thể lựa mua những loại cổ phiếu mà những đặc điểm về khả năng đem lại lợi tức là khác nhau 1.1.1.2.Trái phiếu Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu là loại công cụ nợ quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong một khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Trái phiếu có những đặc trưng quan trọng sau: Người phát hành: Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Có hai loại người phát hành trái phiếu chính là chính phủ (trung ương và địa phương) và công ty. Chính phủ là người phát hành đáng tin cậy nhất do có được những điều kiện đảm bảo cao nhất cho việc hoàn trả gốc và trả lãi. Còn trong khu vực công ty thì người phát hành có nhiều loại, mỗi loại có khả năng khác nhau trong việc đáp ứng các nghĩa vụ đã thỏa thuận với người cho vay. Nói cách khác, có thể coi rủi ro thanh toán của trái phiếu chính phủ là bằng 0, còn các trái phiếu công ty khác nhau có mức độ rủi ro thanh toán khác nhau. Ngoài rủi ro thanh toán, trái phiếu chính phủ vẫn phải chịu các loại rủi ro khác giống như bất kỳ một loại trái phiếu công ty nào như rủi ro lãi suất, rủi ro lạm phát… Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Thời gian đáo hạn của trái phiếu là thời gian mà người phát hành hứa hẹn đáp ứng những điều kiện của nghĩa vụ. Ngày đáo hạn của trái phiếu là ngày chấm dứt sự tồn tại của khoản nợ, người phát hành trái phiếu sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả khoản vay gốc. Nói chung những trái phiếu có thời hạn từ 1 đến 5 năm được gọi là trái phiếu ngắn hạn, từ 5 đến 10 năm là trái phiếu trung hạn, trên 10 năm là trái phiếu dài hạn. Thời gian đáo hạn của trái phiếu quan trọng vì 3 lý do sau: Nó cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu có thể mong đợi nhận được các khoản thanh toán lãi định kỳ, và cho biết số năm trước khi khoản vay gốc được hoàn trả toàn bộ. Lợi tức của một trái phiếu tùy thuộc vào thời hạn của nó. Giá của trái phiếu sẽ biến đổi khác nhau qua quãng đời của nó, nó cũng thay đổi khi lãi suất thay đổi, tính biến động của giá trái phiếu cũng có mối quan hệ mật thiết với thời gian đáo hạn còn lại của nó. Nếu các yếu tố khác không đổi, thời gian đáo hạn càng dài, tính biến động giá của trái phiếu càng lớn trước một sự thay đổi của lãi suất thị trường. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Mệnh giá và lãi suất cuống phiếu: Mệnh giá của một trái phiếu là một khối lượng tiền được ghi trên mặt trái phiếu mà người phát hành đồng ý hoàn trả cho người nắm giữ trái phiếu tại thời điểm đáo hạn. Lãi suất cuống phiếu còn gọi là lãi suất danh nghĩa là lãi suất người phát hành đồng ý trả mỗi năm. Khối lượng lãi hằng năm được trả cho người sở hữu trái phiếu trong suốt thời hạn của trái phiếu được gọi là lãi cuống phiếu. Lãi suất cuống phiếu đem nhân với mệnh gía trái phiếu sẽ cho lãi cuống phiếu. Thông thường tất cả các trái phiếu đều trả lãi cuống phiếu theo định kỳ, mỗi năm một hoặc hai lần, trừ loại trái phiếu không trả lãi định kỳ (zero – coupon bond). Người nắm giữ trái này được nhận tiền lãi do việc mua trái phiếu với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Khi trái phiếu đáo hạn, lãi sẽ được trả, chính bằng khoản chênh lệch giữa mệnh giá trái phiếu với giá đã trả để mua trái phiếu đó. Cũng có cả trái phiếu với lãi suất thả nổi với lãi suất cuống phiếu được định kỳ ấn định lại theo một chuẩn mực nào đó đã được định trước. Ngoài việc cho biết các khoản thanh toán lãi cuống phiếu mà người đầu tư có thể nhận được trong thời hạn của trái phiếu, lãi suất cuống phiếu còn chỉ ra mức độ mà theo đó giá của trái phiếu sẽ chịu tác động của những thay đổi lãi suất. Nếu các yếu tố khác không đổi, lãi suất cuống phiếu càng cao, giá trái phiếu càng ít thay đổi trước một thay đổi của lãi suất. Kết quả là lãi suất trái phiếu và thời gian đáo hạn có những hiệu ứng ngược chiều đối với tính biến động giá của một trái phiếu. Phân loại trái phiếu: Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu ko mang tên trái chủ, cả trên bề mặt trái phiếu cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi dính theo tờ trái phiếu, khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc cắt ra và mang tới nơi đã quy định trước để nhận lãi, khi trái phiếu đáo hạn Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp người nắm giữ nó chỉ việc cầm trái phiếu đến ngân hàng để nhận lại khoản cho vay. Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ trên cả bề mặt trái phiếu cũng như trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính. Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành. Chính phủ phát hành trái phiếu (hay các công cụ nợ nói chung) nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại chứng khoán có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó nên lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ để ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn. Trái phiếu công trình là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ hay chính quyền địa phương phát hành. Trái phiếu công ty: là những loại trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Đặc điểm chung của trái phiếu công ty là: Người nắm giữ trái phiếu được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức bảo đảm cho khoản vay. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trái phiếu công ty cũng bao gồm nhiều loại: Trái phiếu có bảo đảm: là loại trái phiếu được đảm bảo bằng những loại tài sản thế chấp cụ thể. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty bị phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. Tài sản thế chấp thường là bất động sản, các thiết bị… Trái phiếu không bảo đảm: là loại trái phiếu tín chấp không được bảo đảm bằng tài sản của công ty mà được bảo đảm bằng uy tín của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước các cổ đông. Trái phiếu chuyển đổi: các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tùy theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể, xác định. Ngoài các đặc trưng chính như trên, còn có thể có một số loại trái phiếu có tính chất riêng biệt như: Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà có quy định cứ định kỳ (6 tháng hay một năm, hai năm…) lại ấn định lại lãi suất theo lãi suất thị trường. Loại trái phiếu này được phát hành trong những khoảng thời gian có những biến động mạnh về lãi suất thị trường, để hạn chế thiệt hại cho hai bên tham gia vay mượn. Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu cho phép người vay (người phát hành) trong những điều kiện nhất định có thể mua lại toàn bộ hay một phần trái phiếu đã phát hành, tức là trả lại vốn cho người cho vay trước khi trái phiếu hết hạn. Khi đó, các dòng thanh toán của trái phiếu sẽ kết thúc sớm hơn so với thời hạn của trái phiếu. Trái phiếu có thể bán lại: là loại trái phiếu cho phép người mua trái phiếu trong những điều kiện nhất định có thể bán lại trái phiếu cho người Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp phát hành, thu hồi vốn trước khi trái phiếu đáo hạn. Cũng như trường hợp trên, việc bán lại trái phiếu sẽ phá vỡ dự kiến về các dòng thanh toán nhận được từ trái phiếu trong điều kiện bình thường. Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép người mua trai phiếu trong những điều kiện nhất định có thể đổi trái phiếu lấy cổ phiếu thường, theo một tỷ lệ và mức giá đã ấn định. 1.1.1.3.Chứng chỉ Quỹ. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Tùy theo loại hình của quỹ mà có các cách phân chia thành các loại chứng chỉ quỹ khác nhau, và đặc điểm của các loại chứng chỉ đó cũng khác nhau. Dựa theo hình thái vận động của vốn, có thể phân thành quỹ đóng và quỹ mở. Trong quỹ đóng, các chứng chỉ quỹ chỉ được phát hành một lần, với một số lượng xác định. Quỹ không mua lại chứng chỉ quỹ cũng như phát hành bổ xung. Các chứng chỉ quỹ sẽ được giao dịch trên thị trường tập trung giống như bất kỳ một loại chứng khoán niêm yết nào khác. Trái lại, quỹ đầu tư dạng mở liên tục phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, số lượng chứng chỉ quỹ có thể không hạn chế. Quỹ sẵn sàng mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có nhu cầu bán. Chứng chỉ quỹ của quỹ mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được ủy quyền của quỹ. Khi mua cổ phần của quỹ hoặc chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mặc dù chỉ với lượng vốn khiêm tốn, đương nhiên sở hữu một phần trong danh mục đầu tư đa dạng hóa. Hiệu quả đầu tư được nâng lên do nhiều yếu tố: giảm rủi ro, chi phí, kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp. Ngoài ra, việc lựa chọn một quỹ theo loại chứng khoán mà nó đầu tư còn giúp cho nhà đầu tư có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó như tránh thuế, bảo toàn vốn, tăng trưởng vốn hay thu nhập thường xuyên. Hơn nữa, các quỹ đầu tư có thể giúp cung Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp cấp nhiều loại dịch vụ khác cho người thụ hưởng. Người chủ sở hữu chứng chỉ quỹ có thể có lợi nhuận theo các cách như sau:  Nhận cổ tức của quỹ. Khoản cổ tức này được tri trả từ các khoản thu nhập từ đầu tư của quỹ như cổ tức của cổ phiếu, tiền lãi của trái phiếu…  Nhận được khoản lợi vốn (hoặc lỗ vốn) khi nhà quản lý quỹ bán ra một phần trong danh mục đầu tư của quỹ để thu lợi nhuận.  Được hưởng lợi do những thay đổi có lợi trong giá trị thị trường. Ngoài ra còn có thể tái đầu tư những khoản phân phối từ cổ tức hay lợi vốn vào quỹ, tức là có thêm cổ phần của quỹ và tiếp tục được hưởng những lợi ích như trên đối với những cổ phần mới này. 1.1.1.4.Chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh bao gồm một số loại cơ bản như sau: Quyền mua cổ phần: hay còn được gọi là quyền mua trước là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn giá phát hành ra công chúng và trong một thời hạn nhất định. Mức giá phát hành này luôn thấp hơn mức giá hiện hành của chứng khoán tại thời điểm quyền được phát hành là vì để tránh rủi ro giảm giá chứng khoán trong đợt phát hành, điều này có thể đe dọa tới thành công của đợt phát hành ngoài ra mức ra thấp hơn còn làm tăng thêm tính hấp dẫn của đợt phát hành. Mỗi cổ phần đang lưu hành thường đi kèm theo một quyền. Số lượng quyền cần thiết để mua một cổ phần mới sẽ được quy định cụ thể tùy theo từng đợt phát hành. Nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì họ có thể bán chúng trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp thể lên hoặc xuống trong khoảng thời gian chào bán, do giá của cổ phiếu trên thị trường tăng hoặc giảm. Chứng quyền: Chứng quyền là loại chứng khoán cho phép người nắm giữ nó có quyền được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn xác định. Quyền này thường được phát hành lại khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty nhằm vào mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Chứng quyền khác với quyền chọn mua là ở đặc điểm cách thức phát hành và thời hạn của chứng quyền. Nếu như quyền chọn mua chỉ có hiệu lực trong vài tháng thì chứng quyền có hiệu lực dài hơn thậm chí là vĩnh viễn. Các chứng quyền do các công ty phát hành chứng khoán cơ sở phát hành, khi được thực hiện, chúng tạo thành dòng tiền vào cho công ty và làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường. Phần lớn chứng quyền sau một khoảng thời gian nhất định có thể tách rời các chứng khoán cơ sở và khi đó chúng có thể được giao dịch riêng biệt trên thị trường. Với tư cách là người sở hữu chứng quyền, nhà đầu tư không có quyền cổ đông trong công ty, không có quyền nhận cổ tức và không được quyền biểu quyết. Các điều khoản của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ chứng quyền: Số cổ phiếu được mua theo mỗi chứng quyền, giá thực hiện và ngày hết hạn hiệu lực của chứng quyền. Hợp đồng kỳ hạn: là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Trong hợp đồng kỳ hạn chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng hóa đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp hàng có thể thay đổi so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết thực hiện hợp đồng ở mức giá đã xác định trước. Như vậy, bằng việc tham gia vào hợp đồng kỳ hạn cả hai bên đều có thể hạn chế được rủi tiềm năng cũng như hạn chế được lợi nhuận tiềm năng của mình. Hợp đồng tương lai: Là một thỏa thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hóa nào đó tại một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi. Trước năm 1972, chỉ có những hợp đồng tương lai lien quan tới những nông sản truyền thống như ngũ cốc, cà phê, cacao…được giao dịch. Chúng được gọi chung là hợp đồng tương lai hàng hóa. Các hợp đồng tương lai dựa trên cơ sở một công cụ tài chính hay chỉ số tài chính được gọi là hợp đồng tương lại tài chính, bao gồm hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, hợp đồng tương lai lãi suất, hợp đồng tương lai tiền tệ. Hợp đồng quyền chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa tại một mức giá xác định và trong một thời hạn xác định. Các hàng hóa cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai. Một hợp đồng quyền chọn bất kỳ đều bao gồm bốn đặc điểm cơ bản sau:  Loại quyền (quyền chọn bán hoặc chọn mua)  Tên hàng hóa cơ sở và khối lượng được mua hoặc bán theo quyền  Ngày hết hạn  Giá thực hiện Người bán quyền, trao quyền cho người mua để đổi lấy một khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền. Mức giá mà tại đó công cụ này có thể được mua hoặc được bán gọi là giá thực hiện quyền. Ngày mà sau đó Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp quyền hết giá trị gọi là ngày hết hạn. Một quyền chọn Mỹ có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào cho đến ngày đáo hạn và bao gồm cả ngày hết hạn. Một quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ có thể được thực hiện vào ngày hết hạn. Trên đây là một số loại chứng khoán phái sinh cơ bản, các loại chứng khoán này chỉ phát triển ở những nước có TTCK phát triển, và là những sản phẩm mới của TTCK cần được phát triển trong thời gian tới. 1.1.2.Công ty chứng khoán. 1.1.2.1.Khái niệm, vai trò của công ty chứng khoán. Khái niệm: Công ty chứng khoán là tổ chức cung cấp các dịch vụ chứng khoán. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP theo quy định của Luật doanh nghiệp. UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK. Giấy phép này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây:  Môi giới chứng khoán;  Tự doanh chứng khoán;  Bảo lãnh phát hành chứng khoán;  Tư vấn đầu tư chứng khoán. CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh quy định trên, CTCK được cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Chức năng cơ bản của CTCK:  Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành) Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp  Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh)  Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt, và từ tiền mặt thành chứng khoán một cách dễ dàng).  Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường). Vai trò của CTCK: Với những đặc điểm trên, CTCK có vai trò khác nhau đối với các chủ thể khác nhau trên TTCK. Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu khi tham gia thị trường của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Vì vậy thông qua hoạt động làm đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK. Đối với các nhà đầu tư: thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn, đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm thời gian và chi phí giao dịch, do đó nâng cao được hiệu quả của các khoản đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến đổi thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho các nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu trước khi ra quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả. Đối với TTCK: thì CTCK có hai vai trò chính: Thứ nhất là góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK. Các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường. Thứ hai là góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản chính. TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện các hoạt động như đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành các CTCK không những đã huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các loại chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán, giao dịch trên thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, do đó tính thanh khoản của chứng khoán được tăng lên. Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đối với các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK có vai trò cung cấp các thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý TTCK để thực hiện các mục tiêu. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK các thông tin cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin này vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành, các cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK. Những vai trò này được thể hiện cụ thể thông qua nghiệp vụ hoạt động của CTCK. 1.1.2.2.Mô hình, tổ chức của CTCK. Mô hình công ty chứng khoán. Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay là: Nguyễn Phương Thảo Lớp: Tài chính công 46
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan