Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn mầm non_sử dụng vật liệu thiên nhiên nhằm nâng cao hứng thú của trẻ tro...

Tài liệu Luận văn mầm non_sử dụng vật liệu thiên nhiên nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình

.DOC
56
4357
183

Mô tả:

Trần Thu Hà LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ là một loại hoạt động mang tính nghệ thuật . Hiệu quả của nó không phụ thuộc vào ý chí mà phụ thuộc vào yếu tố xúc cảm, tình cảm vào hứng thú của trẻ. Hứng thú trong hoạt động tạo hình làm nẩy sinh ra những ý tưởng thú vị, các sản phẩm tạo hình đầy vẻ hồn nhiên.Hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ là điều kiện để kích thích trí tưởng tượng sáng tạo thôi thúc trẻ luôn luôn tìm tòi cách tạo ra những hình tượng mới mẻ. Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi mà trong hoạt động, trẻ thơ thường ham thích một cái gì đó rất nhanh nhưng rồi cũng chóng chán. Muốn cho trẻ có được hứng thú lâu bền thì cô giáo phải tạo những yếu tố mới lạ để hấp dẫn trẻ, thu hút trẻ tạo ra được sự chú ý có tính chất kiên định với những đối tượng cần miêu tả nào đó. Một trong những yếu tố rất quan trọng, luôn hấp dẫn trẻ, tạo cho trẻ niềm say mê vô tận chính là thiên nhiên và các vật liệu tạo hình lấy từ thiên nhiên. Thiên nhiên xung quanh chúng ta rất phong phú và đa dạng. Đó là cả thế giới của những sắc màu, hình dạng, ánh sáng... Thiên nhiên không bị bó hẹp trong các khuôn mẫu thô cứng mà nó là tất cả những gì sinh động nhất, phong phú nhất và đẹp nhất. Cô giáo có thể sử dụng vật liệu thiên nhiên làm nguồn tư liệu, phong phú để tạo ra ở trẻ vốn biểu tượng mới. Qua thiên nhiên, trẻ có thể học được nhiều cách thể hiện khác nhau. Hơn nữa những vật liệu thiên nhiên đa số là gần gũi với trẻ dễ tìm, dễ kiếm và không tốn kém. Tuy nhiên, trên thực tế, trong giáo dục mầm non người ra vẫn chưa tìm thấy hết vai trò và khả năng vô tận của thiên nhiên đối với việc giáo dục trẻ. Hầu hết các trường mầm non vẫn chưa cho trẻ hoạt động tự do với vật liệu thiên nhiên, trong thiên nhiên gần gũi xung quanh. Nhất là những trường mầm non ở nông thôn vẫn chưa tận dụng được thiên nhiên – nguồn thôn tin, ấn Trần Thu Hà LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP tượng rất phong phú dễ phát triển khả năng tạo hình của trẻ. Sự hạn chế trong việc đưa vật liệu thiên nhiên vào hoạt động tạo hình của trẻ đã cản trợ sự phát triển tính tích cực nhận thức và trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình. Những lý do trên đây cộng với niềm say mê và yêu thích với hoạt động tạo hình của trẻ em, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu về : Sử dụng vật liệu thiên nhiên nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình. Hy vọng, kết quả của đề tài sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình ở trẻ mầm non. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : Nghiên cứu sự ảnh hưởng của vật liệu thiên nhiên tới mức độ hứng thú trong hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo nhỡ. Từ đó tìm kiếm các biện pháp nâng cao hiệu quả sự phát triển nhân cách và hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : 3.1. Khách thể : - Trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi : 50 trẻ 25 trẻ nhóm đối chứng 25 trẻ nhóm thực nghiệm - Giáo viên mầm non : 30 cô 3.2. Đối tượng nghiên cứu : Tìm hiểu một số cách thức sử dụng vật liệu thiên nhiên vào việc tổ chức hoạt động tạo hình nhằm nâng cao hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình. 4. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI : LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà 4.1 Đọc sách, thu thập tài liệu hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan tới đề tài nghiên cứu. 4.2. Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức hoạt động tạo hình và việc sử dụng các vật liệu tạo hình ở một số trường mầm non hiện nay. 4.3. Tổ chức thực nghiệm đưa vật liệu thiên nhiên vào hoạt động tạo hình và kiểm tra kết quả thực nghiệm trong việc tạo ra hứng thú và nâng cao hiệu quả của hoạt động tạo hình. 4.3. Đề xuất một số ý kiến, một số biện pháp nâng cao chất lượng của hoạt động tạo hình trong giáo dục mầm non. 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC : Nếu tìm ra những phương pháp biện pháp thích hợp sử dụng thiên nhiên, vật liệu thiên nhiên vào trong hoạt động tạo hình thì nhà sư phạm có thể nâng cao được hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình và phát triển khả năng tạo hình cho trẻ. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU : - Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động tạo hình và sử dụng vật liệu thiên nhiên trên cả các tiết học tạo hình và các hoạt động tạo hình ngoài tiết học của trẻ mẫu giáo nhỡ ( 4 – 5 tuổi ). - Thực nghiệm và kiểm chứng chủ yếu qua hoạt động vẽ. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 7.1 Nghiên cứu lý luận : Đọc và tìm hiểu, phân tích và hệ thống hóa các tài liệu tâm lý học, giáo dục về hứng thú, về hoạt động tạo hình của trẻ nhỏ, nghiên cứu các tài liệu về các vấn đề liên quan. 7.2 Phương pháp quan sát tự nhiên: - Quan sát tạo hình của giáo viên và trẻ để tìm hiểu mức độ hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình và tìm hiểu các phương pháp, hình thức tổ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà chức hoạt động từ phía người lớn ( giáo viên ). Qua đó nắm được một số đặc điểm tình hình và kết quả tổ chức hoạt động tạo hình cũng như các điều kiện tổ chức hoạt động ở trường mầm non hiện nay. - Nghiên cứu sản phẩm của trẻ qua 5 tiết dự tạo hình vẽ nặn, xé dán theo mẫu, đề tài và theo ý thích. Phân tích khả năng tạo hình của trẻ đối với loại chất liệu khác nhau. 7.3 Phương pháp điều tra : - Đàm thoại với giáo viên - Dùng phiếu câu hỏi ( xem phần phụ lục ) để tìm hiểu. - Việc sử dụng vật liệu thiên nhiên trong tiết học tạo hình. - Các cách thức sử dụng vật liệu thiên nhiên trong các loại tiết tạo hình. - Mức độ hứng thú của trẻ trong tiết học tạo hình có sử dụng vật liệu thiên nhiên. 7.4 Phương pháp thực nghiệm 7.4.1. Thực nghiệm khảo sát : - Tiến hành chung ở cả hai nhóm trẻ với hình thức phương pháp biện pháp tổ chức ( phương pháp dạy học, giáo dục ) đang hiện hành. - Khảo sát qua hai bài tập Bài 1 : Vẽ theo ý thích Bài 2 : Xé dán lá và hoa Đối với cả hai nhóm trẻ ( đối chứng và thực nghiệm ). 7.4.2. Thực nghiêm hình thành Chia trẻ thành hai nhóm đồng đều nhau về thể lực và khả năng : Nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. Tổ chức các hoạt động tạo hình với các hình thức phương pháp khác nhau nhưng nội dung chương trình như nhau. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà - Tại nhóm đối chứng : Thực hiện chương trình giáo dục với nội dung hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình theo đúng quy định của chương trình lưu hành. - Tại nhóm thực nghiệm : Sử dụng thiên nhiên và vật liệu thiên nhiên vào quá trình dạy học, giáo dục. Cụ thể : + Tăng cường tổ chức cho trẻ được dạo chơi và quan sát thiên nhiên. Để từ đó thấy trẻ gần gũi với thiên nhiên cũng như phát hiện và tìm kiếm ra những nét mới lạ, vẻ đẹp của các sự vật, hiện tượng.... Điều này kích thích trí tò mò, từ đó trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh và trẻ sẽ tham gia hoạt động tạo hình một cách hứng thú và say mê. + Sử dụng vật liệu thiên nhiên một cách tích cực trên tiết học tạo hình và các hoạt động tạo hình ngoài tiết học để hình thành ở trẻ thái độ tích cực với hoạt động tạo hình, lòng yêu thích và ham muốn được hoạt động tạo hình. 7.4.3. Thực nghiệm kiểm chứng : - Ở hai nhóm trẻ ( đối chứng và thực nghiệm ) được tiến hành với hai bài + Vẽ theo ý thích + Xé dán những con vật mà cháu thích. Từ đó đi đến nhận xét và kết luận sự khác biệt về mức độ hứng thú giữa hai nhóm trẻ. 7.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ. Dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá để phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ Trần Thu Hà LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP PHẦN NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ : Hoạt động tạo hình của trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo là một trong những hoạt động thu hút nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà tâm lý học và giáo dục học trong nước và nước ngoài. Các nhà nghiên cứu như L.XƯGOOTXKI,W.STERN, B.CHEPLOV, G.KERSCHENSTEINER, V.BAKUSINXKI, E.FLORINA... Đã có những công trình nghiên cứu về hoạt động tạo hình ở trẻ em. Họ đã đi sâu vào tìm hiểu để tìm kiếm khả năng thâm nhập vào thế giới bên trong rất đặc thù của trẻ, đồng thời tìm ra những biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thẩm mỹ, phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Theo nhiều tác giả, con đường thuận lợi nhất để phát triển khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ là tổ chức môi trường nghệ thuật và tổ chức cho trẻ học tập một cách có định hướng theo sự hướng dẫn của người lớn nhằm tiếp thu kinh nghiệm của xã hội. Tìm hiểu về các nhà nghiên cứu trong nước, chúng ta thấy hoạt động tạo hình cũng được một số nhà tâm lý giáo dục, các nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu về những điều kiện nâng cao khả năng hoạt động tạo hình của trẻ, phó tiến sĩ Lê Thanh Thủy đã chỉ ra rằng việc tăng cường bồi dưỡng cho trẻ hiểu biết về hệ thống chuẩn mẫu cảm giác và giúp trẻ vận dụng tích cực những hiểu biết đó vào quá trình tri giác, đặc biệt là tri giác của tác phẩm nghệ thuật sẽ tạo điều kiện làm xuất hiện, phát triển hứng thú nhận thức cùng cảm hứng trong hoạt động tạo hình. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Vấn đề hứng thú trong hoạt động tạo hình cũng được một số sinh viên của khoa giáo dục mầm non quan tâm và đã bước đầu nghiên cứu. Chẳng hạn có công trình của Hà Thị Ngà với đề tài : Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện của hứng thú trong hoạt động tạo hình ở trẻ 5 – 6 tuổi. Sinh viên Phạm Thanh Thủy nghiên cứu với đề tài : ảnh hưởng của hứng thú tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo lớn. 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH CỦA TRẺ EM. 2.1. Đặc điểm hoạt động tạo hình của trẻ em : Hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo chưa phải là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật thực thụ, hoạt động tạo hình của trẻ không nhằm mục đích tạo nên những sản phẩm phục vụ xã hội, hoạt động tạo hình được tổ chức cho trẻ mầm non nhằm mục đích cơ bản là sự biến đổi, phát triển chính bản thân chủ thể hoạt động tức là trẻ em. Hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo có một đặc điểm nổi bật là tính duy kỷ. Trong hoạt động tạo hình trẻ thường quan tâm tới việc ( vẽ cái gì ) chứ chưa phải là ( vẽ như thế nào ). Tính duy kỷ là cho trẻ nhỏ đến hoạt động tạo hình một cách dễ dàng. Trẻ sẵn sàng vẽ bất cứ cái gì, không biết sợ, không biết tới khó khăn trong miêu tả. Tính không chủ định cũng là một đặc điểm đặc trưng của hoạt động tạo hình ở lứa tuổi mầm non. Trong tạo hình , trẻ mẫu giáo chưa có khả năng độc lập suy tính công việc sắp tới một cách chi tiết, các ý định miêu tả thường được nẩy sinh một cách tình cờ. 2.2. Một số vấn đề vể phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non. 2.2.1. Các phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Chất lượng của hoạt động tạo hình, tính sáng tạo trong các sản phẩm tạo hình của trẻ phụ thuộc phần lớn ở cách thức sử dụng các phương pháp biện pháp tổ chức hoạt động nhằm hình thành ở trẻ cảm xúc thẩm mỹ, mở rộng cho trẻ vốn hiểu biết, vốn kỹ năng kỹ xảo và năng lực tạo hình. Tạo hình là môn học tổng hợp, ở đó trẻ không chỉ được rèn luyện kỹ năng kỹ xảo, phát triển trí tuệ, mà còn được hình thành các cảm xúc thẩm mỹ, phát huy được trí tưởng tượng, sáng tạo ở trẻ. Vì thế khi tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ cần đưa ra các phương pháp, biện pháp và cách thức sao cho phù hợp với tâm lý trẻ. Không nên đưa các nội dung quá khó khăn hoặc quá dễ đến trẻ, vì điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, để lựa chọn, phân loại các phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cần không chỉ dựa vào nguồn cung cấp thông tin mà còn dựa vào cả bản chất của môn học, vào mục đích, nhiệm vụ của hoạt động tạo hình, vào đặc điểm của hoạt động ( vẽ, nặn, xếp, dán....) vào từng yêu cầu cụ thể của hình thức hoạt động tiết học hay ngoài tiết học đồng thời dựa vào cả đặc điểm lứa tuổi và trình độ phát triển của nhóm trẻ cũng như các cá nhân trong đó. Hệ thống phwong pháp dạy học này gồm các nhóm phương pháp sau : - Nhóm các phương pháp thông tin – tiếp nhận ( thông tin – tri giác) - Nhóm phương pháp thực hành - ôn luyện ( tái hiện ) - Nhóm phương pháp tìm tòi – sáng tạo ( tình huống ) - Nhóm biện pháp mang tính chất chơi. Vài nét về việc sử dụng nhóm các phương pháp biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình. * Nhóm các phương pháp thông tin tiếp nhận. Đây là nhóm phương pháp tạo điều kiện cho trẻ phát triển tri giác thẩm mỹ, giúp trẻ hiểu được nội dung miêu tả ( hiểu được mối quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức của đối tượng miêu tả ) hình thành hứng thú và tình cảm thẩm mỹ, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Nhóm phương pháp này bao gồm các quá trình tổ chức, quan sát đối tượng miêu tả, chỉ dẫn các phương thức hoạt động nhằm thể hiện đối tượng quan sát. Trong nhóm này có 3 phương pháp cơ bản : Quan sát – chỉ dẫn , trực quan và dùng lời nói. + Phương pháp quan sát : Trong tạo hình , người ta tổ chức cho trẻ quan sát, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, các sự kiện trong xã hội và các tác phẩm nghệ thuật ( các phương tiện truyền cảm trong các tác phẩm tạo hình... ). Nhờ có quá trình này mà trẻ có những hiểu biết phong phú về cái đẹp trong thế giới xung quanh và nắm dần phương thức tạo ra cái đẹp. Quá trình quan sát cần được tiến hành một cách sinh động để gây hứng thú và hình thành các tình cảm thẩm mỹ. Muốn vậy, người ta kết hợp sử dụng rất nhiều các biện pháp kích thích xúc cảm ( bài hát, câu thơ, câu đố... ) và các biện pháp hình thức chơi. + Phương pháp chỉ dẫn trực quan : Quá trình chỉ dẫn là quá trình giúp trẻ lĩnh hội các phương thức tạo hình ( cách thức miêu tả ). Qua chỉ dẫn người ta tập cho trẻ cách sử dụng các loại dụng cụ vật liệu, chất liệu theo đúng cách. Đồng thời tập cho trẻ sử dụng các phương tiện truyền cảm mang tính tạo hình ( đường nét, màu sắc, hình dạng, bố cục... ) để thể hiện các hình tượng qua các hoạt động vẽ, nặn, xếp, dán. Việc nắm bắt các phương thức miêu tả sẽ trở nên dễ dàng nếu việc chỉ dẫn được tiến hành nhẹ nhàng phù hợp với sự tiếp thu của trẻ, với sự thay đổi các biện pháp hình thức phong phú, có sự phối hợp linh hoạt giữa chỉ dẫn toàn phần với chỉ dẫn từng phần. + Phương pháp dùng lời nói. Trong nhóm phương pháp thông tin- tiếp nhận về việc dùng lời nói là rất quan tọng. Đó là những lời giải thích, lời hướng dẫn, những lời kể, những LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà câu hỏi, câu trả lời, đồng thời những lời nói mang tính xúc cảm như bài hát, bài thơ, câu chuyện, câu đố. Những lời nói của cô giáo trong quá trình tổ chức hoạt động tạo hình phải chính xác, cụ thể và khơi dạy được ở trẻ những tình cảm tích cực. Khi sử dụng những câu chuyện, bài thơ, bài hát, giáo viên cần giúp trẻ một cách chính xác, đầy đủ và hình dung một cách rõ nét vẻ đẹp của đối tượng quan sát, đồng thời khơi dạy ở trẻ hoạt động tích cực của các quá trình xúc cảm, tình cảm, tưởng tượng sáng tạo. Cùng với lời nói của cô và lời nói của trẻ trong hoạt động tạo hình đóng vai trò quan trọng.Trong quá trình quan sát trẻ cần được đàm thoại, trao đổi với nhau, thể hiện xúc cảm suy nghĩ và phải thể hiện được những gì đã làm và sẽ làm. + Nhóm đối tượng thực hành ôn luyện. Đây là hệ thống các hành động, hoạt động của các nhà sư phạm và của trẻ nhằm giúp trẻ củng cố vốn hiểu biết về những đối tượng miêu tả bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo tạo hình. Phương pháp này bao gồm cả tình huống miêu tả, các bài tập tạo điều kiện cho trẻ lặp lại, nhớ lại và vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoạt động thực tiễn tạo hình. Các bài tập ôn luyện cần được áp dụng ngay từ các lớp trẻ, những hình thức tổ chức và nội dung thì cần biến đổi phù hợp theo các độ tuổi, phù hợp với hứng thú và vốn hiểu biết của trẻ. + Nhóm phương pháp tìm tòi sáng tạo ( phương pháp tình huống tìm kiếm). Nhóm phương pháp này không chỉ hình thành ở trẻ khả năng tái hiện các hình ảnh mà còn bồi dưỡng ở trẻ khả năng độc lập, xây dựng những hình tượng mới, phát triển ở trẻ khả năng hoạt động sáng tạo. Nhóm phương pháp tìm tòi sáng tạo gồm có các bài tập sáng tạo yêu cầu trẻ quan sát, tìm kiếm, phát hiện, sửa chữa và tìm ra các phương pháp LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà mới để giải quyết nhiệm vụ tạo hình mới, hình thành và thực hiện ý đồ tạo hình của riêng trẻ. Bằng phương pháp tìm kiếm từng phần người ta đưa vào quá trình dạy học những yếu tố sơ đăng của dạy học sáng tạo. Để giúp trẻ thực hiện các bài tập tìm kiếm từng phần cần phát triển ở trẻ khả năng tri giác để mở rộng vốn kinh nghiệm và biểu tượng hình tượng đồng thời phát hiện tư duy sáng tạo. + Nhóm biện pháp mang tính chất chơi : Việc sử dụng các biện pháp mang tính chất chơi trong hoạt động tạo hình rất cần được quan tâm, bởi lẽ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mầm non. Các biện pháp mang tính chất chơi được sử dụng trong phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình không phải với tư cách là một phương pháp riêng mà là các biện pháp tích cực, bổ trợ cho nhóm phương pháp khác nhằm thực hiện nhiệm vụ, mục đích của bộ môn tạo hình. Các biện pháp mang tính chất chơi bao gồm : + Các tình huống mang tính chất chơi trong hoạt động tạo hình. + Các trò chơi. + Các biện pháp mang tính chất vui chơi nhằm giúp trẻ cảm thụ, thể hiện các hình tượng và sáng tạo các hình tượng mới. Hiệu quả của việc sử dụng đồ chơi trong các tiết học tạo hình hoặc các hình thức tổ chức tạo hình ngoài tiết học phụ thuộc rất nhiều vào cách tạo ra động cơ chơi. Sự xuất hiện của động cơ chơi đòi hỏi ở trẻ không chỉ hiểu biết phong phú về hiện thực xung quanh mà còn cả những tình cảm, xúc cảm thích hợp. 2.2.2. Các hình thức tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non. Để tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ ở trường mầm non , chúng ta có hai hình thức quan trọng : - Tổ chức hoạt động tạo hình trên tiết học tạo hình - Tổ chức hoạt động tạo hình ngoài tiết học. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà * Các tiết học tạo hình : Trên thực tế cho thấy việc tổ chức hoạt động tạo hình trên tiết học đang được coi là hình thức quan trọng được các trường mầm non quan tâm nhiều nhất. Có nhiều loại tiết học tạo hình : - Tiết học tạo hình theo nhóm nhỏ : Là tiết học tổ chức với cá nhân hoặc với những trẻ gặp khó khăn trong bộ môn tạo hình. - Tiết học theo nhóm lớn : Nội dung của loại tiết học này cũng bám sát vào chương trình tạo hình. Sự tham gia của trẻ vào các tiết học này không phải là bắt buộc với toàn lớp. Trên giờ học này, giáo viên lần lượt làm việc với các nhóm, cung cấp cho trẻ những hiểu biết, rèn luyện ở trẻ các kỹ năng nhằm phục vụ cho tiết học bắt buộc với cả lớp. Loại tiết học mang tính chủ đạo : Là tiết học bắt buộc với cả lớp. Nó đóng vai trò chủ lực mà ở đó người ta bồi dưỡng rèn luyện cho trẻ một cách có hệ thống theo một chương trình nhất định. Các tiết học trong trường mầm non được phân loại theo các loại hình của hoạt động tạo hình, đó là các tiết : vẽ, nặn, xếp, dán ( xé dán và cắt dán). Ngoài ra còn một số tiết học mang tính ứng dụng như : Xếp hình, gấp giấy... Thể loại các tiết học tạo hình được phân loại theo cơ sở của sự hình thành, hình tượng : Chúng bao gồm : + Các tiết học tạo hình theo mẫu + Các tiết học tạo hình theo đề tài + Các tiết học tạo hình theo ý thích. * Tiết học tạo hình theo mẫu : LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Là loại tiết mà ở đso trẻ phải miêu tả, tái hiện một cách tương đối chính xác hình ảnh của đối tượng miêu tả. Trên các tiết học này người ta cung cấp kiến thức, những hiểu biết tương đối đầy đủ, chính xác về đối tượng miêu tả. Đây là hình thức miêu tả theo hệ thống biểu tượng tri giác một cách trực tiếp, quan sát mẫu trực tiếp, nếu ta cung cấp trước cho trẻ biểu tượng đó ngoài các tiết học một cách cụ thể thì nó tạo điều kiện thuận lợi hơn để rèn luyện phát triển ở trẻ khả năng đánh giá bằng mắt, trí nhớ thị giác. Khi trẻ đã có những ấn tượng, những hình ảnh về đối tượng miêu tả thì quá trình cho trẻ thể hiện lại những hình ảnh tri giác sẽ tốt hơn. Trong các mẫu sản phẩm phải giống nhau tương đối giữa hình ảnh được miêu tả với sự vật thật. * Tiết học tạo hình theo đề tài. Đây là loại tiết học có tính chất ôn luyện, ở đó trẻ phải sử dụng các biểu tượng, hiểu biết đã được tích lũy, cất giữ trong trí nhớ để tái hiện hinfhanhr mà nó không nhìn thấy được trực tiếp. Các hình ảnh mà trẻ tái hiện lại trong tiết này ban đầu thường ở trong trạng thái, tư thế giống như ở thời điểm mà trẻ đã được tri giác trực tiếp trước đó. Mục đích của loại tiết học này là phát triển trí nhớ hình tượng, phát triển tưởng tượng sáng tạo, rèn luyện khả năng hoạt động tích cực độc lập. Nội dung miêu tả ở loại tiết học này thường thể hiện mối liên hệ đơn giản giữa các sự vật theo một nội dung chung ( theo một đề tài hay chủ đề ). * Tiết học tạo hình theo ý thích : Được coi là loại tiết miêu tả theo khả năng tưởng tượng sáng tạo, thể hiện những biểu hiện hình tượng mà khả năng tưởng tượng sáng tạo tạo nên. Mục đích của loại tiết học này là hình thành và phát triển ở trẻ khả năng hoạt động tích cực độc lập sáng tạo, phát triển tư duy sáng tạo và tưởng tượng sáng tạo. Nội dung miêu tả của các tiết này thể hiện các quan hệ tương đối phức tạp giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh là sự tổng hợp LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà phối hợp của những nội dung mà trẻ đã thể hiện trên các tiết tạo hình theo mẫu hoặc đề tài. * Hoạt động tạo hình ngoài tiết học. Hoạt động tạo hình ngoài tiết học là một hoạt động nghệ thuật và là phương tiện quan trọng trong giáo dục thẩm mỹ. Một nhà giáo dục Xô viết đã nói : “ Phải giáo dục trẻ em biết yêu cái đẹp từ tuổi bé nhất, vì nó là cơ sở ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người”. Hiện nay các trường mầm non chưa quan tâm đến tổ chức tạo hình ngoài tiết học cho trẻ. Chủ yếu trẻ chỉ được tiếp cận với hoạt động tạo hình ở trên các tiết học bắt buộc, mà số lượng các tiết học tạo hình thì lại quá ít nên vốn biểu tượng mà trẻ có được trên các tiết học chẳng đáng là bao. Có rất nhiều hình thức để tổ chức hoạt động tạo hình ngoài tiết học, thông qua các hình thức đó giáo viên có thể cung cấp thêm cho trẻ những kiến thức về cái đẹp, kỹ năng kỹ xảo, đặc biệt là xúc cảm thẩm mỹ. 3. Hứng thú đối với hoạt động tạo hình của trẻ mầm non. 3.1. Hứng thú là gì ? Hứng thú là một thuộc tính của nhân cách hay nói rõ hơn là một thuộc tính của xu hướng cá nhân, hứng thú là một hiện tượng tâm lý phức tạp. Có quan điểm cho rằng hứng thú thường mang màu sắc cảm xúc, có thể nói thái độ của cảm xúc đối với đối tượng là những dấu hiệu không thể thiếu được của hứng thú. Đứng từ góc độ của hoạt động nghệ thuật nói chung, hoạt động tạo hình nói riêng, chúng tôi thấy : Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với những đối tượng có ý nghĩa quan trọng và có sự hấp dẫn tình cảm cho cá nhân đó. Đối với chủ thể thì đối tượng hứng thú có hai đặc điểm liên hệ với chủ thể có ý nghĩa quan trọng và có sự hấp dẫn tình cảm. Có thể nói bất cứ một đối tượng nào muốn làm cho chủ thể hứng thú thì nó phải có đủ hai đặc điểm LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà trên. Do vậy, đối tượng phải có ý nghĩa khiến chủ thể đi sâu tìm hiểu nó. Đồng thời đối tượng phải có khả năng gây nên những khoái cảm lôi cuốn chủ thể hướng vào nó. 3.2. Vai trò của hứng thú như một thành tố tâm lý của hoạt động tạo hình. 3.2.1. Hứng thú đối với các hoạt động của trẻ nói chung : Hứng thú đối với đời sống và hoạt động chung của trẻ mẫu giáo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cùng với nhu cầu, hứng thú kích thích hoạt động làm cho tư duy ở lứa tuổi mẫu giáo trở lên tích cực say mê trong hoạt động. Chúng ta biết hứng thú là : Thái độ đặc biệt, ở đây thái độ đặc biệt chính là niềm say mê tích cực tự giác, sức chịu đựng dẻo dai của cá nhân đối với đối tượng và hoạt động với bất kỳ một hoạt động nào. Nếu có hứng thú thì trẻ sẽ có thể tham gia hoạt động và thực hiện các nhiệm vụ một cách dễ dàng và đạt kết quả cao. Có hứng thú trẻ sẽ không ngại học, ngại chơi, sức lực cơ bắp cũng như sức lực của não bộ được huy động, sức tập trung chú ý cao hơn, thời gian thực hiện công việc sẽ ngắn hơn mà chất lượng đạt được lại cao hơn. Như vậy chính hứng thú đã làm tăng sức hoạt động cho trẻ. Một số nhà nghiên cứu đã nói rằng bằng cách hình thành và phát triển hứng thú chúng ta sẽ phát huy một trong những khả năng quý giá nhất, cao quý nhất của con người là khả năng thích thú tập trung vào hoạt động, hoàn toàn say mê với công việc cần làm. Nói chung, đứa trẻ cảm thấy hạnh phúc và vui sướng khi nó có hứng thú đối với một lĩnh vực hoạt động nào đó. 3.2.2. Vai trò của hứng thú trong hoạt động tạo hình : Hứng thú và hoạt động nhận thức có quan hệ chặt chẽ với nhau. Họt động tạo hình chính là hoạt động nhận thức đặc biệt thông qua các hình tượng nghệ thuật. Hơn nữa nó là một hoạt động nhận thức thẩm mỹ bởi vậy sự phát triển của hoạt động tạo hình, hiệu quả của nó chịu ảnh hưởng rất mạnh của LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà cảm xúc, của hứng thú, của thái độ thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh và đối với hoạt động. Hứng thú được xem là “ cơ chế bên trong” của một động cơ mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình nhận thức của trẻ. Hứng thú nhận thức thể hiện sự định hướng của trẻ đối với việc tìm hiểu những cái gì mới, những cái chưa biết, cái chưa tồn tại trong ký ức của trẻ. Hứng thú làm cho cái mà hôm nay chỉ là thú vị thôi thì ngày mai có thể trở thành niềm say mê, thành nhu cầu cấp bách và làm hình thành ở trẻ động cơ hoạt động cùng ý thức về mục đích của hoạt động. Trong hoạt động tạo hình, hứng thú đọng một vài trò rất quan trọng, giúp trẻ tiếp thu cái tri trức các kỹ năng kỹ xảo tạo hình. Hứng thú là yếu tố đảm bảo chất lượng của quá trình tri giác, tiếp thu các biểu tượng, ấn tượng. Trong quá trình hoạt động tạo hình, để có thể tri giác đối tượng miêu tả nào đó thì đứa trẻ cần phải giữ được sự chú ý của mình với đối tượng trong một thời gian nhất định. Đối với trẻ nhỏ, các đối tượng quan sát đều khá phức tạp với rất nhiều thuộc tính, các đặc điểm khác nhau còn trẻ lại khó có thể tập trung tri giác, nắm bắt nó trong thời gian ngắn ngủi. Do vậy, hứng thú này là vô cùng cần thiết để duy trì sự chú ý của trẻ tới từng đặc điểm của đối tượng khi mà đặc điểm đó còn rất mới mẻ, lạ lẫm. Chỉ có hứng thú mới có thể duy trì được sự chú ý của trẻ từ đặc điểm này sang đặc điểm khác của đối tượng và làm cho đứa trẻ có thể nhận biết được vẻ đẹp rất độc đáo của đối tượng đó mà không bị phân tán bởi nhiều tác động khác. Hứng thú giúp trẻ có thể tham gia vào hoạt động tạo hình tích cực hơn so với mức bình thường, đồng thời mở rộng kiến thức của trẻ về thế giới xung quanh về đối tượng miêu tả. Hứng thú làm cho trẻ dễ dàng tiếp thu các kinh nghiệm tạo hình, phát triển ở trẻ những ký năng kỹ xảo sử dụng linh hoạt các phương tiện tạo hình để thể hiện các cảm xúc của mình đối với những gì được miêu tả. Hứng thú làm tích cực hóa không chỉ các quá trình nhận thức mà đặc biệt là những nỗ lực sáng tạo của trẻ trong hoạt động mang tính nghệ thuật. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Nhờ có hứng thú mà trong hoạt động tạo hình trẻ có thể trải nghiệm và thảo mẵn những cảm xúc đặc biệt. Có thể nói, hứng thú chính là một dạng đặc biệt của tình cảm, nó được nảy sinh do chính sự hấp dẫn của vẻ đẹp ở các đối tượng miêu tả ở sự đa dạng và phong phú của thế giới xung quanh. Trong hoạt động tạo hình, hứng thú của trẻ không tự nhiên mà có cũng không dễ dàng được kích thích bởi những mệnh lệnh hay những lời nói thông thường của giáo viên mà nó chỉ có thể xuất hiện từ những biểu tượng tương đối sâu sắc về đối tượng mà trẻ quan tâm, từ trong hoạt động thực tiễn taojra cái đẹp. Sự thỏa mãn các cảm xúc thẩm mỹ, những nhu cầu thẩm mỹ mà trẻ có được nhờ những hiểu biết và những kết quả của hoạt động mang tính nghệ thuật sẽ tiếp tục làm nảy sinh và nuôi dưỡng hứng thú thẩm mỹ. Muốn hình thành được hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình thì các đối tượng miêu tả, nội dung miêu tả phải đảm bảo được một số điều kiện. Đó chính là tính thẩm mỹ, tính sinh động hấp dẫn và có sức thuyết phục, có sức truyền cảm và một điều quan trọng là phải luôn tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận với các yếu tố mới lạ, bất ngờ. Có như vậy hứng thú của trẻ mới được hình thành và phát triển. 3.2.3. Quan hệ của hứng thú với các thành tố tâm lý của hoạt động tạo hình. Các thành tố tâm lý của hoạt động tạo hình có vai trò quan trọng đối với việc hình thành và phát triển hứng thú của trẻ trong hoạt động tạo hình. Một hoạt động thực sự mang tính tạo hình là một hoạt động có sự kết hợp hài hòa của ba thành tố tâm lý cơ bản : Tri giác – tưởng tượng – cảm xúc. Ngoài ra còn môt số các thành tố tâm lý khác : Chú ý, trí nhớ, tư duy, hứng thú, nhu cầu, động cơ, ý chí. Quá trình tri giác trong tạo hình không phải đơn thuần là sự nắm bắt bên ngoài của sự vật mà cần có sự rung cảm về vẻ đẹp của đối tượng. Từ đó mà trong trẻ xuất hiện các cảm xúc thẩm mỹ, nó cảm nhận được vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc, cảm xúc về vẻ cân đối hài hòa, tính nhịp điệu. Chính từ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà các xúc cảm thẩm mỹ này mà hình thành nên tình cảm thẩm mỹ, mức độ phát triển của các tình cảm thẩm mỹ phụ thuộc vào độ tinh nhạy của các cảm giác và khả năng tri giác thẩm mỹ vào độ sâu sắc phong phú của các xúc cảm thẩm mỹ. Trong quá trình tưởng tượng sáng tạo đã thể hiện các xúc cảm thẩm mỹ mà trẻ có được trải nghiệm và trở nên sâu sắc hơn, những hình ảnh thẩm mỹ mà trẻ tích lũy được tri giác lại ( các biểu tượng được làm sống lại và ngày càng trở lên phong phú hơn ). Quá trình cảm xúc làm nền cho hoạt động của sự tri giác tưởng tượng. Các cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ sẽ làm cho quá trình tri giác nhận thức trong tạo hình trở thành quá trình thẩm mỹ. Cảm xúc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hứng thú. Hứng thú của trẻ thường bắt đầu nảy sinh từ sự tò mò, những hiểu biết ban đầu của từng hứng thú thường chỉ mang sắc thái cảm xúc chung và chưa có thái độ lựa chọn rành mạch với đối tượng nhận thức. Nhờ có các cảm xúc thẩm mỹ rất đa dạng, hứng thú cần mang tính kiên định rõ ràng đối với đối tượng hoạt động có cảm xúc trẻ có cảm hứng, hứng thú lâu bền với nội dung miêu tả nào đó. Nhờ có cảm xúc mà trẻ có được hứng thú thẩm mỹ, có sự say mê hoạt động nghệ thuật. Chính ba quá trình trên đã phát triển năng lực tạo hình cơ bản cho trẻ, rồi từ đó hình thành năng lực chuyên biệt, trẻ nắm được được tri thức chuyên biệt của tạo hình, nhờ có nó mà khả năng tạo hình thể hiện đường nét, màu sắc, hình sáng của trẻ ngày càng có sự thay đổi ở mỗi lứa tuổi. - Trẻ 3 – 4 tuổi, người ta tập trung cho trẻ vẽ các hình ( o  ) để vẽ các hình khác, sử dụng các hình để tạo nên cấu trúc. Trẻ chú ý đến màu sắc và hiểu màu sắc như một dạng ký hiệu. Trẻ thường thích màu tươi và ghét những màu tối. Trẻ có thể sử dụng các màu sắc khác nhau, thể hiện màu tự do. - Trẻ 4 – 5 tuổi hình thành khuôn mẫu đồ họa tức là trẻ lặp đi lặp lại một hình vẽ nào đó mang tính công thức khuôn mẫu, ở lứa tuổi này trẻ nhận LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà biết được màu rõ ràng, các sắc thái của màu, khả năng phân biệt màu tốt.Khi sử dụng mày hay bị dập khuôn. - Trẻ 5 – 6 tuổi vẫn phát triển về hình nhưng đứa trẻ có khả năng điều chỉnh đường nét, tạo ra các đường nét liền mảnh tạo lên một hình chỉnh tề chọn vẹn. Trẻ nhận biết, ghi nhớ màu nhanh. Trẻ tri giác quan sát màu tốt do đó mà ở trẻ sự cảm thụ về màu rất tốt. Tóm lại : Trong hoạt động tạo hình, các thành tố tâm lý và hứng thú đều có vai trò quan trọng. Mối quan hệ của chúng có liên quan mật thiết với nhau. Vì hứng thú được nảy sinh và phát triển bởi các quá trình : Tri giác – cảm xúc – tưởng tượng. Trong khi đó hứng thú có ảnh hưởng tích cực tới cả ba quá tình. Vậy chúng có mối liên quan rất chặt chẽ với nhau. 4. Thiên nhiên và vật liệu thiên nhiên đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo. 4.1. Thiên nhiên có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của con người. Thiên nhiên chính là nguồn gốc tạo nên những của cải vật chất cũng như văn hóa tinh thần. Những tiềm năng giàu có của thiên nhiên chính là cơ sở của sự phát triển kinh tế, văn hóa của xã hội loài người. Thiên nhiên xung quanh chúng ta rất phong phú và đa dạng với sự sặc sỡ của các sắc, màu, ánh áng, hình dạng. Do vậy việc tiếp xúc và quan sát, cảm nhận được sự hài hòa và phong phú của sắc màu, hình thể, âm thanh trong thiên nhiên và các hiện tượng thiên nhiên sẽ gợi lên ở con người, ở trẻ niềm vui sướng, những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh. Ví dụ : Thời xa xưa, nhà danh họa vĩ đại LEONARD DA VINCI đã từng cố gắng vận dụng nguyên tắc bay của loài chim mà thiết kế tạo dụng cụ bay. Sức mạnh của con người được thể hiện trong quá trình nhận thức, nghiên cứu thiên nhiên, dự đoán các hiện tượng thiên nhiên trên cơ sở của sự hiểu biêt mang tính chất, quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, vũ trụ... LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thu Hà Mọi sự vật hiện tượng trong thiên nhiên đều vận động theo các quy luật nhất định, trong một trật tự nhất định, nó luôn vận động và biến đổi. 4.2. Thiên nhiên và vật liệu thiên nhiên đối với sự phát triển hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo. Thiên nhiên có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động tạo hình của trẻ mẫu giáo. Những ảnh hưởng tích cực của thiên nhiên chính là những nguồn gốc của những hiểu biết, những ấn tượng, những xúc cảm tình cảm thẩm mỹ đầu tiên của trẻ. Thiên nhiên chính là nguồn cảm hứng vô tận đối với trẻ , mọi sự việc, hiện tượng của thiên nhiên đều làm cho trẻ ngạc nhiên và thích thú như : Một bông hoa vừa nở, một con bướm bay qua... Nhà giáo dục học Lê Thị Ninh cũng đã chỉ ra vai trò to lớn của việc trẻ em làm quen với thiên nhiên trong quá trình giáo dục trẻ . Bà cho rằng : Thiên nhiên xung quanh thật đẹp đẽ, đa dạng hài hòa, nên thơ và đầy thú vị. Khi cô mẫu giáo và người lớn cho trẻ tìm hiểu về thiên nhiên thì phải luôn hướng tới mục đích giúp trẻ nhận biết cái đẹp trong sự phong phú, đa dạng và hài hòa của thiên nhiên. Trên cơ sở ấy, giáo dục trẻ lòng yêu thích cái đẹp trong thiên nhiên và thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên. Chúng ta có thể nói thiên nhiên luôn bao bọc con người. Cây đa, bến nước ở một làng quê Việt Nam, không chỉ có ý nghĩa như một cây cổ thụ và một bến bờ của một dòng sông mà chúng còn là hình ảnh tiêu biểu trong tâm khảm của con người những kỷ niệm mãi mãi truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác về quê hương. Những màu sắc hình thể đa dạng, hương vị của hoa lá cỏ cây, đồng lúa, dòng sông, những âm thanh của chim chóc... đều là cho trẻ thích thú và chú ý. Nó làm phát triển năng lực quan sát, trí thông minh và vốn sống thực tiễn của trẻ, phát triển tình cảm thẩm mỹ của trẻ và làm cho tâm hồn trẻ phong phú. Trường mầm non cần tổ chức rộng rãi và đa dạng các hình thức cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên. Đúng vậy, không gì hấp dẫn hơn đối với trẻ bằng tri giác trực tiếp. Chỉ cần một vài lần dẫn trẻ đi chơi và hướng dẫn trẻ quan sát một vài đối tượng cần thiết là cô giáo có thể tiến hành một giờ học tạo hình
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng