Lời mở đầu
Kinh tế Việt Nam đã và đang trải qua những giai đoạn đổi mới mạnh
mẽ và phát triển nhanh chóng, đi đôi với những sự đổi mới và thành công đó
cũng có những tồn tại và những khó khăn nhất định . So với thời kỳ trước
đây, nền kinh tế nước ta hiện nay đã khác biệt rất nhiều, nếu khoảng chục năm
trước nền kinh tế nước ta còn là một nền kinh tế đơn điệu, quy mô nhỏ thì
hiện nay đã trở thành một nền kinh tế đa dạng với rất nhiều ngành nghề, hoạt
động kinh doanh và các ngành dịch vụ đáp ứng hầu hết các nhu cầu của người
tiêu dùng trong xã hội. Đi đôi với việc mở rộng quy mô và tăng chất lượng
hàng hoá, dịch vụ, ngày càng có nhiều nguồn cung cấp hàng hoá, và do vậy
hiện tượng cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng tăng và hiện nay khá sôi
động. Thị trường tài chính cũng vậy, chưa bao giờ thị trường tài chính nước ta
lại phát triển với một tốc độ nhanh như vậy, không chỉ là sự tăng nhanh về số
lượng các ngân hàng trong nước và chất lượng các dịch vụ ngân hàng mà còn
là sự phát triển của các tổ chức tín dụng khác và sự phát triển của thị trường
chứng khoán và các quỹ, các tổ chức tín dụng liên doanh, các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và các quỹ có một phần hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài .
Người dân cũng như các doanh nghiệp đã có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc
gửi tiền cũng như vay tiền. Trên thị trường Việt Nam hiện có sự hoạt động của
rất nhiều các ngân hàng, ngoài các NHTMNN và các NHTMCP còn có các
ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và do đó đã và
đang diễn ra cuộc cạnh tranh khá gay gắt giữa các ngân hàng này, đặc biệt là
trong hai lĩnh vực truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay trong
ngành ngân hàng Việt Nam, hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu vẫn là hoạt
động cho vay, và do đó việc thực hiện hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp và
sâu sắc đến kết quả kinh doanh của ngân hàng, đồng thời hoạt động này cũng
là hoạt động chủ yếu gây nên rủi ro trong các ngân hàng thương mại, vì vậy
cần được quản lý chặt chẽ. Trong thời gian vừa qua nhu cầu vay vốn của các
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có xu hướng tăng mạnh và các ngân hàng
chưa đáp ứng đầy đủ được lượng cầu này, nhu cầu tín dụng năm vừa qua
1
(2005 ) đã tăng vượt bậc so với các năm trước và so với lượng vốn mà các
ngân hàng huy động được. Cùng với xu thế chung đó, NHTMCP Phương
Nam trong năm vừa qua cũng có sự tăng trưởng vượt bậc về doanh số cho vay
và lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay. Nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động này Chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội đã từng
bước nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, mở rộng địa bàn hoạt động
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động này cũng như đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh của chi nhánh, tuy nhiên hoạt động cho vay của chi nhánh
chưa thực sự đa dạng và chưa cung cấp đến nhiều đối tượng khách hàng, do
vậy chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đặc biệt trong điều
kiện thị trường thế giới yêu cầu đối với hệ thống ngân hàng ngày càng khắt
khe và tại thị trường Việt Nam hiện nay yêu cầu của khách hàng đối với các
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng cao thì việc quan tâm phát triển
hoạt động cho vay là việc cần làm không chỉ với riêng ngân hàng nào.
Xuất phát từ thực tiễn đó em đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh
tranh trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại cổ phần
Phương Nam – Chi nhánh Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, do
điều kiện có hạn em chỉ xin nghiên cứu đến một số hoạt động cho vay chủ
yếu tại chi nhánh trong thời gian từ năm 2003 đến cuối năm 2005.
Chuyên đề gồm ba chương được trình bày như sau:
Chương I: Tổng quan về cho vay và khả năng cạnh tranh trong hoạt
động cho vay của NHTM.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay và năng lực cạnh tranh
trong hoạt động cho vay tại NHTM cổ phần Phương Nam_Chi nhánh Hà
Nội.
Chương III: Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam Chi nhánh Hà Nội.
2
Chương I: Tổng quan về cho vay và khả năng cạnh tranh trong
hoạt động cho vay của NHTM
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM:
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho vay:
1.1.1.1. Khái niệm:
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chủ yếu mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.Một NHTM có các chức năng là một trung gian thanh
toán, trung gian tài chính và chức năng tạo tiền. Trong đó chức năng thanh
toán được thực hiện chủ yếu qua các hoạt động thanh toán của ngân hàng, còn
chức năng trung gian tài chính được thực hiện qua các hoạt động nhận tiền
gửi và cho vay, trong đó hoạt động cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận
chủ yếu cho ngân hàng thông qua tiền lãi ngân hàng nhận được. Đây là hoạt
động truyền thống của các NHTM. Chúng ta có thể hiểu cho vay là việc ngân
hàng đưa tiền cho khách hàng sử dụng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi
trong thời gian nhất định.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay:
Hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong khoản mục tín dụng của
hầu hết các ngân hàng, khoản mục này lại thường chiếm tỷ trọng lớn trong
khoản mục tài sản của các NHTM. Với quy mô như vậy, hoạt động này ảnh
hưởng không nhỏ đến các chiến lược hoạt động và phát triển của ngân hàng.
Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, ngân hàng thường có xu hướng nắm giữ các
khoản nợ ngắn hạn hoặc các khoản cho vay có khả năng chuyển đổi nhanh,
tuy nhiên việc chuyển vốn ngắn hạn sang sử dụng dài hạn sẽ đem lại lợi
nhuận lớn hơn cho ngân hàng vì lãi suất của các khoản cho vay dài hạn sẽ lớn
hơn các khoản vay ngắn hạn nên các ngân hàng thường có xu hướng chuyển
đổi kỳ hạn của vốn. Giới hạn chuyển đổi này thường được quy định trong luật
áp dụng riêng cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt
động như ngân hàng thương mại.
3
Hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống đem lại lợi nhuận lớn cho
ngân hàng, nguồn thu này phụ thuộc vào quy mô của khoản vay, thời hạn và
lãi suất của khoản vay và cả ba yếu tố này có mối liên hệ khăng khít với
nhau. Với thời hạn vay như nhau, khoản vay nào có quy mô lớn hơn thì bên
vay sẽ phải trả số tiền lãi nhiều hơn; và với các khoản vay có quy mô bằng
nhau thi khoản vay nào có thời hạn lớn hơn sẽ phải trả số tiền lãi nhiều hơn;
nếu các khoản vay có thời hạn và quy mô như nhau nhưng khoản vay nào có
lãi suất được bên vay và bên cho vay thoả thuận lớn hơn thì số tiền lãi phải trả
lớn hơn, tuy nhiên các yếu tố này lại cũng chịu sự tác động qua lại lẫn nhau,
ví dụ như thời hạn vay càng lớn thì lãi suất càng cao. Ngân hàng có thể nỗ lực
làm tăng quy mô khoản vay nhưng trong khi đầu tư vào nỗ lực đó thì sẽ làm
tăng thêm chi phí hoạt động, ngân hàng có thể sử dụng lãi suất để khuyến
khích hoặc hạn chế việc khách hàng vay vốn, tuy nhiên mọi sự điều chỉnh đều
phải tính đến mức lãi suất cơ bản và lãi suất chung trên thị trường bởi vì
khách hàng hiện nay có rất nhiều sự lựa chọn khi tham gia vào thị trường tài
chính nên nếu khung lãi suất không hấp dẫn sẽ không thu hút được khách
hàng. Quy mô của khoản vay là yếu tố ít chịu sự tác động của ngân hàng mà
chủ yếu phụ thuộc vào mục đích của chủ thể vay vốn, quy mô khoản vay càng
lớn thì lãi suất ngân hàng thu được càng lớn và ngược lại.
Hoạt động cho vay, đi liền với lợi nhuận thu được là những rủi ro tiềm
ẩn và tổn thất nếu xảy ra là rất lớn. Do đó, việc quản lý hoạt động cho vay của
ngân hàng yêu cầu sự thận trọng và cẩn thận kể từ khi ra quyết định cho vay
cho đến khi thu hồi được vốn.
1.1.2. Các loại hình cho vay:
Hoạt động cho vay có thể chia thành nhiều loại hình khác nhau và mỗi
loại hình đó lại có quy trình nghiệp vụ và khung lãi suất riêng, các ngân hàng
thường phân chia ra các cán bộ tín dụng phụ trách các loại hình cho vay riêng
do vậy để thuận tiện cho việc quản lý các ngân hàng thường phân chia ra các
loại hình cho vay theo các đặc điểm khác nhau. Chúng ta có thể phân loại cho
vay theo các tiêu thức sau:
4
Thứ nhất, nếu phân loại theo thời hạn khoản vay chúng ta có thể phân
loại thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn, vay ngắn
hạn là các khoản vay có thời hạn nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng, vay trung hạn
là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng trở lên đến 60 tháng, còn vay dài hạn
là các khoản vay có thời hạn từ 60 tháng trở lên.
Thứ hai, nếu phân loại theo hình thức hoàn trả chúng ta có thể chia
thành vay trả một lần và vay trả nhiều lần (vay trả góp), hiện nay hình thức
vay trả góp cũng khá phổ biến với khá nhiều dịch vụ như cho vay trả góp mua
nhà, sửa nhà, cho vay trả góp mua các tài sản lớn, v.v...
Thứ ba, nếu phân loại theo hình thức đảm bảo, chúng ta có thể phân
loại thành cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có tài sản đảm bảo,
trong đó cho vay không có tài sản đảm bảo có thể là cho vay theo sự bảo lãnh
của người thứ ba hoặc cho vay theo chỉ định.
Thứ tư, nếu phân loại theo đối tượng tín dụng chúng ta có thể phân loại
thành cho vay mua tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay
phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu,...
Thứ năm, nếu phân loại theo mục đích vay, chúng ta có thể phân loại
thành cho vay phục vụ sản xuất và cho vay tiêu dùng,...
Việc phân loại cụ thể các loại hình cho vay có thể giúp ban lãnh đạo
ngân hàng theo dõi giám sát tình hình cho vay theo từng loại hình và đưa ra
những chiến lược, chính sách riêng đối với từng loại hình cho vay.
1.1.3. Quy trình nghiệp vụ cho vay:
Tuỳ theo từng hình thức vay mà ngân hàng có thể có các quy trình
nghiệp vụ khác nhau nhưng nói chung đều tuân theo quy trình chung gồm các
bước sau: Hướng dẫn thủ tục vay vốn, thẩm định tín dụng, xét duyệt và ra
quyết định cho vay, hoàn tất các thủ tục pháp lý trước khi giải ngân, giải ngân
và giám sát vốn vay,
Bước 1: Hướng dẫn thủ tục vay vốn
Cán bộ tín dụng của ngân hàng hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục
cần thiết để vay vốn tại ngân hàng.
5
Bước 2: Thẩm định tín dụng:
Trong thời gian nhất định (tuỳ theo từng ngân hàng) kể từ khi ngân
hàng nhận được đầy đủ hồ sơ và các thông tin cần thiết của khách hàng, nhân
viên tín dụng của ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tín dụng và trình lên Hội
đồng/Ban tín dụng của ngân hàng để xét duyệt. Sau khi có quyết định tín
dụng thì thông báo lại với khách hàng việc cho vay hay không cho vay (nếu
không cho vay thì phải thông báo bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối
cho vay).
Đây là một khâu rất quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng,
bao gồm các nội dung chính sau:
Thẩm định về tư cách pháp lý của người vay hoặc người bảo lãnh
(nếu có): Ngân hàng chỉ cho vay khi khách hàng có đủ năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự, đủ tư cách pháp lý để vay vốn ngân hàng, cũng cần
xem xét xem khách hàng có ý thức trả nợ không.
Thẩm định về mục đích vay vốn: Khách hàng sẽ phải trình bày rõ ràng
mục đích vay vốn của mình, ngân hàng chỉ cho vay nếu khách hàng không sử
dụng vốn vào các mục đích vi phạm pháp luật và phù hợp với chính sách, quy
định của ngân hàng
Thảm định về tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách
hàng: Đây cũng là một nội dung thẩm định quan trọng bởi vì nội dung này
cho ngân hàng biết khách hàng có năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng
thanh toán như thế nào.
Thẩm định tài sản đảm bảo: Cán bộ tín dụng phải thẩm định xem tài
sản đảm bảo có thuộc quyền sở hữu của người vay hay không, có giá trị là
bao nhiêu, có dễ bán hay không, có dễ bảo quản không,v.v... Nếu là tài sản
cầm cố cần tính đến cả việc bảo quản tài sản, nếu là các tài sản có tính chuyên
dụng cao như dây chuyền sản xuất đặc dụng cho từng ngành thì nếu cần phải
thuê chuyên gia định giá.
Bước 3: Lập tờ trình và xét duyệt cho vay:
6
Sau khi cán bộ tín dụng hoặc cán bộ thẩm định đã có các kết luận về hồ
sơ và thực trạng của khách hàng thì cán bộ tín dụng lập tờ trình để đưa lên
trưởng phòng tín dụng, trưởng phòng tín dụng sẽ xem xét yêu cầu cán bộ tín
dụng giải thích, chỉnh sửa hoặc bổ sung những điểm còn thiếu sót. Sau đó tờ
trình sẽ được đưa lên ban tín dụng (đối với những khoản vay nhỏ (trong thẩm
quyền của giám đốc chi nhánh) ở chi nhánh thì chỉ cần giám đốc chi nhánh
duyệt là được, nếu khoản vay lớn hơn thẩm quyền quyết định của giám đốc
chi nhánh thì cần trình lên ban tín dụng của ngân hàng xem xét ra quyết định).
Bước 4: Lập thủ tục công chứng tài sản thế chấp/ cầm cố và hoàn tất các
thủ tục pháp lý trước khi giải ngân :
Khi được duyệt cho vay, nhân viên tín dụng sẽ tiếp tục hướng dẫn
khách hàng lập thủ tục công chứng tài sản thế chấp/ cầm cố thông qua Hợp
đồng thế chấp/ cầm cố tài sản.
Bước 5: Ký kết hợp đồng tín dụng, giải ngân và giám sát sau khi giải ngân:
Sau khi thống nhất các thoả thuận được nêu trong hợp đồng tín dụng,
khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng với ngân hàng và ngân hàng tiến hành
giải ngân tiền vay cho khách hàng theo đúng quy định trong hợp đồng tín
dụng.
Sau khi giải ngân, ngân hàng vẫn phải thường xuyên kiểm tra hoạt
động sử dụng vốn và tiến độ sử dụng cũng như hiệu quả sử dụng vốn đã vay
của khách hàng. Ngoài ra cán bộ tín dụng cũng cần thường xuyên kiểm tra tài
sản thế chấp của khách hàng trong thời gian vay để đảm bảo ngân hàng có
quyền phát mại tài sản thế chấp trong trường hợp khách hàng không trả được
nợ.
Bước 6: Trả nợ vay (vốn vay + lãi vay):
Việc trả nợ vay đã được quy định trong hợp đồng tín dụng và cả hai bên
đều phải tuân theo hợp đồng.
Nếu khách hàng chậm trả gốc hoặc lãi ngân hàng có thể tính lãi phạt
theo quy định của NHNN, số tiền lãi phạt này không được cộng thêm để tính
lãi cho kỳ tiếp theo của khách hàng.
7
Bước 7: Thanh lý hợp đồng tín dụng:
Sau khi khách hàng thanh toán đầy đủ vốn vay và lãi vay, ngân hàng sẽ
lập thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, lập giấy giải chấp và trả lại toàn bộ
chứng từ sở hữu tài sản thế chấp/ cầm cố cho khách hàng. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giao dịch lần sau (với sự đồng ý của khách hàng), các ngân
hàng thường nhận bảo lưu hồ sơ (chứng từ ) tài sản thế chấp/ cầm cố. Kết
thúc bước này cán bộ tín dụng nên chú ý phát hiện những nhu cầu mới của
khách hàng để kịp thời đáp ứng.
1.2. Năng lực cạnh tranh trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.1. Khái niệm:
Có quan điểm cho rằng “những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là
những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về chất
lượng hàng hoá và dịch vụ và /hoặc có khả năng cắt giảm các chi phí tương
đối cho phép họ tăng được lợi nhuận (doanh thu – chi phí) và /hoặc thị
phần”…Định nghĩa như trên đã phần nào phản ánh được tương đối toàn diện
về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Nó chỉ rõ được mục tiêu của
cạnh tranh và những đặc điểm cơ bản của việc cạnh tranh thành công. Nhưng
nhược điểm của định nghĩa trên là không chỉ ra được khả năng đó là do đâu
mà có. Và định nghĩa trên khiến cho khái niệm cạnh tranh mang tính tĩnh.
Nhưng thực tế, khái niệm cạnh tranh là một khái niệm động. Một doanh
nghiệp lúc này có lợi thế cạnh tranh nhờ những ưu thế như nguồn lao động rẻ
hay gần nguồn nguyên liệu nhưng lúc khác có thể sẽ mất lợi thế cạnh tranh
khi doanh nghiệp khác có lợi thế trên cơ sở những tiến bộ về khoa học kỹ
thuật hoặc quy mô. Vì thế một doanh nghiệp được gọi là có khả năng duy trì
và liên tục tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Theo Michael Porter,
“Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh
tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả
năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình.
Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những
lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay
8
dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn” . Quan
niệm của Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả
việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Nói cách
khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên cơ sở bám sát với
nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí tạo lập nên sự phát triển của
thị trường. Việc hạ thấp giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh
theo quan niệm mang tính dài hạn này của Porter cũng như đại đa số các nhà
nghiên cứu khác không bao gồm việc hạ thấp giá thành bằng những biện pháp
có tính tiêu cực như hạ lương nhân viên, cắt giảm các chi phí bảo hộ lao động,
cắt giảm chi phí phúc lợi, cắt giảm các chi phí môi trường…Năng lực cạnh
tranh ở đây cần phải được gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng
hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Có thể nói các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa
thống nhất về khái niệm năng lực cạnh tranh, song cho dù có thể đưa ra được
khái niệm năng lực cạnh tranh thì cũng phải lưu ý rằng khái niệm năng lực
cạnh tranh là một khái niệm động, nghĩa là năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp phải được đặt trong bối cảnh thị trường luôn luôn thay đổi chứ
không chỉ là năng lực cạnh tranh tại một thời điểm, do đó các chỉ tiêu đánh
giá năng lực cạnh tranh vì thế cũng không phải là một hệ thống các chỉ tiêu cố
định, đó phải là một hệ thống các chỉ tiêu không chỉ phản ánh năng lực cạnh
tranh hiện tại mà còn phải phản ánh được khả năng duy trì và phát triển lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai.
Như vậy có thể hiểu khái niệm một cách đầy đủ năng lực cạnh tranh của
các NHTM như sau:”Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng
ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở
rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành,
đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ
và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”.
Được trích dẫn trong “Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong xu thế hội
nhập” – PGS.TS Nguyễn Thị Quý, xuất bản năm 2003.
9
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong hoạt động
cho vay của NHTM:
Chúng ta có thể phân chia các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của các NHTM thành hai nhóm yếu tố: các yếu tố chủ quan và nhóm các yếu
tố khách quan, cụ thể như sau:
1.2.2.1. Các nhân tố khách quan :
Hoạt động của các NHTM trên thị trường có ổn định và phát triển hay
không, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ hay không phụ thuộc vào
không chỉ bản thân các nguồn lực nội tại hiện có của các ngân hàng. Muốn
khẳng định vị thế của mình trong thời gian dài các ngân hàng không nên chỉ
chú trọng phát huy các nguồn lực nội tại mà còn phải chú ý đến các yếu tố
khác như tiềm lực của đối thủ cạnh tranh chính như thế nào (các sản phẩm,
dịch vụ thay thế, chất lượng phục vụ …), khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh
thị trường của các đối thu mới, chiến lược mà các ngân hàng đang sử dụng có
phù hợp không, ngân hàng có khả năng thích ứng với những thay đổi của thị
trường như thế nào, ngân hàng có khả năng thay đổi chiến lược cạnh tranh
của mình không, các điều kiện của môi trường vĩ mô sẽ tác động như thế nào
đến các khả năng đó của ngân hàng trước những điều kiện thị trường khác
nhau và sự thay đổi của thị trường?Để xem xét những vấn đề đó chúng ta cần
tìm hiểu sự tác động của môi trường vĩ mô đến năng lực cạnh tranh và khả
năng cạnh tranh của các ngân hàng như thế nào.
Cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh chung của các
NHTM, khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay của ngân hàng cũng bị
Môi trường
Môi trường
Môi trường
ảnh hưởngtự
bởi
các yếu tố thuộc môikinh
trường
môihoá
trường
nhiên
tế vĩ mô như:văn
– xã tự
hộinhiên,
môi trường kinh tế, môi trường văn hoá – xã hội, môi trường chính trị - luật
pháp, môi trường kỹ thuật- công nghệ. Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ
đó qua sơ đồ sau:
Môi trường chính
trị - luật pháp
Khả năng cạnh
tranh của NHM
trong hoạt động cho
vay
10
Môi trường kỹ
thuật – công nghệ
Yếu tố trực tiếp tác động hết sức quan trọng chính là môi trường tự
nhiên, môi trường tự nhiên bao hàm cả dân số, phong tục tập quán, môi
trường địa lý và xu thế phát triển của những yếu tố này tại vùng nơi ngân
hàng đặt trụ sở. Vì những cư dân sinh sống tại địa bàn ngân hàng đặt trụ sở
hoặc doanh nghiệp hoạt động cùng địa bàn là những khách hàng của ngân
hàng do đó các yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động cũng như
kết quả kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng có lợi thế về cho vay phục
vụ hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không muốn mở chi nhánh ở những nơi đông
dân cư mà có ít các doanh nghiệp hoạt động bởi vì như thế sẽ làm lãng phí
nguồn lực của ngân hàng và tăng chi phí đi lại giao dịch với ngân hàng của
các khách hàng là những doanh nghiệp đặt trụ sở xa các chi nhánh, phòng
giao dịch của ngân hàng.
Việc xác định được số liệu về tổng dân số, tỷ lệ phát triển dân số, xu thế
phát triển dân số và phong tục tập quán của người dân tại địa bàn ngân hàng
đặt trụ sở có thể giúp ngân hàng xác định được tiềm năng của thị trường và dự
đoán được xu thế phát triển chung của thị trường, từ đó đưa ra được các chiến
lược, các đối sách phù hợp để kinh doanh sao cho có hiệu quả. Cụ thể trong
hoạt động cho vay nếu người dân tại địa bàn ngân hàng hoạt động có tâm lý e
ngại vay mượn thì ngân hàng sẽ khó thu hút được khách hàng ở khu vực này
hơn.
11
Các yếu tố về mặt địa lý tại địa bàn hoạt động sẽ ảnh hưởng đến quyết
định đặt phòng giao dịch hay chi nhánh của ngân hàng, các đặc điểm về địa lý
của mỗi vùng, miền, khu vực khác nhau là khác nhau, do vậy khi quyết định
đặt phòng giao dịch hoặc chi nhánh tại đâu ngân hàng cần nghiên cứu đặc
điểm của khu vực đó để có thể có những quyết định về cơ sở vật chất cũng
như nguồn nhân lực. Điều này còn phụ thuộc vào tiềm lực tài chính và quan
điểm quản lý của các nhà quản lý ngân hàng, do đó tạo nên sự khác biệt trong
khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng vì không phải ngân hàng nào cũng
hoạt động trong điều kiện tự nhiên như nhau mà mỗi ngân hàng phải tìm được
cách bố trí sao cho phù hợp với môi trường hoạt động của mình.
Nhân tố thứ hai là môi trường kinh tế, môi trường kinh tế của một quốc
gia là những yếu tố thuộc về nền kinh tế và bao quanh, tác động đến các hoạt
động diễn ra trong một quốc gia, mỗi quốc gia khác nhau có môi trường kinh
tế khác nhau, ngay cả trong một quốc gia cũng có những điểm khác biệt giữa
các vùng khác nhau về giá, tốc độ phát triển,v.v…Lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ lạm
phát, tốc độ phát triển của nền kinh tế, các ngành mũi nhọn có thế mạnh của
nền kinh tế, v.v… đều ảnh hưởng đến các kế hoạch, chiến lược phát triển của
ngân hàng. Việc phân tích và dự đoán được xu thế thay đổi của các yếu tố này
có thể giúp các nhà quản lý ngân hàng đưa ra được những chiến lược, chính
sách hiệu quả trong hoạt động cho vay.
Chúng ta có thể thấy nếu tốc độ tăng trưởng cao hơn sẽ kích thích đầu tư
và do vậy cầu về vốn trên thị trường sẽ tăng lên, các nhà đầu tư thiếu vốn sẽ
tìm đến ngân hàng vay nhiều hơn, còn nếu tốc độ phát triển chững lại hoặc
giảm sẽ gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, họ sẽ xem xét tình hình thị
trường rồi mới quyết định đầu tư, như vậy hoạt động tín dụng với các ngân
hàng cũng sẽ chững lại nếu không có các biện pháp kích cầu của chính phủ.
Sự thay đổi này sẽ gây ra các tác động không giống nhau đến các ngân hàng
bởi vì không có ngân hàng nào có thể chuyên môn hoá hoạt động tốt trên mọi
lĩnh vực và trên mọi địa bàn nên sẽ có sự khác biệt về vị thế cạnh tranh
12
Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến mức cầu của các khoản vay,
muốn thu hút khách hàng, các ngân hàng thường đưa ra các mức lãi suất hấp
dẫn để cạnh tranh với các ngân hàng khác, tuy nhiên mức lãi suất đưa ra phải
dựa trên mức lãi suất cơ bản trên thị trường và có sự so sánh với mức lãi suất
của các đối thủ cạnh tranh.
Yếu tố tiếp theo là tình hình lạm phát của nền kinh tế, nếu nền kinh tế có
tỷ lệ lạm phát cao thì người đi vay là người được lợi, tuy nhiên tỷ lệ lạm phát
cao làm cho các dự án trở nên mạo hiểm hơn và do đó các doanh nghiệp cũng
sẽ dè dặt hơn khi muốn vay vốn đầu tư. Khi nền kinh tế có mức lạm phát cao
thì các chính sách của chính phủ sẽ nhằm tăng lãi suất huy động vốn để thu
hút người dân gửi tiền vào ngân hàng, đẩy lãi suất cho vay tăng do đó việc
cho vay trở nên khó khăn hơn.
Môi trường văn hoá – xã hội: Năng lực cạnh tranh của một ngành có thể
bị tác động rất nhiều bởi một số yếu tố về văn hoá – xã hội. Những đặc điểm
đó tác động đến nhiều mặt của một ngành và trong lĩnh vực ngân hàng các
đặc điểm đó tác động nhiều nhất đến yếu tố con người thông qua việc tác
động đến nhu cầu và nguồn nhân lực. Những đặc điểm xã hội có ảnh hưởng
đến cầu đối với các dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ cho vay của ngân
hàng nói riêng là: lòng tin của dân chúng đối với các ngân hàng, thói quen
tiêu dùng và tiết kiệm của người dân, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về
các dịch vụ của ngân hàng, mức thu nhập của người dân…
Có thể nói, ngân hàng là một ngành kinh doanh “lòng tin”, là người giữ
túi tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, nếu ngân hàng không được
người dân tin tưởng thì ngân hàng chắc chắn sẽ không thể phát triển. Thói
quen tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các ngân
hàng, đặc biệt là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quen sử
dụng và cất trữ tiền mặt nhiều thì rõ ràng ngân hàng sẽ mất đi nhiều cơ hội
kinh doanh. Mức tiết kiệm càng cao thì càng ảnh hưởng đến nguồn cung tín
dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí cũng là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng là một
13
loại hình dịch vụ cao cấp, không phải ai cũng cảm thấy tự tin khi thực hiện
các giao dịch với ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng phổ biến
các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận tiện và do đó cơ hội để đổi mới
của các ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập cũng có xu hướng ảnh
hưởng tương tự, người nào có thu nhập càng cao thì càng có nhu cầu sử dụng
các dịch vụ ngân hàng nhiều hơn.
Môi trường kỹ thuật công nghệ đã góp phần lớn trong việc cải thiện chất
lượng các dịch vụ ngân hàng, giảm chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng,
tạo thêm nhiều dịch vụ thuận tiện cho khách hàng, môi trường kỹ thuật công
nghệ cũng là một yếu tố góp phần làm khác biệt lợi thế cạnh tranh và ấn
tượng đối với khách hàng của mỗi ngân hàng. Một ngân hàng với cơ sở hạ
tầng và công nghệ hiện đại sẽ tạo sự tin tưởng đối với khách hàng hơn. Ngày
nay với công nghệ hiện đại các ngân hàng có thể thực hiện giao dịch, thanh
toán, tư vấn, hướng dẫn lập hồ sơ, nhận hồ sơ qua mạng máy tính một cách
nhanh chóng và tương đối bảo đảm. Điều này sẽ giúp ngân hàng và cả khách
hàng tiết kiệm được khá nhiều chi phí khi thực hiện giao dịch, hơn nữa hiện
nay trong nền kinhn tế hoạt động thương mại điện tử đang được ứng dụng và
phát triển ngày càng rộng rãi nên một trung gian tài chính như ngân hàng nhất
thiết cũng phải ứng dụng được các công nghệ hiện đại này. Ví dụ như các
ngân hàng có ứng dụng công nghệ thẻ thanh toán và có điểm đặt thẻ tại các
siêu thị, các trung tâm thương mại lớn sẽ có lợi thế hơn một ngân hàng không
có hệ thống thẻ và máy rút tiền (hoặc máy chấp nhận thẻ). Tuy nhiên hệ thống
thẻ cũng như các công nghệ hiện đại cần phải được đầu tư trang bị với số vốn
lớn không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện để đầu tư, chính điều đó
cũng tạo nên sự khác biệt về năng lực cạnh tranh giữa các ngân hàng trong
một quốc gia và giữa các ngân hàng ở các quốc gia có trình độ khoa học công
nghệ khác nhau.
Kinh doanh ngân hàng là một ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt
chẽ của pháp luật, các cơ quan chức năng có thẩm quyền và luôn được điều
chỉnh bằng các quy định của pháp luật. Hoạt động cho vay là một hoạt động
14
luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro với các ngân hàng, mà các ngân hàng lại là hầu bao
của nền kinh tế nên các quy định của pháp luật về hoạt động này của ngân
hàng là rất chặt chẽ, ví dụ như quy định cho vay với một khách hàng cá nhân
hoặc doanh nghiệp không được vượt quá 15% vốn tự có của một NHTM, quy
định này hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng nhưng lại giúp ngân hàng
giữ an toàn trước rủi ro thanh khoản và rủi ro mất vốn nếu khách hàng gặp
khó khăn trả nợ chậm hoặc không trả được nợ. Với quy định trên thì một ngân
hàng có vốn tự có thấp sẽ không thể cho vay một khách hàng số tiền lớn hơn
15% vốn tự có của mình và như vậy có thể mất nhiều cơ hội cho vay các
khoản có quy mô lớn thu được lợi nhuận cao.
Môi trường chính trị - luật pháp có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng không chỉ là các ngân hàng trong một nước mà giữa các
ngân hàng ở các nước khác nhau, ví dụ như khi luật pháp nước ta quy định
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép nhận tiền gửi của các
cá nhân Việt Nam thì rõ ràng lợi thế về mặt cạnh tranh của các ngân hàng Việt
Nam là rất lớn. Đây mới chỉ là một vấn đề về mặt bảo hộ, còn về các quy định
khác có thể sẽ gây nên sự khác biệt về lợi thế cạnh tranh giữa các ngân hàng
trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng quốc doanh và các
NHTM cổ phần, …
Ngoài các yếu tố vĩ mô như đã kể trên, các đối thủ cạnh tranh với ngân
hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
ngân hàng, nhất là trong giai đoạn hiện nay trong ngành ngân hàng đang càng
ngày càng có nhiều thành viên gia nhập, và ngân hàng nào cũng cố gắng hoàn
thiện mình cho tốt hơn để có thể thu hút khách hàng, do vậy muốn cạnh tranh
với các ngân hàng khác trước tiên bản thân nội tại ngân hàng phải biết rõ thế
mạnh của mình và so sánh với tương quan trong hệ thống ngân hàng, phải biết
được điểm mạnh, điểm yếu và phương thức làm việc của các đối thủ để có thể
giữ được và mở rộng thị trường tiềm năng.
Một nhân tố nữa cũng hết sức quan trọng chính là khách hàng , một
ngân hàng không thể tồn tại nếu không có khách hàng, do vậy thái độ của
15
khách hàng là yếu tố rất quan trọng mà ngân hàng cần luôn quan tâm tìm
hiểu. Nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và đáp ứng tốt được các nhu cầu
đó chính là thành công đối với ngân hàng. Vì vậy ngân hàng nên luôn luôn
lắng nghe và tìm hiểu thông tin từ khách hàng, những ý kiến đó sẽ giúp ngân
hàng có được những chính sách, chiến lược phục vụ khách hàng phù hợp
1.2.2.2. Các nhân tố chủ quan :
Năng lực cạnh tranh của một NHTM tất nhiên phải phụ thuộc vào nội
lực của ngân hàng đó, nội lực của một ngân hàng có thể được đánh giá qua”:
tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, hệ thống marketing của ngân hàng, hệ
thống thông tin, mạng lưới hoạt động…
Ngân hàng kinh doanh trên thị trường tài chính nên yếu tố năng lực tài
chính là rất quan trọng trong quá trình kiến tạo sức mạnh cạnh tranh và phạm
vi cạnh tranh của ngân hàng trong hoạt động cho vay. Quy mô vốn của ngân
hàng càng lớn thì càng tạo được niềm tin với khách hàng, hơn nữa các ngân
hàng có tiềm lực tài chính mạnh có thể đầu tư vào phát triển các dịch vụ mới,
mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ kinh doanh – đây thường là các khoản
đầu tư cần số vốn lớn nên không phải ngân hàng nào cũng có thể làm được.
Tình hình tài chính của một ngân hàng là điều mà khách hàng rất quan tâm,
cụ thể là tính lành mạnh, hợp lý của các hệ số tài chính trong các báo cáo tài
chính - nếu một ngân hàng có tình hình tài chính có vấn đề thì uy tín sẽ bị sụt
giảm nhanh chóng, vì thế ngân hàng luôn phải cố gắng duy trì tình hình kinh
doanh ổn định và phát triển trong điều kiện chung của thị trường. Trong một
số trường hợp các ngân hàng có quy mô vốn lớn còn có thể áp dụng những
chiến lược kinh doanh tận dụng được điểm mạnh này của mình. Có thể thấy
các ngân hàng có nguồn lực tài chính mạnh có vị thế rất lớn trong cạnh tranh
với các ngân hàng khác vì có thể chủ động trong mọi hoạt động của mình
cũng như đứng vững trước các đối thủ khác.
Yếu tố thứ hai về nội lực của ngân hàng là nguồn nhân lực làm việc
trong ngân hàng. Nguồn nh ân lực là một phần tất yếu trong mỗi ngân hàng và
quyết định đến sự thành bại của ngân hàng, trong đó bao gồm cả các nhân
16
viên làm việc trong ngân hàng và ban lãnh đạo ngân hàng, cụ thể trong hoạt
động cho vay các nhân viên l à các cán b ộ tín dụng và cán bộ thẩm định. Một
ngân hàng tốt phải là một ngân hàng có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên
môn giỏi, nhiệt tình trong công việc và có tinh thần trách nhiệm cao, được tổ
chức một cách chặt chẽ, có hiệu quả bởi ban lãnh đạo ngân hàng. Ban lãnh
đạo ngân hàng cũng là người đưa ra các quyết định, chính sách và chiến lược
hoạt động trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực hoạt động của ngân hàng, do vậy
trình độ và quan điểm của ban lãnh đạo giữ vai trò rất quan trọng trong khả
năng cạnh tranh của ngân hàng. Với tư cách là người chịu trách nhiệm đầu
tiên về khả năng cạnh tranh của ngân hàng, ban lãnh đạo phải là người có khả
năng về chuyên môn, khả năng phân tích và phán đoán, khả năng hay nghệ
thuật đối nhân xử thế. Trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng chính là điểm tạo
nên sự khác biệt về vị thế của ngân hàng so với mặt bằng chung của ngành,
một ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ thu hút được nhiểu khách
hàng, phân loại và đánh giá khách hàng chính xác hơn, giảm thiểu được rủi ro
trong hoạt động tín dụng, tăng hiệu quả hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận
cao hơn cho ngân hàng. Ban lãnh đạo là người đưa ra các chính sách nhưng
đội ngũ nhân viên mới là người trực tiếp thực thi các chính sách đó (mà trong
hoạt động cho vay là các cán bộ tín dụng) thông qua quá trình giao dịch trực
tiếp với khách hàng, gây thiện cảm và sự tin tưởng cho khách hàng, đề xuất
các ý tưởng phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến nâng cao chất lượng dịch
vụ đã có, là người đại diện cho ngân hàng trước khách hàng và nhận thông tin
tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng và có thể thông qua khách hàng tìm hiểu
về các đối thủ cạnh tranh và vị thế của mình trên thị trường để chuyển tải đến
các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng.
Hệ thống thông tin và mạng lưới hoạt động của ngân hàng đóng vai trò
quan trọng trong việc phân tích mọi diễn biến bên trong và bên ngoài các
doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Hai luồng thông tin cơ
bản và quan trọng mà ban lãnh đạo ngân hàng cần quan tâm, đó là: thông tin
thu được từ bên trong và bên ngoài của ngân hàng. Thông tin bên ngoài là các
17
thông tin về thị trường, thông tin về các ngân hàng khác, các quy định, quy
chế quản lý của nhà nước, biểu lãi suất cơ bản, nhu cầu và thị hiếu của người
tiêu dùng, xu hướng biến đổi của tỷ giá, tỷ lệ lạm phát,…Các thông tin bên
trong chính là các thông tin mà ban lãnh đạo cần biết về chính bản thân ngân
hàng và đội ngũ nhân viên của mình: Chất lượng phục vụ, thái độ của khách
hàng, nguyện vọng của các cổ đông và chiến lược của ban giám đốc. Trong
thời đại này thông tin là tài sản quý, do vậy ai nắm bắt được những thông tin
quan trọng sẽ có cơ sở để hoạch định những chính sách đúng đắn và phù hợp.
Yếu tố này cũng tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động
cho vay của ngân hàng.
Một vấn đề cũng rất quan trọng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
trong hoạt động cho vay nói riêng và với toàn bộ ngân hàng nói chung là hoạt
động marketing trong ngân hàng, khái niệm này mới chính thức được nghiên
cứu phát triển chưa lâu so với thời gian tồn tại của hệ thống ngân hàng ( tuy
trước đây các ngân hàng cũng đã có các hình thức marketing nhưng chưa thực
sự được nghiên cứu phát triển rộng rãi như hiện nay), trước đây hoạt động
marketing trong các ngân hàng vẫn tồn tại nhưng chưa hề có một phòng
marketing riêng biệt, hiện nay các ngân hàng đã nhận thức rõ về tầm quan
trọng của hoạt động marketing và đã đầu tư cho hoạt động marketing nhằm
mang đến cho khách hàng cái nhìn chung và ấn tượng tốt đẹp về ngân hàng.
Để thể hiện được khả năng cạnh tranh ở dạng sức mạnh bên ngoài các ngân
hàng cần chú trọng thực hiện tốt hoạt động marketing. Một ngân hàng có hoạt
động marketing tốt sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng; chiếm lĩnh
được nhiều thị phần; chiến thắng các đối thủ cạnh tranh; hoàn thành tốt các
chiến lược, chính sách do ban giám đốc và đại hội cổ đông đề ra; nâng cao vị
thế của mình trong hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, mỗi ngân hàng đều cần
có bộ phận chuyên trách về marketing có trình độ chuyên môn cao và am hiểu
thị trường, có thể dự đoán được phần nào những diễn biến của thị trường để
có thể xây dựng và tư vấn cho ban giám đốc các kế hoạch và chiến lược
marketing phù hợp.
18
1.2.3. Các chỉ tiêu phán ánh năng lực cạnh tranh trong hoạt động cho vay
của NHTM:
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của NHTM:
Các chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của NHTM thường được khách
hàng quan tâm là:
Tổng nguồn vốn của ngân hàng, trong đó bao gồm cả vốn chủ sở hữu và
vốn nợ, vốn chủ sở hữu bao gồm nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn bổ
sung trong quá trình hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có khả năng chuyển
đổi thành cổ phần; vốn nợ bao gồm tiền gửi và tiền vay. Cụ thể là:
Tổng vốn chủ sở hữu của ngân hàng: Bao gồm số vốn góp của các thành
viên sáng lập và vốn bổ sung qua các năm, nguồn vốn này ngân hàng có thể
sử dụng lâu dài, hình thành nên cơ sở hạ tầng cho ngân hàng. Chỉ tiêu này thể
hiện trách nhiệm của chủ sở hữu của ngân hàng với các khoản vay và nguồn
huy động của ngân hàng và có ý nghĩa tạo sự tin tưởng ban đầu cho khách
hàng khi quyết định có giao dịch với ngân hàng hay không.
Nguồn vốn nợ bao gồm nguồn huy động và nguồn đi vay, trong nguồn
vốn huy động thì nguồn tiền gửi có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động cho
vay của ngân hàng, bởi vì ngân hàng muốn cho vay được thì phải có vốn huy
động được, mà khoản mục tiền gửi thường chiếm hơn 50% trong tổng nguồn
vốn của các ngân hàng. Nguồn tiền vay chiếm tỷ trọng nhỏ hơn, tuy nhiên lãi
suất tiền vay thường lớn hơn lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn và đây là nguồn
vốn không thường xuyên của ngân hàng.
Tỷ lệ chi trả cổ tức cũng là một nhân tố cho biết về tình hình tài chính
của ngân hàng. Qua cổ tức được trả cho các cổ đông,khách hàng có thể biết
được ngân hàng có kinh doanh hiệu quả hay không. Rõ ràng là khách hàng
mong muốn thiết lập quan hệ giao dịch với một ngân hàng hoạt động hiệu quả
hơn là một ngân hàng hoạt động kém, thu được lợi nhuận thấp.
Tổng dư nợ qua các năm: Chỉ tiêu này thể hiện doanh số cho vay của
ngân hàng, nếu tổng dư nợ (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn) quá lớn so
với vốn chủ sở hữu thì ngân hàng sẽ rất dễ gặp rủi ro thanh khoản, mặt khác
19
lại cho thấy sự hiệu quả trong hoạt động cho vay của ngân hàng, cũng là một
yếu tố để qua đó khách hàng cân nhắc ra quyết định.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động cho vay:
Đây là một khái niệm rất trừu tượng bởi vì chất lượng không thể lượng
hoá được mà chúng ta chỉ có thể thông qua các chỉ tiêu khác để đánh giá, có
thể đánh giá qua thái độ của khách hàng đối với các dịch vụ của ngân hàng,
các thông tin này có thể thu được qua tín hiệu mà chúng ta nhận biết được qua
quá trình giao dịch với khách hàng. Do đối tượng kinh doanh của ngân hàng
là hàng hoá đặc biệt, đó là tiền tệ, nên chúng ta không thể chỉ đánh giá thông
qua chất lượng phục vụ của cán bộ tín dụng mà còn phải đánh giá qua độ
chính xác, độ an toàn trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, mức độ thuận tiện,
đơn giản cho khách hàng và ngân hàng khi giao dịch và khoảng thời gian thực
hiện giao dịch.
Nói chung chúng ta có thể đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của
một NHTM qua các chỉ tiêu sau:
Chất lượng phục vụ của cán bộ tín dụng trực tiếp cung ứng dịch vụ cho
vay đến khách hàng.
Độ chính xác và an toàn trong quá trình thực hiện giao dịch.
Thời gian thực hiện giao dịch.
Mức độ thuận tiện cho khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng.
Mức độ đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ về cho vay.
Để có thể đo lường được các yếu tố hầu hết mang tính chất vô hình như
trên, các ngân hàng có thể thực hiện các công cụ nghiên cứu marketing như sử
dụng bảng hỏi khách hàng, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, tổ chức toạ đàm
theo chuyên đề hoặc sử dụng hộp thư góp ý của khách hàng…Riêng các chỉ
tiêu độ an toàn, chính xác của giao dịch; thời gian giao dịch và mức độ đa
dạng hoá sản phẩm dịch vụ cho vay thì ngân hàng có thể tự thống kê được
20
- Xem thêm -