PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề chăn nuôi gà của nước ta đã có lịch sử rất lâu đời nhưng do tập
quán chăn nuôi lạc hậu cho nên người nông dân chăn nuôi chủ yếu theo
phương thức quảng canh, phân tán, số lượng không nhiều, sản phẩm làm ra
mang tính tự cung tự cấp. Nhưng từ năm 1970 trở lại đây nghề nuôi gà có
những bước tiến nhanh và vững chắc. Từ phương thức chăn nuôi phân tán
quảng canh chuyển sang phương thức tập trung có quy mô như sự hình thành
các trang trại, gia trại và nông hộ nuôi gà, đồng thời ứng dụng tiến bộ khoa
học kĩ thuật chăn nuôi tiên tiến trên thế giới vào sản xuất nên đã đẩy nhanh
tốc độ phát triển đàn gà, khuyến khích dịch chuyển chăn nuôi trang trại công
nghiệp lên các vùng trung du miền núi, vùng còn nhiều quỹ đất, mật độ chăn
nuôi thấp, dân cư thưa, khuyến khích chuyển đổi các vùng đất trống, trồng
trọt kém hoặc dưới tán cây ăn quả để chăn nuôi gà vườn đồi. Đây chính là
một hướng xóa đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng thực
hiện và đã có những thành công bước đầu. Trong chiến lược phát triển nông
nghiệp toàn diện, xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá bền vững, Bắc Giang
khuyến khích phát triển nghề chăn nuôi gà đồi về tất cả quy mô, năng suất và
chất lượng. Những năm qua nghề chăn nuôi gà đồi đã góp phần xoá đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống cho hàng nghìn hộ dân trong tỉnh.
Yên Thế là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang. Với đặc điểm đất
đai đa dạng, huyện có khả năng phát triển chăn nuôi gia cầm cũng như cây
lương thực và các loại cây ăn quả, cây màu, cây công nghiệp có giá trị. Thực
hiện chương trình sản xuất nông nghiệp hàng hóa, phát huy lợi thế vùng, hiện
nay huyện đang tập trung phát triển chăn nuôi gà đồi. Sự phát triển chăn nuôi
gà đồi tại huyện không những đã góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn làm
cho Yên Thế trở thành vùng chăn nuôi gà theo quy mô lớn, mang đặc điểm
của sản xuất hàng hóa.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nghề chăn nuôi gà
đồi còn tồn tại một số khó khăn do trình độ hiểu biết và tiếp cận khoa học kỹ
thuật (KHKT) của các hộ nông dân còn hạn chế, nghề chăn nuôi nói chung, chăn
nuôi gà đồi nói riêng của huyện chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khách
quan như dịch bệnh, thị trường…Do đó, việc nghiên cứu phát triển, đánh giá
hiệu quả kinh tế, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển chăn nuôi gà
đồi, tìm hiểu rõ thực trạng nghề chăn nuôi gà đồi tại địa phương từ đó có cơ
sở đưa ra một số giải pháp phù hợp để giải quyết các khó khăn đó tạo điều
kiện cho nghề chăn nuôi gà vườn đồi tại địa phương ngày càng phát triển là
việc rất cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu phát triển chăn nuôi gà đồi của hộ nông dân huyện Yên
Thế, tỉnh Bắc Giang”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tiềm năng và các yếu tố ảnh hưởng đến
chăn nuôi gà đồi của hộ nông dân, đề xuất một số giải pháp phát triển chăn
nuôi gà đồi của hộ nông dân huyện Yên Thế, Bắc Giang.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
-Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển chăn nuôi
gà đồi của hộ nông dân.
- Đánh giá thực trạng phát triển chăn nuôi gà đồi của hộ nông dân
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển chăn nuôi gà đồi ở
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển chăn nuôi gà đồi của hộ
nông dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Tình hình phát triển chăn nuôi gà đồi của các hộ nông dân huyện Yên
Thế hiện nay như thế nào?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà
đồi của hộ nông dân trong huyện?
- Những thuận lợi, khó khăn và thách trong phát triển chăn nuôi gà đồi
của hộ nông dân trong huyện?
- Làm thế nào để nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững chăn nuôi
gà đồi của hộ nông dân huyện Yên Thế?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển chăn nuôi gà đồi của hộ nông dân huyện Yên
Thế, cụ thể:
- Theo quy mô: Lớn, trung bình, nhỏ.
- Theo đặc thù của hộ nuôi: Hộ kiêm ngành nghề, hộ thuần nông.
- Theo giống gà nuôi: Gà lai, gà ta.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
a. Về nội dung
Thực trạng phát triển chăn nuôi gà đồi của hộ nông dân huyện Yên
Thế, tỉnh Bắc Giang.
b. Về không gian
Đề tài thực hiện trên địa bàn huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.Các nội
dung chuyên sâu được khảo sát tại các hộ nông dân điển hình ở 2 xã đại diện,
đó là xã Phồn Xương và xã Tam Tiến
c. Về thời gian
- Thời gian nghiên cứu đề tài: số liệu thứ cấp được thu thập trong 3
năm 2008, 2009, 2010. Số liệu sơ cấp được thu thập trong thời gian hộ chăn
nuôi gà đồi lứa gần nhất.
- Thời gian thực hiện đề tài: từ ngày 09/01/2011 đến ngày 23/05/2011.
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI GÀ ĐỒI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lý luận về phát triển phát triển kinh tế, phát triển chăn nuôi, phát triển bền
vững
Phát triển
Hiện nay đang tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về phát triển. Trong
phạm trù triết học, phát triển là một thuộc tính phân biệt của vật chất. Sự vật
và hiện tượng của hiện thực không trong trạng thái bất biến, mà phải trải qua
một loạt các trạng thái từ khi xuất hiện cho đến lúc tiêu vong. Phạm trù phát
triển thể hiện tính chất chung của tất cả những biến đổi ấy. Điều đó có nghĩa
là bất kỳ một sinh vật, hiện tượng, một hệ thống, cũng như cả thế giới nói
chung không đơn giản chỉ là biến đổi, mà luôn chuyển sang những trạng thái
mới, tức là những trạng thái trước đây chưa từng có và không bao giờ lặp lại
hoàn toàn chính xác những trạng thái đã có, bởi vì trạng thái của bất kỳ sinh
vật hay hệ thống nào cũng đều được quy định không chỉ bởi các mối quan hệ
bên trong, mà còn bởi các mối liên hệ bên ngoài. Tuy có rất nhiều khái niệm
và quan điểm khác nhau về phát triển nhưng có thể hiểu theo nghĩa chung
nhất về phát triển là việc làm ra nhiều sản phẩm hơn cái vốn có của sự vật,
hiện tượng, làm phong phú về chủng loại cũng như thay đổi chất lượng tùy
vào người sử dụng.
Phát triển kinh tế
Có thể hiểu phát triển kinh tế là một quá trình biến đổi nền kinh tế quốc
dân bằng một sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống của dân cư. Đối với
các nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình mà nền kinh tế
chậm phát triển thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo, thực hiện CNH- HĐH. Đó là sự
tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế,
văn hóa, pháp luật, thậm chí về kĩ năng quản lí, phong tục và tập tục. Tăng
trưởng kinh tế là tiền đề và điều kiện tất yếu của phát triển kinh tế, nhưng
không đồng nghĩa với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tăng thu nhập
và sản phẩm bình quân đầu người. Phát triển kinh tế bao gồm cả sự tăng về
qui mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội.
Phát triển nông nghiệp bền vững
Cho ®Õn nay cã rÊt nhiÒu ®Þnh nghÜa vÒ sù ph¸t
triÓn bÒn v÷ng, trong ®ã ®Þnh nghÜa ®-îc nh¾c ®Õn
nhiÒu nhÊt lµ ®Þnh nghÜa cña Uû ban ThÕ giíi vÒ M«i
tr-êng & Ph¸t triÓn ®a ra n¨m 1987:” Ph¸t triÓn bÒn
v÷ng lµ sù ph¸t triÓn ®¸p øng nhu cÇu hiÖn t¹i mµ
kh«ng lµm tæn h¹i ®Õn kh¶ n¨ng ®¸p øng nhu cÇu cña
thÕ hÖ t¬ng lai “. Ngµy nay kh¸i niÖm bÒn v÷ng ph¶i
nh¾ h-íng tíi: bÒn v÷ng vÒ kinh tÕ bÒn v÷ng vÒ chÝnh
trÞ, x· héi vµ bÒn v÷ng vÒ m«i tr-êng. VÒ ph¸t triÓn
n«ng nghiÖp bÒn v÷ng ta cã thÓ dÉn ra ®Þnh nghÜa cña
TAC/CGIAR (Ban cè vÊn kü thuËt thuéc nhãm chuyªn gia
quèc tÕ vÒ nghiªn cøu n«ng nghiÖp): “ N«ng nghiÖp
bÒn v÷ng ph¶i bao hµm sù qu¶n lý thµnh c«ng tµi
nguyªn n«ng nghiÖp nh»m tho¶ m·n nhu cÇu cña con
ng-êi ®ång thêi c¶i tiÕn chÊt l-îng m«i tr-êng vµ
g×n gi÷ ®-îc tµi nguyªn nhiªn nhiªn
Nh- vËy lµ sù ph¸t triÓn bÒn v÷ng lu«n lu«n bao gåm
c¸c mÆt:
- Khai th¸c sö dông hîp lý nhÊt tµi nguyªn thiªn
nhiªn hiÖn cã ®Ó tho¶ m·n nhu cÇu ¨n ë cña con
ng-êi.
- G×n gi÷ chÊt l-îng tµi nguyªn thiªn nhiªn cho
c¸c thÕ hÖ sau.
- T×m c¸ch båi d-ìng t¸i t¹o n¨ng l-îng tù nhiªn
th«ng qua viÖc t×m c¸c n¨ng l-îng thay thÕ, nhÊt lµ
n¨ng l-îng sinh häc (chu tr×nh sinh häc).
Trong ®Þnh nghÜa trªn, còng cÇn ph¶i l-u ý ®Õn môc
tiªu mµ nã ph¶i ®¹t, ®ã lµ:
- Kinh tÕ sèng ®éng
- Kü thuËt thÝch hîp
- X· héi tiÕp nhËn
§Þnh nghÜa nµy suy réng ra cßn nãi ®-îc mèi quan
hÖ x· héi, tr×nh ®é ph¸t triÓn kinh tÕ víi c¸c biÖn
ph¸p kü thuËt ®-îc ¸p dông.
Phát triển chăn nuôi
Khi nói đến phát triển chăn nuôi, người ta thường quan tâm đến các
khía cạnh: số lượng, chất lượng, hình thức tổ chức chăn nuôi và phương
thức chăn nuôi.
Phát triển về mặt số lượng: số lượng hay quy mô vật nuôi phụ thuộc vào
mục tiêu chăn nuôi hay nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi. Với mục
tiêu chăn nuôi để giải quyết vấn đề thực phẩm gia đình thì người chăn nuôi
không nuôi số lượng lớn và không quan tâm đến hạch toán chi phí. Với mục
tiêu hàng hóa thì số lượng vật nuôi đưa vào chăn nuôi lớn hơn nhiều so với
chăn nuôi để giải quyết thực phẩm gia đình. Chăn nuôi là ngành có lợi thế
kinh tế nhờ quy mô.
Quy mô chăn nuôi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố quan
trọng nhất là: mặt bằng sản xuất, vốn đầu tư, trình độ chuyên môn kỹ thuật
của người chăn nuôi. Các hộ chăn nuôi có những điều kiện tốt về mặt bằng
sản xuất, vốn đầu tư, khả năng tiêu thụ sản phẩm, có chuyên môn kỹ thuật cao
sẽ thuận lợi trong việc phát triển chăn nuôi với số lượng lớn và ngược lại.
Phát triển về mặt chất lượng: chất lượng phát triển chăn nuôi có thể được
đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau như: sự tăng trưởng ổn định trong
một thời kỳ nhất định; khả năng chiếm lĩnh thị trường và khả năng cạnh tranh
trên thị trường; năng suất lao động đạt được khi phát triển chăn nuôi, lợi ích
thu được của người chăn nuôi và của cộng đồng xã hội.
Chất lượng phát triển chăn nuôi cũng phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có
các yếu tố quan trọng là: khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
trong chăn nuôi của người chăn nuôi là cao hay thấp; chất lượng sản phẩm
chăn nuôi cung cấp ra thị trường cao hay thấp; thu nhập và lợi nhuận tính trên
một đơn vị sản phẩm cao hay thấp; tổng thu nhập và lợi nhuận thu được của
người chăn nuôi cao hay thấp…
Các hình thức tổ chức chăn nuôi:chăn nuôi có nhiều hình thức tổ chức
sản xuất khác nhau phụ thuộc mục tiêu chăn nuôi, các yếu tố về nguồn lực, thị
trường tiêu thụ sản phẩm và các yếu tố khác. Nghiên cứu về các hình thức tổ
chức chăn nuôi ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu chia thành 2 nhóm
chăn nuôi là chăn nuôi nhỏ lẻ và chăn nuôi tập trung.
Chăn nuôi nhỏ lẻ hiện nay khá phổ biến ở tất cả các vùng sinh thái. Hiện
nay nước ta có khoảng 11 triệu hộ nông dân chăn nuôi gà nhỏ lẻ với mục tiêu
chính là giải quyết thực phẩm gia đình, phần sản phẩm của các hộ chăn nuôi
nhỏ lẻ bán ra thị trường không nhiều và phần lớn chỉ được thực hiện khi các
hộ có nhu cầu chi tiêu tiền mặt với số lượng nhỏ. Chăn nuôi nhỏ lẻ rất tiện
dụng đối với các hộ nông dân nhưng đây lại là hình thức chăn nuôi có hiệu
quả thấp, luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch cúm gia cầm.
Chăn nuôi tập trung được phát triển trong các hộ, các trang trại, doanh
nghiệp có điều kiện về mặt bằng sản xuất, về vốn đầu tư, về nhân lực, công
nghệ và thị trường tiêu thụ. Mục tiêu chính của những người chăn nuôi theo
những hình thức này là chăn nuôi hàng hóa tìm kiếm lợi nhuận. Tại Việt Nam
hiện nay số lượng các chủ hộ, trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi gia cầm tập
trung tuy không nhiều nhưng lại chiếm tỷ trọng đáng kể về sản phẩm hàng
hóa cung cấp cho thị trường xã hội. Phát triển chăn nuôi tập trung sẽ có những
thuận lợi nhất định trong việc hình thành vùng sản xuất hàng hóa và tiện kiểm
soát dịch cúm lây lan.
2.1.2 Các phương thức chăn nuô gà trên thế giới và Việt Nam.
* Phương thức chăn nuôi truyền thống
Là hình thức chăn thả tự nhiên, hình thức chăn nuôi truyền thống hiện
vẫn tồn tại và phát triển hầu hết ở các vùng nông thôn đặc biệt ở các nước
đang phát triển và các nước chậm phát triển. Việt Nam với gần 80% dân số
sống ở nông thôn thì chăn nuôi gà theo hình thức quảng canh vẫn là chủ yếu.
Phương thức chăn nuôi này có đặc điểm: vốn đầu tư ban đầu ít, đàn gà được thả
rông, tự do tìm kiếm thức ăn, tự ấp và nuôi con. Thời gian nuôi gà thịt từ 4 - 5
tháng mới đủ trọng lượng giết thịt. Trọng lượng lúc đủ tuổi giết thịt là 1,3 – 1,5kg.
Do chăn nuôi thả tự do, môi trường chăn nuôi không đảm bảo vệ sinh
khiến đàn gà dễ mắc bệnh, chết rét, tỷ lệ nuôi sống thấp, hiệu quả chăn nuôi
không cao. Tuy nhiên, phương thức chăn nuôi này cho chất lượng thịt rất
thơm ngon, đầu tư thấp, không thích hợp với quy mô chăn nuôi lớn, yêu cầu
chăn nuôi có vườn thả rộng.
Các giống gà phù hợp với phương thức chăn nuôi truyền thống là giống
gà Ri, Đông Tảo, Hồ, Mía,… là những giống cần cù chịu khó kiếm ăn, sức
chống chịu với thời tiết, bệnh tật cao, thịt có hương vị thơm ngon đặc biệt đối
với từng loại gà, từng địa phương.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2004 có tới 65% hộ
gia đình nông thôn chăn nuôi gà theo phương thức này (trong tổng số 7,9 triệu
hộ chăn nuôi gia cầm) với tổng số gà theo thời điểm ước tính khoảng 110-115
triệu con (chiếm khoảng 50-52% tổng số gà xuất chuồng của cả năm).
* Phương thức chăn nuôi công nghiệp
Phương thức này dựa trên cơ sở thâm canh tăng năng suất trên một đơn
vị diện tích chuồng nuôi, dùng các giống gà cao sản để tạo ra sản lượng thịt,
trứng nhiều nhất, hiệu quả cao trong thời gian ngắn nhất, cùng với sự đầu tư
về trang thiết bị, chuồng trại tiên tiến, tự động hoá thao tác, quy trình chăn
nuôi, thức ăn hỗn hợp được chế biến theo phương pháp công nghiệp, điều
kiện, môi trường chăn nuôi đều theo ý muốn chủ quan của con người. Hình
thức chăn nuôi này còn gọi là chăn nuôi theo phương thức công nghiệp.
Phương thức chăn nuôi này có ưu thế là cho sản phẩm nhanh với năng
suất cao, dễ được người chăn nuôi chấp nhận. Các nhà khoa học đã tạo ra một
bước đột phá trong công nghệ sản xuất con giống, thức ăn hỗn hợp để phù
hợp với phương thức chăn nuôi này. Kết quả là rút ngắn ngày nuôi, sản phẩm
được sản xuất ra nhiều hơn, tiêu tốn thức ăn ít hơn cho một đơn vị sản phẩm.
Chăn nuôi gà công nghiệp phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây,
nhưng mạnh nhất là từ 2001 đến nay. Các giống nuôi chủ yếu là các giống cao
sản (Isa, Lomann, Ross, Hiline, ...), sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp,
ứng dụng các công nghệ tiên tiến như chuồng kín, chuồng lồng, chủ động
điều khiển nhiệt độ, ẩm độ, cho ăn uống tự động...Năng suất chăn nuôi đạt
cao: gà nuôi 42-45 ngày tuổi đạt 2,2-2,4 kg/con. Tiêu tốn 2,2-2,3 kg TA/kg
tăng trọng. Gà đẻ đạt 270-280 trứng/năm, tiêu tốn 1,8-1,9 kg TA/10 quả
trứng...Ước tính, chăn nuôi công nghiệp đạt khoảng 18-20% trong tổng sản
phẩm chăn nuôi gà.
Chăn nuôi công nghiệp chủ yếu là hình thức gia công, liên kết của các
trang trại với các doanh nghiệp nước ngoài như C.P Group, Japffa, Cargill,
Proconco. Ngoài ra, rất nhiều hộ nông dân, trang trại có tiềm lực tài chính và
kinh nghiệm chăn nuôi cũng tư chủ đầu tư chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp này.
* Phương thức chăn nuôi gà bán công nghiệp (chăn nuôi gà vườn, gà đồi có
áp dụng tiến bộ kỹ thuật)
Đây là phương thức chăn nuôi có sự kết hợp những kinh nghiệm nuôi
gà truyền thống với chăn nuôi theo quy trình có áp dụng tiến bộ kỹ thuật tiên
tiến qua các giai đoạn. Phương thức chăn nuôi này xuất hiện từ nhu cầu thực
tế của xã hội đòi hỏi càng nhiều về số lượng sản phẩm nhưng chất lượng sản
phẩm cao, hương vị sản phẩm thơm ngon. Đây là sự kết hợp của hai phương
thức chăn nuôi truyền thống và công nghiệp.
Phương thức chăn nuôi này là sự kết hợp tiến bộ kỹ thuật về con giống
nuôi năng suất cao và chất lượng thịt thơm ngon với thức ăn sử dụng là thức
ăn hỗn hợp, kết hợp với thức ăn sẵn có ngoài tự nhiên. Khi chăn nuôi gà theo
phương thức này, thời gian 1,5 - 2 tháng đầu gà được nuôi nhốt hoàn toàn và
cho ăn thức ăn công nghiệp (nuôi úm). Ở giai đoạn 1 tháng trước khi xuất
chuồng, gà được thả vườn, đồi, cho ăn thức ăn hỗn hợp cùng với thức ăn bổ
sung như ngô, cám gạo, cám mạch, rau xanh… để nâng cao chất lượng, làm
cho thịt chắc, giảm bớt mỡ, nước do nuôi công nghiệp trong giai đoạn đầu.
Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường tự nhiên, có sự can thiệp
hợp lý của con người nhằm đảm bảo tỷ lệ nuôi sống cao, đàn gà phát triển tốt,
hiệu quả chăn nuôi cao hơn hình thức chăn nuôi quảng canh. Thời gian nuôi
một lứa gà theo phương thức này cho đến khi xuất chuồng là 65 – 70 ngày với
trọng lượng xuất chuồng từ 1,8 – 2,4kg.
Mục tiêu phương thức này mang đậm tính sản xuất hàng hóa chứ không
thuần tuý là sản xuất tự cấp tự túc. Gần đây, phương thức chăn nuôi này được
áp dụng tại nông thôn đồng bằng, trung du, ven đô và được nuôi dưới các
hình thức chăn nuôi: tập trung, bán công nghiệp, thả vườn với con giống phù
hợp với điều kiện khí hậu, cơ sở vật chất, phong tục tập quán từng vùng, tạo
ra sản phẩm có chất lượng cao, duy trì được hương vị truyền thống và đáp
ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
2.1.3 Lý luận về kinh tế hộ nông dân
2.1.2.1. Các khái niệm cơ bản
a. Khái niệm về hộ
Tại hội thảo quốc tế về quản lý trang trại nông nghiệp năm 1980, trên quan
điểm sản xuất, tiêu dùng các đại biểu đã thống nhất cho rằng: “Hộ là đơn vị cơ bản
của xã hội, có liên quan đến các hoạt động sản xuất, tái sản xuất, tiêu dùng và các
hoạt động khác”.
Trên phương diện thống kê, Liên hiệp quốc khái niệm: “Hộ là những người
sống chung dưới một mái nhà, ăn chung và có chung ngân quỹ”
Khi nghiên cứu quá trình đô thị hoá ở Châu Á, Giáo sư MC.Gree (1989)
nguyên giám đốc học viện Châu Á, thuộc trường đại học CoLumbia (Hoa kỳ) có
quan điểm thiên về khía cạnh thu nhập cho rằng: “Thành viên của hộ không nhất
thiết phải sống chung dưới một mái nhà, miễn là họ có đóng góp chung vào ngân
quỹ của gia đình”
Dưới góc độ nhân chủng học, Raul (1989) khẳng định: “Hộ là những người
có chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong qua trình sáng tạo ra sản
phẩm để bảo tồn chính mình”
Một số nghiên cứu khác lại cho rằng: “Các thành viên của hộ không nhất
thiết phải có chung huyết tộc”.
Trên thực tế vẫn vẫn chưa có khái niệm thống nhất về hộ, song qua các
khái niệm nêu trên, khái niệm về hộ có thể khái quát như sau: “Hộ là một nhóm
ngươì có chung huyết tộc hoặc không chung huyết tộc, họ không nhất thiết phải
sống chung dưới một mái nhà, nhưng có chung nguồn thu nhập và ăn chung, các
thành viên cùng tiến hành sản xuất và có chung ngân quỹ”.
b. Khái niệm hộ nông dân
Theo F.Ellis (1988). Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng
đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống
kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc chưng bởi sự tham gia từng phần vào
thị trường với mức hoàn hảo không cao.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: Hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở,
vùa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là
đơn vị xã hội. Trình độ phát triển của hộ từ thấp đến cao, từ tự cung, tự cấp đến
sản xuất hàng hoá hoàn toàn, thể hiện mối quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng, nó
quyết định đến mối quan hệ giữa nông hộ và thị trường.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, các nông hộ còn tham gia vào các hoạt động
phi nông nghiệp như: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ... Do đó nông hộ
là chủ thể kinh tế nông thôn.
c. Khái niệm về kinh tế nông hộ
Như chúng ta đã biết, kinh tế hộ nông dân đã tồn tại lâu đời, độc lập và tự
chủ như các thành phần kinh tế khác. Do kinh tế hộ nông dân được tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau cho nên, các khái niệm về kinh tế hộ nông dân cũng khác
nhau. Nhưng ta có thể lấy một khái niệm chung nhất đó là: “Kinh tế hộ nông dân,
là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, trong đó các nguồn lực
như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến
hành sản xuất, có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung. Mọi quyết định
trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tuỳ thuộc vào chủ hộ, được nhà nước
thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển”.
Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt giữa kinh tế nông hộ với kinh tế gia đình.
Kinh tế gia đình được đặt trong mối quan hệ với kinh tế tập thể, kinh tế gia đình
xã viên là một bộ phận cấu thành của kinh tế tập thể, nên sự phát triển của kinh tế
tập thể có ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế gia đình. Vì vậy không thể đồng nhất giữa
kinh tế nông hộ với kinh tế gia đình nông dân.
Ở các nước Tây âu và một số nước Châu Á, xác định kinh tế hộ là kinh tế
cá thể, nó thuộc thành phần kinh tế cá thể. Ở nước ta kinh tế hộ không thuộc thành
phần kinh tế cá thể, nó chỉ là loại hình kinh tế dùng để phân biệt với kinh tế tập thể
và kinh tế nhà nước. Nó là đơn vị kinh tế tự chủ nhưng hiện tại chưa được xếp vào
thành phần kinh tế nào, nó có mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác và là
cơ sở hình thành nên kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp.
Trước đây chúng ta quan niệm, kinh tế nông hộ là kinh tế của hộ làm nông
nghiệp bao gồm cả Nông- Lâm- Ngư nghiệp. Nhưng đến nay đã quan niệm kinh
tế nông hộ là kinh tế của hộ sống ở nông thôn, có nguồn thu từ sản xuất nông
nghiệp và phi nông nghiệp.
2.1.2.2 Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
Một là, có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý
và sử dụng các yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung,
nghĩa là mọi thành viên trong hộ đều có quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất
vốn có, cũng như tài sản khác của hộ. Mặt khác, do dựa trên cơ sở kinh tế chung
và cùng chung một ngân quỹ nên mọi người trong hộ đều có ý thức trách nhiệm
rất cao và việc bố trí xắp xếp công việc trong hộ cũng rất linh hoạt và hợp lý. Từ
đó hiệu quả sử dụng lao động và nguồn lực trong kinh tế nông hộ rất cao.
Hai là, lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bố chặt chẽ, và
được chi phối bởi quan hệ huyết thống. Kinh tế nông hộ được tổ chức với quy mô
nhỏ, thông thường chủ hộ vừa là người quản lý, điều hành vừa là người trực tiếp
tham gia lao động sản xuất, nên tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động
sản xuất là rất cao, việc tổ chức sản xuất rất linh hoạt và có cơ cấu đơn giản.
Ba là, kinh tế hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao. Do kinh tế hộ
có quy mô nhỏ, nên bao mô lớn. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể huy
động được mọi nguồn lực, thậm trí cả cắt giảm khẩu phần tất yếu của mình để đầu
tư cho mở rộng sản xuất. Khi gặp điều kiện bất lợi có thể nhanh chóng thu hẹp
quy mô sản xuất, thậm trí có thể quay về sản xuất theo kiểu tự cung, tự cấp.
Bốn là, có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của người
lao động. Trong kinh tế nông hộ mọi thành viên gắn bó với nhau cả trên cơ sở lợi
ích kinh tế, huyết tộc, giờ cũng có sự thích ứng dễ ràng hơn, so với các doanh
nghiệp nông nghiệp có quy văn hoá làng xã, nên dễ dàng đồng tâm hiệp lực để
phát triển sản xuất, mọi thành viên có mối ràng buộc chặt chẽ, tự giác trong lao
động sản xuất và đương nhiên được thừa hưởng thành quả lao động chung của
nông hộ. Đây chính là động lực cơ bản nâng cao hiệu quả sản xuất của nông hộ.
Năm là, kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất với quy mô nhỏ nhưng hiệu
quả. Quy mô nhỏ không đồng nghĩa với sự lạc hậu, năng xuất thấp mà nó có khả
năng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để có năng xuất và đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn, đó chính là biểu hiện của sản xuất lớn. Thực tế đã cho
thấy, kinh tế nông hộ là loại hình kinh tế thích hợp nhất, với điều kiện của sản xuất
nông nghiệp và có khả năng phát huy được thế mạnh của mình trong tổ chức sản
xuất kinh doanh nông nghiệp, vì vậy cần có sự tác động và tạo điều kiện kịp thời.
Sáu là, kinh tế nông hộ sử dụng sức lao động và tiền vốn của nông hộ là
chủ yếu. Trong sản xuất của nông hộ mọi nguồn lực của nông hộ đều có thể tập
trung cho sản xuất nhưng chủ yếu là nguồn lực sẵn có của nông hộ, chỉ khi nào
nguồn lực không đủ để duy trì sản xuất ở mức thấp nhất, thì mới xảy ra tình trạng
thuê mướn lao động và vay mượn vốn cho sản xuất.
2.1.2. 3 Tính tất yếu khách quan và vai trò kinh tế hộ nông dân
a. Tính tất yếu khách quan
Kinh tế nông hộ bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ
của các thành viên để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đem lại thu nhập để nuôi
sống mọi thành viên, tích luỹ làm giàu cho nông hộ và đóng góp cho xã hội.
Qua nghiên cứu ở hầu hết các nước trên thế giới, người ta thấy rằng
kinh tế nông hộ là phương thức sản xuất đặc biệt, tồn tại trong mọi chế độ xã
hội, từ nô lệ qua phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
nông hộ có quy luật phát triển riêng của nó và trong mỗi chế độ nó có một
cách thích ứng riêng để tồn tại và phát triển.
Trong chế độ phong kiến nông hộ sản xuất ra sản phẩm thặng dư chủ
yếu để cống nạp và tiêu dùng cho gia đình, trong giai đoạn này điều kiện sản
xuất và đời sống của nông hộ vô cùng khó khăn.
Bước sang xã hội tư bản chủ nghĩa, sản xuất nông hộ chưa kịp thích
ứng với nền sản xuất xã hội. Kinh tế nông hộ nằm ngoài phạm vi của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng nông hộ vẫn có khả năng duy trì hoạt
động sản xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển ngay trong lòng của chủ
nghĩa tư bản.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, kinh tế nông hộ có điều kiện để phát
triển, măc dù trong một số thời điểm bị coi nhẹ và đánh giá thấp. Nhưng nông
hộ đã thực sự có sự phát triển thích ứng và phù hợp với nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, trở thành cơ sở quan trọng cho phát triển kinh tế tập thể và hợp tác xã.
Trên cơ sở trên cho thấy hình thức kinh tế nông hộ là một hình thức kinh
tế cơ bản và tự chủ trong nông nghiệp, nó được hình thành, tồn tại và phát triển
một cách khách quan, lâu dài dựa trên chế độ tư hữu về các yếu tố sản xuất.
b. Vai trò của kinh tế hộ nông dân trong phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế xã hội, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế,
các phương thức sản xuất là hoàn tòan khách quan, kinh tế nông hộ cũng là một
bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Qua nghiên cứu về kinh tế hộ ở một số nước
và ở Việt nam cho thấy, từ trước đến nay, qua bất kỳ chế độ xã hội nào, kinh tế
nông hộ cũng có các thức để tồn tại, phát triển và có những đóng góp nhất định
cho nền kinh tế, đó là:
+ Kinh tế hộ góp phần làm tăng nhanh sản lượng, sản phẩm cho xã hội như
lương thực, thực phẩm, nông sản xuất khẩu… Ở Mỹ, với 1,94 nông trại đã cung
cấp 59,2% lượng nông sản hàng hoá cho xã hội; Hung ga ri sản phẩm của nông
trại chiếm 60 % tổng sản phẩm hàng hoá trên thị trường nông thôn; Với nước ta
mặc dù quy mô kinh tế hộ còn nhỏ, phân tán nhưng đã cung cấp cho xã hội 95%
sản lượng thịt, 90% sản lượng trứng và 93 % sản lượng rau quả. Sản xuất nông
nghiệp của hộ chiếm 48% giá trị sản lượng của ngành nông nghiệp.
- Kinh tế nông hộ góp phần sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các yếu tố sản
xuất như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất.
- Kinh tế nông hộ góp phần to lớn trong giải quyết việc làm và nâng cao thu
nhập cho người dân nông thôn. Vì vai trò đó mà Lê nin đã viết: “Ý định dùng sắc
lệnh, luật lệ để thiết lập chế độ canh tác tập thể, tước mất vai trò kinh tế nông hộ
trong đời sống hiện thực là hết sức ngu xuẩn”
Bên cạnh đó kinh tế nông hộ còn một số tồn tại chưa được khắc phục đó là:
Điều kiện sản xuất có hạn, trong đó chủ yếu là đất đai nên không có điều kiện để
mở rộng sản xuất, nhất là sản xuất với quy mô lớn và theo hướng sản xuất hàng
hoá, nếu không có sự trợ giúp về vốn và khoa học kỹ thuật, công nghệ, chính sách
của nhà nước; do thói quen sản xuất nhỏ, quen với tập quán canh tác cũ nên ảnh
hưởng rất lớn đến việc quy hoạch phát triển vùng sản xuất.
2.1.4 Khái niệm và đặc điểm kinh tế kỹ thuật chăn nuôi gà đồi
2.1.4.1 Khái niệm
Chăn nuôi gà là một nghề truyền thống của nông dân có từ rất xa xưa.
Trước đây chăn nuôi gà trong mổi gia đình ở nước ta chủ yếu là chăn thả đơn
thuần, quy mô nhỏ lẻ, chỉ đảm bảo, chỉ đảm bảo một phần nào đó cho nhu cầu
của gia đình, hoàn toàn chưa có ý thức trở thành nhu cầu trao đổi hàng hoá.
Chăn nuôi gà truyền thống là hình thức chăn thả tự nhiên và hiện nay
nó vẫn còn tồn tại ở hầu hết các vùng nông thôn của các nước đang phát triển
và các nước chậm phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp và 70% dân
số sống ở nông thôn, việc chăn nuôi gà theo phương thức này vẫn là chủ yếu.
Đặc điểm của phương thức chăn nuôi này là: đầu tư vốn ít, thời gian
nuôi kéo dài. Do chăn thả tự do, tận dụng cùng với môi trường không đảm
bảo vệ sinh nên vật nuôi tăng trưởng kém, dễ bị mắc bệnh, hiệu qỉa chăn nuôi
không cao. Do sự gia tăng về dân số, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, kỹ
thuật trên toàn thế giới và trong mọi lĩnh vực, ngành chăn nuôi nói chung và
ngành chăn nuôi gia cầm nó riêng cũng không ngừng phát triển. Từ chăn nuôi
theo phương thức quảng canh, chăn thả tự nhiên chuyển sang chăn nuôi theo
phương thức chăn nuôi theo hướng hàng hoá quy mô lớn, nhằm đáp ứng được
nhu cầu đòi hỏi của toàn xã hội. Những đột phá về mặt công nghệ tạo con
giống, thức ăn, thiết bị chuồng trại cũng như kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng đã
tạo đà cho ngành chăn nuôi phát triển. Phương thức sản xuất cũ đã không còn
phù hợp nữa và dần dần được thay thế bằng phương thức chăn nuôi mới cho
năng xuất, chất lượng tốt và hiệu quả kinh tế cao.
Chăn nuôi gà đồi của nông dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang có thể
hiểu: “là phương thức chăn nuôi dựa trên cơ sở thâm canh, tăng năng xuất
trên mọi đơn vị diện tích chuồng trại, sử dụng các giống gà lai để tạo ra năng
suất, hiệu quả cao trong cùng một thời gian, cùng với sự đầu tư về trang thiết
bị máy móc, chuồng trại chăn nuôi. Thức ăn được sử dụng trong chăn nuôi gà
đồi là thức ăn được chế biến theo phương pháp công nghiệp kết hợp với thức
ăn có sẵn trong sản xuất nông nghiệp như: cám gạo, cám ngô, cám mạch, rau
xanh,..., điều kiện môi trường chăn nuôi được chủ động điều chỉnh phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của vât nuôi nhất là trong giai đoạn đầu của gà
con”.(Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn).
2.1.4.2 Đặc điểm kinh tế-kỹ thuật
* Đặc điểm kỹ thuật
Gà là một loại vật nuôi dễ thích nghi với môi trường sống, dễ nuôi, có
thể nuôi dưới nhiều phương thức khác nhau. Môi trường thích hợp với nuôi
gà nhất là chuồng nuôi thoáng mát, sạch sẽ, nền chuồng không được ẩm ướt,
luôn phải giữ khô ráo, thoáng khí. Ngược lại, nếu môi trường nuôi không
thích hợp, gà dễ mắc bệnh và xảy ra đại dịch gây ra tổn thất rất lớn trên quy
mô rộng khắp.
Các giống gà thông thường được nuôi tùy theo phương thức chăn nuôi,
có thể là gà ta như gà Ri, gà Hồ, hoặc một số giống gà siêu thịt sử dụng trong
nuôi công nghiệp.
* Đặc điểm kinh tế:
Chăn nuôi gà là ngành sản xuất truyền thống gắn liền với nông dân
nước ta từ lâu đời và đã trở thành ngành sản xuất không thể thiếu trong hệ
thống nông nghiệp. Đối với chăn nuôi gà không phải theo hình thức chăn nuôi
công nghiệp thì tài sản cố định không lớn, không cần xây dựng kiên cố, giá trị
thuốc phòng và trị bệnh không nhiều. Sản phẩm chăn nuôi gà có thể tiêu thụ
trên thị trường rộng lớn. Thời gian để nuôi một lứa gà thịt tuỳ theo phương
thức chăn nuôi, nhưng theo phương pháp công nghiệp thì không lớn (từ 2 – 4
tháng).Chăn nuôi gà có thể tận dụng được sản phẩm của nông nghiệp và giúp
cho ngành chế biến phát triển. Chăn nuôi gà rất dễ thu hồi vốn sản xuất do đó
lãi suất tạo ra cao, có tác dụng sử dụng triệt để các nguồn vốn ngắn hạn (nuôi
một lứa gà tốn thời gian ngắn).
2.1.4.3 Chỉ tiêu phản ánh kỹ thuật trong chăn nuôi gà
- Mức tiêu tốn thức ăn/kg thịt xuất chuồng.
- Sản lượng thịt/năm.
- Chất lượng thịt:
+ Hàm lượng khoáng chất
+ Trọng lượng thân thịt/Trọng lượng thịt hơi
2.1.5 Vai trò của nghề chăn nuôi gà đồi
* Cung cấp thực phẩm và chữa bệnh
Từ lâu, thịt gà là một loại thực phẩm rất được ưa chuộng trên thế
giới. Nếu so sánh với thịt lợn và thịt bò, lượng đạm thịt gà cao hơn rất
nhiều lần, trong khi đó lượng mỡ ít hơn. Ngoài ra, thịt gà được chế biến
thành nhiều món ăn ngon khác nhau: cơm gà, gà chiên, gà nướng. gà
tần, gà hấp, gà luộc, …Ở các cửa hiệu thức ăn nhanh thế giới như
McDonald, KFC thịt gà luôn được đưa lên hàng đầu thực đơn.
Nhu cầu về thịt gà có lẽ chỉ đứng sau thịt lợn trên thế giới với mức
tiêu thụ khoảng trên 80 triệu tấn hàng năm.
* Nguồn phân bón cho cây trồng và thức ăn cho cá
Ngoài sản phẩm chính là gà thương phẩm, gà thuốc, chăn nuôi gà còn
thu được một lượng phân bón khá lớn dùng cho trồng trọt, nguồn phân thải có
thể dùng cho đồng ruộng hoặc vườn cây, ao cá,…đem lại hiệu quả tối đa cho
sản xuất nông nghiệp.
* Mang lại thu nhập cho nông dân
Chăn nuôi gà được đánh giá là ngành có nhiều rủi ro nhưng đây cũng là
ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tại huyên Yên Thế, Tỉnh Bắc Giang tính
đến năm 2010 đã phát triển đàn gà lên hơn 5,0 triệu con, là địa phương có
tổng đàn gà lớn nhất phía Bắc nước ta, nhiều hộ đã vươn lên thành hộ khá, hộ
giàu với phong trào chăn gà nơi đây. Nuôi gà tại Yên Thế đã trở thành một
điển hình về hiệu quả kinh tế với tổng giá trị lên tới 550 tỷ đồng hàng năm,
được nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh đánh giá cao và tới tham quan học
hỏi. Dù gặp nhiều khó khăn và dịch bệnh nhưng năm 2009 có hộ chăn nuôi đã
đạt tới lợi nhuận hơn 45 triệu đồng trên một lứa nuôi 1500 con.
Ngoài ra phát triển chăn nuôi gà đồi giúp tận dụng tốt những sản phẩm
từ trồng trọt, tận dụng được các phế phụ phẩm trong sinh hoạt hàng ngày để
tạo ra các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao phục vụ cho đời sôngs con
người. Phát triển chăn nuôi gà đồi giúp tạo ra những thay đổi về cơ cấu lao
động trong xã hội, trong nội bộ ngành nông nghiệp.
2.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi gà đồi
2.1.6.1 Điều kiện tự nhiên
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên tuy cũng có ảnh hưởng đến phát triển
chăn nuôi gà đồi nhưng không ảnh hưởng mạnh giống như ngành trồng trọt
bởi vì:
Gà là loài có phổ thích nghi rộng, điều này được minh chứng bằng sự
tồn tại của các loại gà và ngành chăn nuôi gà trên khắp các dạng địa hình, các
dạng thời tiết ở tất cả các châu lục.
Nếu như ngành trồng trọt là ngành sản xuất ngoài trời trên địa bàn rộng,
rất khó kiểm soát diễn biến tự nhiên thì chan nuôi gà vườn đồi thường được tổ
chức trong hệ thống chuồng trại gần nhà hoặc ngay tại gia đình . Như vậy con
người có thể đối phó với các diễn biến bất thuận của điều kiện tự nhiên dễ
dàng hơn ngành sản xuất trồng trọt. Tuy nhiên khi gặp điều kiện bất thuận
thời tiết mang tính hủy diệt như lụt lội, lũ quét, bão lớn, lốc xoáy,…thì chăn
nuôi gà vườn đồi cũng gặp phải những khó khăn lớn, kết quả và hiệu quả chăn
nuôi gà bị giảm sút.
- Xem thêm -