TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
--------------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: NGÀNH THÉP VIỆT NAM
TRƯỚC THÁCH THỨC HỘI NHẬP AFTA
Sinh viên thực hiện
: Hoàng Thị Quỳnh Liên
Lớp
: Anh 6 – K38B
Giáo viên hướng dẫn
: Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hằng
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Trang
Danh mục bảng và biểu đồ
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI NHẬP AFTA CỦA VIỆT
NAM
I.
II.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN và khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA)
1
1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
1
2. Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT và khu
vực mậu dịch tự do AFTA
3
2.1 Bối cảnh và sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)
3
2.2 Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT
5
Việc tham gia ASEAN/AFTA là tất yếu khách quan đối với
Việt Nam
10
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế
10
2. Tính tất yếu khách quan của việc tham gia ASEAN/AFTA
12
3. Quá trình gia nhập ASEAN/AFTA của Việt Nam
14
3.1 Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN
14
3.2 Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam
14
4. Những tác động của việc tham gia AFTA đối với Việt Nam
16
4.1 Về thương mại
16
4.2 Về đầu tư nước ngoài
18
4.3 Về công nghiệp
20
4.4 Về ngân sách Nhà nước
21
CHƯƠNG II: NHỮNG THÁCH THỨC CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM
TRƯỚC HỘI NHẬP AFTA
I.
Tổng quan về ngành thép một số nước trong ASEAN
II.
22
1. Cơ sở chung về ngành thép ASEAN
22
2. Ngành thép một số nước ASEAN trong những năm gần đây
24
2.1 Indonesia
24
2.2 Malaysia
31
2.3 Philipines
34
2.4 Thái Lan
38
2.5 Singapore
42
Thực trạng ngành thép Việt Nam hiện nay
46
1. Quá trình phát triển và vai trò của ngành thép ở Việt Nam
46
1.1 Quá trình phát triển
46
1.2 Vai trò và tầm quan trọng của ngành thép
48
2. Thực trạng ngành thép Việt Nam hiện nay
51
III.
2.1 Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất thép
51
2.2 Quy mô, năng lực sản xuất, cơ cấu sản phẩm
55
2.3 Trình độ công nghệ
57
2.4 Nguồn nguyên nhiên liệu
59
2.5 Giá thành và chất lượng sản phẩm
63
2.6 Tình hình tiêu thụ thép trong những năm gần đây
64
2.7 Khả năng lập và thực hiện chiến lược kinh doanh của ngành
66
Những thách thức đối với ngành thép Việt Nam khi hội nhập
AFTA
68
1. Các cơ hội và lợi ích đối với ngành thép khi tham gia AFTA
1.1 Giúp ngành thép Việt Nam có chỗ đứng trong ngành công
68
68
nghiệp thép trong khu vực
1.2 Có điều kiên thuận lợi hơn để mở rộng thương mại
1.3 Tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư, liên doanh và
chuyển giao công nghệ tiên tiến và tiếp cận được phương
pháp quản lý hiện đại
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam với các
nước khác trong khu vực
69
69
70
3. Những khó khăn, thách thức đối với ngành thép khi tham gia
AFTA
72
3.1 Ngành thép Việt Nam có xuất phát điểm thấp so với ngành
thép các nước khác trong khu vực
72
3.2 Tình trang manh mún, rời rạc của việc phân bố và tổ chức
sản xuất
75
3.3 Ngành thép được bảo hộ sản xuất khá nhiều
76
3.4 Nguồn lực về vốn, về con người còn nhiều hạn chế
77
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHO NGÀNH THÉP VIỆT NAM
TRƯỚC THÁCH THỨC HỘI NHẬP AFTA
I.
Đánh giá các giải pháp đã và đang áp dụng để hội nhập
AFTA của ngành thép Việt Nam
80
II.
Cơ sở đề xuất giải pháp cho ngành thép Việt Nam trước
thách thức hội nhập AFTA
82
1. Mục tiêu của ngành thép Việt Nam trong thời gian tới
82
2. Định hướng phát triển của ngành thép Việt Nam trong thời gian
tới
83
3. Dự báo cung cầu tiêu thụ các sản phẩm thép trong những năm tới
84
III.
Giải pháp cho ngành thép Việt Nam trước thách thức hội
nhập AFTA
86
1. Một số kiến nghị đối với các chính sách của Nhà nước
86
1.1 Loại bỏ dần chính sách bảo hộ
1.2 Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp
1.3 Chính sách đầu tư
1.4 Một số chính sách hỗ trợ khác
86
87
88
89
2. Đối với các doanh nghiệp ngành thép
90
2.1 Giải pháp về cơ cấu tổ chức
90
2.2 Giải pháp về vốn
91
2.3 Giải pháp về khoa học công nghệ
92
2.4 Giải pháp về công tác quản lý, đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực
93
2.5 Giải pháp về công tác phát triển thị trường
94
2.6 Hoàn thiện về mạng lưới bán hàng và hình thức bán hàng
96
2.7 Áp dụng chính sách giá linh hoạt
97
2.8 Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong kinh doanh
98
2.9 Đẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế
99
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
Trang
Bảng 1: Thống kê công suất của các công ty sản xuất thép các nước
ASEAN
23
Bảng 2: Tình hình sản xuất các sản phẩm thép của Indonesia giai đoạn
1997-2002
25
Bảng 3: Tình hình tiêu thụ các sản phẩm thép của Indonesia giai đoạn
1997-2002
27
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu các sản phẩm thép của Indonesia giai đoạn
1996-2002
29
Bảng 5: Tình hình nhập khẩu các sản phẩm thép của Indonesia giai
đoạn 1997-2002
30
Bảng 6: Tình hình sản xuất thép của Malaysia giai đoạn 1997-2002
31
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu thép của Malaysia giai đoạn 1997-2002
33
Bảng 8: Tình hình nhập khẩu thép của Malaysia giai đoạn 1997-2002
33
Bảng 9: Nhu cầu thép của Philippines
35
Bảng 10: Tình hình nhập khẩu các sản phẩm thép của Philipines giai
đoạn 1997-2002
36
Bảng 11: Cơ cấu sản xuất của ngành công nghiệp thép của Thái Lan
38
Bảng 12: Tổng lượng tiêu thụ thép biểu kiến của Thái Lan
39
Bảng 13: Tiêu thụ thép của Singapore trong giai đoạn 1998-2002
42
Bảng 14: Công suất các công ty thép chủ yếu của Việt Nam (cán sợi
nóng)
55
Bảng 15: Năng lực và thực tế sản xuất của ngành thép hiện nay
56
Bảng 16 : So sánh một số chỉ tiêu cơ bản của ngành luyện cán thép
57
Việt Nam và thế giới
Bảng 17: Trữ lượng địa chất của các mỏ sắt chính ở Việt Nam
60
Bảng 18: Giá thành thép cán sản xuất trong nước
63
Bảng 19: Cung cầu thép của Việt Nam giai đoạn 1992-2002
65
Bảng 20: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cán thép xây dựng
74
Bảng 21: Dự báo nhu cầu chủng loại thép đến năm 2010
85
Bảng 22: Dự báo khả năng cung cấp chủng loại thép đến năm 2010
85
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1: Tình hình tiêu thụ thép của Malaysia giai đoạn 1998-2002
32
Biểu đồ 2: Tiêu thụ thép biểu kiến của Thái Lan đối với sản phẩm dài
40
Biểu đồ 3: Tiêu thụ thép biểu kiến của Thái Lan đối với sản phẩm dẹt
40
Biểu đồ 4: Trình độ công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp thép
Việt Nam
58
Biểu đồ 5: Nguồn gốc công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp
thép Việt Nam
59
Biều đồ 6: Tình hình nhập khẩu thép phế liệu của Việt Nam 1997-2002
62
Biểu đồ 7: Biến động giá cả thép xây dựng và phôi thép nhập khẩu
73
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp thép của Việt Nam hiện nay đang được phát triển trên cơ sở
chính sách bảo hộ của Nhà nước. Tuy nhiên, kể từ khi tham gia vào ASEAN và
AFTA từ năm 1995, đến nay Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn cắt giảm
thuế mạnh mẽ để đến năm 2006 có thể hoàn thành chương trình CEPT. Điều này
đồng nghĩa với việc trong tương lai gần, ngành thép Việt Nam sẽ không thể
được Nhà nước bảo hộ nữa. Do vậy, tham gia vào ASEAN và AFTA sẽ là một
thách thức to lớn đối với ngành công nghiệp thép của Việt Nam.
Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp do vậy, các ngành công nghiệp bao gồm cả ngành thép Việt Nam
có hội nhập thành công hay không đều ảnh hưởng lớn đến mục tiêu này. Cũng
như nhiều ngành công nghiệp khác, ngành thép Việt Nam hiện nay vừa phải đối
mặt với những nguy cơ nội tại do được bảo hộ trong thời gian dài lại vừa phải
chịu áp lực cạnh tranh rất lớn khi tham gia hội nhập. Trong khi đó các nước
trong khu vực có trình độ phát triển kinh tế cũng như trình độ khoa học công
nghệ, thiết bị tiên tiến hơn Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần phải đánh giá được
thực trạng, khả năng cạnh tranh của ngành thép hiện nay để từ đó đưa ra những
thách thức mà ngành thép Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hội nhập
AFTA. Trên cơ sở đó, chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để ngành thép
có thể hội nhập thành công với ngành thép các nước khác trong khu vực. Một
điều có thể khẳng định là việc tham gia vào xu thế hội nhập trong khu vực đòi
hỏi nỗ lực rất lớn không chỉ từ phía Nhà nước mà bản thân doanh nghiệp trong
ngành cũng phải năng động tìm ra hướng đi thích hợp cho mình.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài
“Ngành thép Việt Nam trước thách thức hội nhập AFTA” làm đề tài cho khoá
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận này nghiên cứu kỹ về ngành thép Việt Nam trên nhiều khía cạnh để
từ đó thấy được những thách thức mà ngành thép Việt Nam đang phải đối mặt
trong quá trình tham gia AFTA và chỉ ra những cơ hội có thể nắm bắt trong quá
trình hội nhập. Đồng thời, khoá luận cũng nghiên cứu về tình hình ngành thép
các nước thành viên khác của ASEAN trong những năm gần đây để thấy được
toàn cảnh môi trường cạnh tranh của ngành thép Việt Nam. Trên cơ sở những
nghiên cứu đó, khoá luận đề xuất một số giải pháp nhằm giúp ngành thép Việt
Nam hạn chế được những khó khăn, phát huy được những yếu tố thuận lợi trong
việc tham gia AFTA.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu những khó khăn, thách thức và những cơ hội khi hội nhập kinh tế quốc
tế là một vấn đề rất phức tạp do liên quan đến mọi ngành, mọi lĩnh vực trong
nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò chiến lược của ASEAN đối với Việt Nam cũng
như vị trí quan trọng của ngành thép trong quá trình CNH – HĐH đất nước,
trong khoá luận này, tác giả chỉ đi sâu vào vấn đề hội nhập trong ngành thép
Việt Nam trong khuôn khổ chương trình CEPT/AFTA mà chưa đề cập đến việc
thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc cũng như khi tham gia
WTO.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích, kết hợp giữa
các kết quả thống kê với vận dụng lý luận để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên
cứu. Khoá luận được xây dựng trên cơ sở những quan điểm của người viết kết
hợp với việc tham khảo các văn bản, tài liệu, sách báo và ý kiến của một số
chuyên gia trong ngành.
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chính của Khoá luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
Chương đầu giới thiệu tóm tắt sự hình thành ASEAN, AFTA và quá trình tham
gia của Việt Nam vào tổ chức này, đồng thời đánh giá sơ lược một số tác động
đối với nền kinh tế khi tham gia AFTA của Việt Nam.
Chương II: Những thách thức của ngành thép Việt Nam trước hội nhập
AFTA
Chương này tóm tắt tình hình phát triển ngành công nghiệp thép các nước
ASEAN trong những năm gần đây cũng như triển vọng tương lai của ngành này
đối với từng nước. Vấn đề quan trọng trong chương II là đi sâu phân tích hiện
trạng ngành thép Việt Nam từ đó thấy được những khó khăn thách thức của
ngành khi tham gia AFTA.
Chương III: Những giải pháp cho ngành thép khi tham gia AFTA
Chương cuối đề xuất một vài kiến nghị đối với các chính sách của Nhà nước và
một số giải pháp cho các doanh nghiệp trong ngành để nâng cao sức cạnh tranh
cho sản phẩm thép khi tham gia ASEAN.
Do trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, đồng thời vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay còn phức tạp nên Khoá luận chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của
các thầy cô giáo, các bạn sinh viên và những người quan tâm để khoá luận này
được hoàn thiện hơn.
Nhân đây, tác giả xin bày tỏ sự cám ơn chân thành tới các thầy cô giáo Trường
Đại học Ngoại Thương Hà Nội, đặc biệt là cô giáo - Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu
Hằng, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình trong quá trình viết khoá luận. Tác
giả xin cảm ơn các bạn bè đã hết sức ủng hộ và giúp đỡ về nhiều mặt trong việc
tìm tài liệu tham khảo cho khoá luận. Đồng thời tác giả cũng xin chân thành cảm
ơn các cán bộ của Tổng công ty thép Việt Nam, Hiệp hội thép Việt Nam đã giúp
đỡ, cung cấp những thông tin cần thiết, những tài liệu bổ ích và những góp ý quý
báu để hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
Sinh viên
Hoàng Thị Quỳnh Liên
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ HỘI NHẬP AFTA CỦA VIỆT NAM
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
I.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN và khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA)
1.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Vào đầu những năm 1960, Thái Lan, Malaysia, Philipines đã rất nỗ lực trong
việc thành lập Hiệp hội Đông Nam Á gọi tắt là ASA (1961) nhưng do mâu thuẫn
giữa Philipines và Malaysia nên ASA đã bị khủng hoảng và tan rã năm 1963.
Sau đó Malaysia, Philipines và Indonesia có kế hoạch thành lập một tổ chức
khác nhưng cũng không thành công do chính sách đối đầu của Indonesia đối với
Malaysia. Tuy nhiên, sau đó đất nước Indonesia đã có những thay đổi kéo theo
đó là những thay đổi trong chính sách ngoại giao của quốc gia này. Indonesia đã
nhiệt tình hơn đối với việc thành lập một tổ chức hợp tác toàn khu vực.
Cũng trong thời kỳ này, chủ nghĩa đế quốc đang tăng cường ảnh hưởng của
mình tới khu vực Đông Nam Á và Mỹ đang leo thang trong cuộc chiến tranh tại
Việt Nam. Các quốc gia đều muốn chống chủ nghĩa đế quốc dưới mọi hình thức
và mong muốn duy trì chính sách ngoại giao độc lập, do vậy các nước cho rằng
nếu đoàn kết lại, họ sẽ tránh được hiểm họa từ bên ngoài. Mặt khác, các nước
còn phải đối phó với các phong trào chống đối trong nước và đều có chung mục
tiêu là ổn định để phát triển kinh tế xã hội.
Chính vì các lý do trên, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (The Association of
South East Asian Nations - ASEAN) được thành lập ngày 08/08/1967 sau khi bộ
trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia, Philipines, Singapore và Thái
Lan ký bản Tuyên bố ASEAN (hay được gọi là Tuyên bố Bangkok).
Tiếp sau đó, ngày 07/01/1984, ASEAN kết nạp thêm Brunei Darussalam. Ngày
28/07/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN. Đến
ngày 23/07/1997, Lào và Myanma gia nhập ASEAN. Và Campuchia trở thành
thành viên thứ 10 của ASEAN vào ngày 30/04/1999. Còn Đông Timor hiện nay
1
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
do chưa thành lập xong Chính phủ nên chưa tham gia vào ASEAN. Như vậy,
hiện nay ASEAN bao gồm 10 quốc gia Đông Nam Á với: 1
- Tổng diện tích: gần 4,5 triệu km2
- Tổng dân số: khoảng 500 triệu người
- Tổng GDP: khoảng 840 tỷ USD
- Tổng kim ngạch xuất khẩu: khoảng 340 tỷ USD
Mục tiêu hoạt động của của ASEAN được thể hiện rất rõ trong tuyên bố
Bangkok là thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá
của các nước thành viên, xây dựng hoà bình ổn định ở vùng Đông Nam Á. Đồng
thời các nước thành viên cũng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và hành chính. Ngoài ra, các nước cũng hợp
tác cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Do bối cảnh ra đời, kể từ khi thành lập ASEAN là một tổ chức chủ yếu mang
màu sắc chính trị. Quá trình hợp tác kinh tế chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1975 khi
ASEAN tổ chức hội nghị bộ trưởng kinh tế lần thứ nhất. Sau tuyên bố của hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất năm 1976, sự hợp tác kinh tế được đẩy mạnh
và cho ra đời cơ chế hợp tác và tổ chức bộ máy hợp tác về kinh tế. Cũng tại hội
nghị này, chương trình hành động trong đó đề ra 3 chương trình hợp tác kinh tế
lớn của khu vực là: Chương trình các dự án công nghiệp ASEAN (AIP); Thoả
thuận ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) và Chương trình hợp tác công nghiệp
ASEAN (AICO) cũng được thông qua. AICO sau đó được bổ sung thêm chương
trình liên doanh công nghiệp (AIJV). Tháng 12/1977, các nước ASEAN đã ký
thoả thuận ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) bước đầu tự do hoá thương mại
nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại nội khối thông qua những hình thức
khuyến khích cho hưởng mức thuế ưu đãi thấp (MOP).
Cuối những năm 70 đến những năm 90, nền kinh tế ASEAN phát triển nhanh và
được coi là khu vực phát triển năng động trên thế giới. Tại hội nghị thượng đỉnh
1
Theo tài liệu tuyên truyền về hội nhập ASEAN – Bộ thương mại, năm 2000
2
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
lần thứ 4, Hội nghị đã thông qua các biện pháp được thể hiện trong “Hiệp định
khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN” trên các lĩnh vực thương mại,
công nghiệp, khoáng sản và năng lượng, tài chính và ngân hàng, lương thực và
nông lâm; giao thông vận tải và bưu điện - viễn thông, trong đó quan trọng nhất
là thoả thuận về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Đây được coi là
bước tiến quan trọng về chất trong lịch sử hợp tác kinh tế của ASEAN.
2.
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT và khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
2.1
Bối cảnh và sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Sau gần ba thập kỷ hoạt động của mình, sự hợp tác về kinh tế trong ASEAN còn
ở mức độ thấp, hiệu quả chưa cao. Ngoài nguyên nhân là hoạt động của ASEAN
trước đây chủ yếu thiên về mặt chính trị còn một số nguyên nhân khác, đó là:
Thứ nhất, liên kết ASEAN không phải là liên kết giữa các quốc gia thuần nhất
về kinh tế và chính trị mà ngược lại, đây là liên minh của một nhóm các nước rất
khác biệt nhau về thể chế chính trị, tôn giáo và trình độ phát triển kinh tế. Hơn
nữa, giữa các nước thành viên vẫn còn tồn tại một số mâu thuẫn về tranh chấp
lãnh thổ đến nay chưa giải quyết được.
Thứ hai, ASEAN là một tập hợp các nước đang phát triển nhỏ và vừa, nền kinh
tế các nước ASEAN có tính chất cạnh tranh hơn là bổ sung cho nhau nên trong
thời kỳ đầu sự hợp tác kinh tế diễn ra rất mờ nhạt. Hầu hết các nước đều coi
trọng thị trường bên ngoài như EU, Mỹ, Nhật, Canada…, coi đây là những thị
trường chủ lực giúp họ thực hiện chính sách hướng ngoại nên kim ngạch nội bộ
ASEAN chỉ đạt khoảng 25% tổng kim ngoại buôn bán với bên ngoài.
Tuy nhiên, vào khoảng cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20, tình hình thế
giới có rất nhiều biến động. Vòng đàm phán Uruguay kết thúc thắng lợi mở ra
khả năng mở rộng buôn bán trên thế giới, nhiều tổ chức liên kết kinh tế ra đời
như tổ chức thương mại thế giới (WTO), thị trường chung châu Âu, khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mỹ. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đã đặt ra những
3
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
thách thức to lớn với ASEAN trong việc cạnh tranh của hàng hóa ASEAN trên
thị trường quốc tế và tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính vì vậy, ASEAN quyết tâm đẩy mạnh và tăng cường hợp tác kinh tế khu
vực, mà quyết tâm này được thể hiện rõ nhất lại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN
lần thứ 4 diễn ra ở Singapore vào ngày 27 - 28/01/1992. Tại hội nghị này, các
nguyên thủ quốc gia ASEAN đã thông qua một số quyết định và văn kiện quan
trọng sau:
- Tuyên bố Singapore năm 1992 khẳng định quyết tâm của ASEAN đưa sự
hợp tác chính trị và kinh tế lên tầm cao và mở rộng hợp tác sang lĩnh vực
an ninh.
- Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN trong đó nêu lên
ba nguyên tắc của sự hợp tác hướng ra bên ngoài, cùng có lợi và linh hoạt
đối với sự tham gia của các nước thành viên trong các chương trình, dự án
hợp tác, xác định rõ 5 lĩnh vực hợp tác kinh tế cụ thể là thương mại, công
nghiệp, năng lượng, khoáng sản, nông - lâm - ngư nghiệp, tài chính - ngân
hàng, vận tải - liên lạc và du lịch, nhấn mạnh “hoà giải” là phương châm
giải quyết các xung đột giữa các nước thành viên trong việc giải thích và
thực hiện Hiệp định khung này.
- Quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong
vòng 15 năm. Mục tiêu của AFTA là loại bỏ hoàn toàn các hàng rào cản
thương mại đối với hầu hết các hàng hóa trong nội bộ ASEAN, kể cả thuế
quan và các loại hàng rào phi thuế.
- Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT quy
định các biện pháp cũng như các giai đoạn cho việc từng bước giảm thuế
nhập khẩu, tiến tới thực hiện AFTA.
Việc hình thành AFTA là ưu tiên hàng đầu trong chương trình hợp tác của
ASEAN vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Lúc đầu dự kiến AFTA sẽ được
hình thành sau 15 năm thông qua việc thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan
4
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
có hiệu lực chung CEPT bắt đầu từ 01/01/1993. Nhưng trước sự thay đổi nhanh
chóng và các xu thế phát triển mới của kinh tế thế giới, tại hội nghị các bộ
trưởng kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 29 tại Chiềng Mai (Thái Lan) tháng
09/1994, các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời hạn hiệu lực thực hiện
CEPT xuống còn 10 năm để AFTA được hình thành vào năm 2003.
2.2
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT
2.2.1
Nội dung loại bỏ hàng rào thuế quan
Theo thoả thuận mới, các nước thành viên ASEAN sẽ thực hiện lịch trình cắt
giảm thuế nhập khẩu hàng hóa của mình xuống 0 - 5% trong thời hạn 10 năm
bắt đầu từ 01/01/1993 để tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) vào năm 2003 thay vì 15 năm như trước. Đối với các nước thành viên
ASEAN mới, thời hạn hoàn thành thực hiện CEPT được điều chỉnh phù hợp với
thời gian gia nhập. Cụ thể, Việt Nam sẽ hoàn thành vào năm 2006, Lào và
Myanmar bắt đầu thực hiện CEPT vào năm 1998 và sẽ hoàn thành vào năm
2008.
Chương trình loại bỏ hàng rào thuế quan bao gồm các nội dung chính sau:
Các danh mục sản phẩm và tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT
a. Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL): Các sản phẩm nằm trong
danh mục này được cắt giảm thuế quan với lộ trình cắt giảm nhanh (Fast
track) và lộ trình cắt giảm bình thường (Normal track)
-
Lộ trình cắt giảm nhanh: Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được
giảm xuống còn 0 - 5% vào 01/01/2000; các sản phẩm có thuế suất
bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào
01/01/1998.
-
Lộ trình cắt giảm bình thường: các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ
được giảm xuống còn 20% vào 01/01/1998 và tiếp tục giảm xuống còn
0 - 5% vào 01/01/2003. Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn
20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 01/01/2000.
5
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
b. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Nhận thấy rằng các nước ASEAN
còn gặp nhiều khó khăn trong việc hoạch định chính sách tự do thương
mại và để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian nhất
định nhằm tiếp tục các chương trình đầu tư trong một số lĩnh vực cụ thể
đã được đưa ra trước khi tham gia CEPT hoặc có thời gian chuyển hướng
đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu…, Hiệp định CEPT cho
phép các nước thành viên được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa
thực hiện tiến trình giảm thuế theo CEPT. Các sản phẩm trong Danh mục
loại trừ tạm thời không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên.
Tuy nhiên, danh mục này chỉ có tính chất tạm thời và sau một khoảng thời
gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các sản phẩm này vào Danh
mục giảm thuế. Lịch trình chuyển toàn bộ các sản phẩm trong Danh mục
loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay được quy định phải hoàn
tất trong vòng 5 năm, từ 01/01/1996 đến 01/01/2000, mỗi năm chuyển
20% số sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời.
c. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL), còn gọi là Danh mục loại trừ vĩnh
viễn: Danh mục này bao gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định
CEPT. Các sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội,
cuộc sống và sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá
trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử… Việc cắt giảm thuế cũng như xoá
bỏ các biện pháp phi thuế đối với các mặt hàng này sẽ không được xem
xét đến theo Chương trình CEPT.
d. Danh mục nhạy cảm (SL): gồm các mặt hàng nông sản chưa chế biến mà
từng nước cho là nhạy cảm đối với nền kinh tế nước mình, không đưa vào
diện cắt giảm thuế ngay. Các mặt hàng lại được chia thành 2 loại: nhạy
cảm và nhạy cảm cao. Việc cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế đối
với mặt hàng này được thực hiện theo quy chế đặc biệt: thuế suất cuối
cùng cũng sẽ là 0-5%, thời hạn đưa vào cắt giảm thuế sẽ bắt đầu từ
6
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
01/01/2001. Thời hạn hoàn thành giảm thuế xuống còn 0-5% vào
01/01/2010.
Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT
Những nhượng bộ khi thực hiện CEPT của các quốc gia được trao đổi trên
nguyên tắc có đi có lại. Muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất
khẩu hàng hóa trong khối, một sản phẩm cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục giảm thuế của cả nước xuất khẩu
và nước nhập khẩu, và phải có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn
20%.
- Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông
qua.
- Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả
mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm
lượng nội địa) ít nhất là 40%.
Công thức 40% hàm lượng ASEAN được tính như sau:
Giá trị nguyên vật liệu, bộ
phận, các sản phẩm là đầu vào
nhập khẩu từ các nước không
Giá trị nguyên vật liệu,
+
phải là thành viên ASEAN
bộ phận các sản phẩm
là đầu vào không xác
định được xuất xứ
Giá FOB
x 100% < 60%
Trong công thức trên, giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào
nhập khẩu từ các nước không phải thành viên ASEAN là CIF tại thời điểm nhập
khẩu. Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào không xác định
được xuất xứ là giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ
của nước nhập khẩu là thành viên của ASEAN.
Nếu một sản phẩm thoả mãn đủ 3 điều kiện trên thì sẽ được hưởng mọi ưu đãi
mà quốc gia nhập khẩu đưa ra (sản phẩm được hưởng ưu đãi hoàn toàn). Nếu
sản phẩm thoả mãn các yêu cầu trên trừ việc có mức thuế quan nhập khẩu bằng
7
Chương I – Những vấn đề chung về hội nhập AFTA của Việt Nam
hoặc thấp hơn 20% (tức là sản phẩm có thuế suất trên 20%) thì sản phẩm đó chỉ
được hưởng CEPT cao hơn 20% trước đó hoặc thuế suất MFN, tuỳ thuộc thuế
suất nào thấp hơn.
2.2.2
Nội dung loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi
thuế khác (NTBs)
Bên cạnh việc tiến hành cắt giảm thuế quan, vấn đề loại bỏ các hạn chế định
lượng nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan khác là hết sức quan trọng để có
thể tự do hoá thương mại các sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp
trong ASEAN
Theo định nghĩa của Uỷ ban tư vấn ASEAN về tiêu chuẩn và chất lượng
(ACCSQ), ngoài các hạn chế định lượng như hạn ngạch số lượng, hạn ngạch giá
trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu…, các rào cản phi thuế quan khác được phân
thành 5 nhóm chính:
- Các khoản thu tương đương thuế quan (para-tariff measures):
- Các biện pháp kiểm soát giá (price control measures)
- Các biện pháp tài chính (finance measures)
- Các biện pháp độc quyền (monopolistic measures)
- Các biện pháp kỹ thuật (technical measures)
Để dỡ bỏ các rào cản phi thuế quan nói trên, Hiệp định CEPT quy định:
- Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các
sản phẩm trong CEPT ngay sau khi các sản phẩm này được hưởng ưu đãi
về thuế quan.
- Các hàng rào phi thuế khác sẽ được xóa bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau
khi sản phẩm được hưởng ưu đãi
- Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt
đối với các sản phẩm thuộc CEPT
8
- Xem thêm -