Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hội hoá giáo dục mầm non huy...

Tài liệu Luận văn huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hội hoá giáo dục mầm non huyện mang thít, tỉnh vĩnh long

.PDF
92
390
59

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xã hội hoá giáo dục là giải pháp quan trọng thực hiện chiến lược phát triển giáo dục nước ta. Xã hội hoá giáo dục là chủ trương lớn của Đảng và chính sách của Nhà nước nhằm huy động, khuyến khích mọi nguồn lực trong xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập. Nghị quyết TW6 khóa IX của Đảng đã nêu định hướng: “Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích mọi đóng góp, mọi sáng kiến của xã hội cho giáo dục”. Năm 1990, Bộ GDĐT và Công đoàn giáo dục Việt Nam đã chỉ đạo, tổ chức thực hiện XHHCTGD bằng mô hình mới: “Tổ chức Đại hội giáo dục cấp cơ sở”. Đại hội giáo dục có nêu vấn đề thực hiện XHHCTGD, huy động các lực lượng xã hội tham gia phát triển giáo dục tạo ra các nguồn lực thúc đẩy sự nghiệp giáo dục. Xã hội hóa giáo dục góp phần thực hiện dân chủ hóa giáo dục nhằm mục tiêu “giáo dục cho mọi người”, thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huy động sức mạnh toàn dân, mang lại cho mọi người cơ hội học tập và đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục. Thực tiễn những năm qua cho thấy, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, các cấp, các ngành, đặc biệt là ngành giáo dục và đào tạo đã đạt được những thành tựu nhất định về việc thực hiện XHHGD, chẳng hạn: mở thêm nhiều loại hình đào tạo, từ đào tạo chính quy tập trung, đào tạo tại chức, liên thông, đào tạo từ xa; đào tạo cán bộ giáo viên có trình độ cao học, đại học, cao đẳng, trung cấp và các hệ đào tạo khác. Cơ sở vật chất của nhiều trường ngày càng được đầu tư có hiệu quả hơn. Những ngôi trường kiên cố, khang trang đang thay thế dần các ngôi trường “tranh tre, vách lá”. Nhiều nguồn lực của xã hội đã và đang được huy động để đầu tư cho giáo dục tại địa phương. 2 Tuy nhiên vẫn còn tình trạng các cấp, các ngành và trong nhân dân vẫn còn nhận thức chưa đúng về XHHGD, vẫn còn sự phân biệt giữa trường công lập và ngoài công lập. Các tổ chức kinh tế, xã hội tham gia vào công tác XHHGD còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, trí tuệ trong xã hội và vẫn còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước. Xã hội hóa giáo dục là con đường nhanh nhất thúc đẩy giáo dục nước ta phát triển. Xã hội hóa giáo dục là chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược của Đảng ta nhằm định hướng chiến lược phát triển GDĐT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết TW 2 khóa VIII của Đảng có nêu: “Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non, phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục”. Tại điều 12, Luật Giáo dục năm 2005 cũng quy định: “Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”. Lâu nay, vấn đề XHHGD luôn được Đảng, Nhà nước, các cấp lãnh đạo địa phương quan tâm tổ chức triển khai thực hiện, ngày 30 tháng 5 năm 2008 Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Chính phủ cũng đã có Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020" và công văn chỉ đạo hướng dẫn các cấp quản lý giáo dục tích cực lập qui hoạch, kế hoạch triển khai Chiến lược này đến năm 2020. Quyết định 239/QĐ-TTg ngày 09/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 – 2015”; với giải pháp lồng ghép các chương trình dự án khác nhau trên cùng một 3 địa bàn và huy động nguồn lực hợp lý của nhân dân để thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi; cha mẹ có trách nhiệm phối hợp với nhà trường để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo có nêu: “Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo”. Thực hiện các Nghị quyết của TW Đảng, chỉ thị của Bộ GDĐT, cuộc vận động XHHGD đã được triển khai và phát triển rộng khắp trên địa bàn huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Được các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương cũng như Phòng GDĐT huyện đã quan tâm chỉ đạo bước đầu công tác XHHGD đã đạt được những kết quả khả quan về quy mô, chất lượng cũng như hiệu quả. Bên cạnh những thành quả đạt được từ công tác xã hội hoá giáo dục ở huyện Mang Thít, vấn đề huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non huyện Mang Thít chưa đồng bộ, vẫn còn gặp không ít khó khăn, đòi hỏi phải có những giải pháp hiệu quả để phát triển xã hội hóa giáo dục ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Từ những lý do trên, việc thực hiện đề tài: “Huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hóa giáo dục trên địa huyện Mang Thít nói riêng và tỉnh Vĩnh Long nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục trên địa bàn huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, luận văn đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả XHHGDMN huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Xã hội hoá giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. 3.2. Đối tượng nghiên cứu 4 Biện pháp huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. 4. Giả thuyết khoa học Công tác XHHGD các trường mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long trong thời gian qua đã có sự phát triển và đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên hiện nay vấn đề huy động nguồn lực xã hội thực hiện XHHGDMN huyện Mang Thít chưa đồng bộ, vẫn còn gặp không ít khó khăn bất cập. Nếu đề xuất các biện pháp có tính khoa học và tính khả thi phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương thì sẽ đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục mầm non của huyện trong giai đoạn hiện nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận về xã hội hóa giáo dục. 5.2. Khảo sát, đánh giá việc thực hiện vấn đề xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực xã hội; đánh giá những kết quả đạt được và phát hiện những hạn chế, khó khăn mà xã hội hoá giáo dục mầm non đang gặp phải. 5.3. Đề xuất một số biện pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xã hội hóa giáo dục ở các trường mầm non đóng trên địa bàn huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016. 6.2. Giới hạn khách thể khảo sát: Cán bộ, lãnh đạo các cấp trong huyện; chuyện viên phòng GDĐT; hiệu trưởng, chi bộ, công đoàn, tổ trưởng chuyên môn các trường mầm non- mẫu giáo, ban đại diện cha mẹ học sinh các trường trên địa bàn huyện Mang Thít. 6.3. Giới hạn địa bàn và thời gian khảo sát: Các xã -thị trấn, các trường mầm non - mẫu giáo trên địa bàn huyện Mang Thít. Thời gian khảo sát từ tháng 9/2016 đến tháng 11/2016. 7. Phương pháp nghiên cứu 5 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Văn bản luật của Nhà nước; Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; các tài liệu khoa học có liên quan đến công tác xã hội hóa giáo dục. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát việc huy động nguồn lực thực hiện XHHGDMN của Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường mầm non thuộc địa bàn nghiên cứu. - Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo, chuyên viên phòng GDĐT; điều tra bằng phiếu hỏi đối với cán bộ, lãnh đạo các cấp trong huyện; chuyên viên phòng GDĐT; hiệu trưởng, chi bộ, công đoàn, tổ trưởng chuyên môn các trường mầm non- mẫu giáo, ban đại diện cha mẹ học sinh trên địa bàn huyện Mang thít, tỉnh Vĩnh Long. - Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về huy động nguồn lực thực hiện XHHGDMN trên địa bàn huyện Mang thít, tỉnh Vĩnh Long. 7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ: Phương pháp thống kê toán học, so sánh để xử lý số liệu thu thập được. 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 8.1. Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa, khái quát hóa thực hiện XHHGDMN. 8.2. Ý nghĩa thực tiễn - Phân tích, đánh giá thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục; đặc biệt huy động nguồn lực trên địa bàn huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long và chỉ ra những ưu điểm cũng như những tồn tại cần khắc phục. - Đề xuất một số biện pháp khoa học, phù hợp với thực tế địa phương, qua đó góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Mang Thít. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn có 3 chương với nội dung như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về việc huy động nguồn lực thực hiện xã hội hoá giáo dục mầm non. 6 Chương 2: Thực trạng xã hội hóa giáo dục và huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Chương 3: Các biện pháp huy động nguồn lực xã hội thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC THỰC HIỆN XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC MẦM NON 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề Giáo dục là một phạm trù vĩnh cửu: Giáo dục sinh ra cùng với loài người, tồn tại và phát triển cùng với loài người. Chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thủy của giáo dục là xã hội hoá. Trong giáo dục tất cả mọi việc đều mang tính xã hội rất cao, bất kỳ xã hội nào muốn phát triển giáo dục thì cần phải huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên mọi tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục Ở Việt Nam, thế kỷ XI (1070) thời Nhà Lý – vua Lý Thánh Tông rất quan tâm đến GDĐT, ông cho xây dựng Quốc Tử Giám để đào tạo hiền tài. Thế kỷ XVIII – vua Quang Trung – Nguyễn Huệ cũng đã nói: “Dựng nước, trước tiên phải lo việc học”. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Giáo dục phải cung cấp cho cán bộ kinh tế, kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được. Nếu kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển được. Giáo dục không phát triển thì không có đủ cán bộ kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau.[35, 225]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: "Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập; bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm học tập cộng đồng"[26, 208]. Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Bên cạnh chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước nêu trên, các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục ở nước ta đã nêu lên một số luận điểm quan 8 trọng. Tác giả Phạm Minh Hạc, khẳng định:“Xã hội hóa công tác giáo dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta”[32, 16]. Tác giả Đặng Quốc Bảo đã viết: “Không có xã hội nào có thể tồn tại nếu không có sự giáo dục và mọi sự giáo dục đều hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Như vậy là luôn luôn tồn tại nền giáo dục xã hội”[17, 6]. Vậy huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước không phải là một ý tưởng mới lạ. Xã hội hóa giáo dục không phải là chủ trương ở các nước kém phát triển mà ngay cả những nước giàu, phát triển cũng đã từng thực hiện nhiều giải pháp đẩy mạnh XHHGD để phát triển sự nghiệp giáo dục, bởi vì XHHGD là một hệ thống định hướng hoạt động của mọi người, mọi lực lượng xã hội để tiến tới xây dựng một xã hội học tập. Tổ chức văn hóa giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã từng khuyến nghị: Giáo dục không chỉ bó hẹp trong nhà trường, phải cải tổ toàn diện nền giáo dục. Giáo dục phải trở thành phong trào quần chúng thực sự. Vấn đề XHHGD đã được nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn khá sâu rộng và lâu dài trong lịch sử nước ta và các nước trên thế giới. Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học về công tác XHHGD trong những năm gần đây được nhiều người trong ngành giáo dục nước ta quan tâm, có những luận văn Thạc sĩ đã đề cập đến và nêu nhiều giải pháp tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên đó là những vấn đề cụ thể có tính chuyên sâu nảy sinh ở từng địa phương và phạm vi công tác, các hoạt động của XHHGD là vấn đề rộng lớn, do vậy việc nghiên cứu huy động nguồn lực xã hội thực hiện XHHGDMN huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long có ý nghĩa thực tiễn lớn lao góp phần thực hiện thành công PCGDMNT5T, tạo nền tảng tốt nhất để giáo dục toàn diện cho học sinh ở các bậc học sau này. Kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục ở các nước: Các nước công nghiệp phát triển trong khu vực và trên thế giới đều đặc biệt coi trọng chính sách XHHGD. Các nước này đều thực hiện chính sách mở cửa cho giáo dục, tạo nhiều cơ hội cho 9 giáo dục phát triển và đem lại cho người học những điều kiện học tập tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Indonesia, quốc gia có dân số đứng thứ 5 trên thế giới (212,2 triệu người vào năm 2000), nhờ hệ thống trường tư thục ra đời đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của người dân và chia sẻ những khó khăn trong vấn đề tài chính của Nhà nước. Ở Trung Quốc, theo chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc (Đại hội VIII năm 1987): “Kế hoạch lớn trăm năm, giáo dục là gốc mở đường cho việc huy động toàn xã hội tham gia công tác giáo dục”. Nhân dân trở nên tự giác, “Xã hội tham gia công tác giáo dục đã trở thành nếp sống” (Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh số ra ngày 04/01/1994). Trung Quốc động viên các lực lượng xã hội chung vốn, làm giáo dục không thu thuế, hoan nghênh và khen thưởng cho kiều bào, cho các tổ chức nước ngoài tham gia giúp đỡ hoạt động giáo dục Trung Quốc. Nhật Bản một đất nước phát triển với nhiều ngành công nghệ cao, Chính phủ Nhật đang tích cực tiến hành cải tổ hệ thống giáo dục. Thượng Nghị viện Nhật đã thông qua 3 dự luật về cải cách giáo dục sửa đổi là: Luật Giáo dục trường học, Luật giáo dục địa phương và Luật Giáo dục xã hội. Nhật Bản đã tạo ra một hệ thống giáo dục mở nhằm giúp cho học sinh thể hiện lòng ham muốn, tự chủ suy nghĩ và năng lực sinh động; giáo dục đạo đức xã hội, công bằng và thân ái, phát triển năng lực khác nhau tạo cơ hội lựa chọn thích hợp với nhu cầu học tập và nghề nghiệp của học sinh. Như vậy, giáo dục Nhật Bản đã phá vỡ thế quản lý theo kiểu tập quyền Nhà nước đối với giáo dục, giành cho địa phương và nhà trường quyền tự chủ lớn hơn. Ở Hoa Kỳ, đang thực hiện một cuộc cách mạng chuẩn hóa giáo dục (Standards revolution). Để làm được điều này, một trong những giải pháp quan trọng là Nhà nước thực hiện chủ trương đa dạng hóa. Hình thức trường học công – tư phát triển mạnh ở Mỹ. Đây là loại trường do nhóm giáo viên, phụ huynh, nhóm cộng đồng, doanh nghiệp, trường đại học, viện bảo tàng… thành lập và loại hình này ngày 10 nay phát triển rất mạnh ở Mỹ với hơn 3.000 trường. Cơ chế hoạt động của các trường học loại này tự do hơn, linh hoạt hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Nhìn lại kinh nghiệm XHHGD ở hầu hết các quốc gia điển hình trên thế giới là đều thực hiện chính sách huy động mọi nguồn lực cho giáo dục, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đa dạng hóa các lực lượng tham gia giáo dục, phát triển nguồn nhân lực tiên tiến cho đất nước và đây đang là xu thế chung được áp dụng rộng rãi trong giáo dục của các nước, trong đó có nước ta. 1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hóa xã hội, văn minh nhân loại. Giáo dục có tính phổ biến và vĩnh hằng trong đời sống, là nhân tố cốt lõi và tồn tại khách quan trong mọi giai đoạn phát triển xã hội. Giáo dục là điều kiện để con người gắn bó với nhau một cách có hiệu quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, bởi vì hành động của bất kỳ cá nhân nào cũng bị hạn chế do khả năng và kinh nghiệm của người đó. Chính nhờ giáo dục, kết quả những cố gắng của mọi thế hệ được truyền lại cho thế hệ sau rồi cứ thế tích lũy lại và ngày càng phong phú, phát triển. Giáo dục chuẩn bị cho mỗi cá nhân hòa nhập được vào cộng đồng và khẳng định được vị thế vai trò cộng đồng. Giáo dục là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Là một hiện tượng xã hội đặc biệt, XHHGD được hình thành, tồn tại và phát triển trong môi trường xã hội cụ thể, nên mọi hoạt động giáo dục đều vì sự tiến bộ xã hội. Không có xã hội nào có thể tồn tại mà không có giáo dục và mọi sự giáo dục đều nhằm mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và vì vậy cần huy động mọi lực lượng tham gia vào giáo dục dù là trực tiếp hay gián tiếp. 11 Mỗi quốc gia đều quan tâm đến việc đổi mới nền giáo dục của mình để phù hợp với thay đổi của xã hội và sự tiến bộ chung. Thế giới ngày nay coi giáo dục là con đường cơ bản để khỏi tụt hậu, để tiến lên "Giáo dục là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình từ khoa học đến sản xuất, nhất là trong thời đại công nghiệp hóa"[32, 79]. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để xã hội phát triển nhanh và bền vững, giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị. Giáo dục được coi là “then chốt” của mọi vấn đề “then chốt”. Chiến lược giáo dục là tiêu điểm của chiến lược kinh tế - xã hội - văn hóa - chính trị. Mọi chiến lược về con người, về nguồn nhân lực, về khoa học kỹ thuật, về chấn hưng văn hóa, về xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh… đều xuất phát từ chiến lược giáo dục. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về GDĐT là: “Ai cũng được học hành”, Người nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và kêu gọi “Phải biến dân tộc ta thành một dân tộc thông thái”, “Công nông trí thức hóa”. Học sinh phải cố gắng siêng năng học tập “Để làm cho non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp”. Điều này chứng minh vai trò của giáo dục là hết sức quan trọng. Một lần nữa khẳng định “Giáo dục là cầu nối từ chỗ không có gì đến chỗ cái gì cũng có” (Triết học giáo dục Australia). 1.2.2. Nguồn lực: Nguồn lực bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực. Nhân lực là nguồn lực từ con người như sức mạnh, trí óc. Vật lực là nguồn lực từ của cải vật chất. Tài lực là nguồn lực từ tiền bạc. Con người làm nên tất cả và quyết định tất cả nên gọi là nguồn lực của mọi nguồn lực. 1.2.3. Huy động nguồn lực: là các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm tìm kiếm, khai thác các nguồn lực một cách có lợi nhất. 1.2.4. Xã hội hoá Thuật ngữ “Xã hội hóa” dùng để chỉ chức năng nguyên thủy của giáo dục (Socialization), được các nhà xã hội học sử dụng để mô tả những phương cách, 12 các giá trị, các vai trò mà xã hội đã quy ước, tạo cơ sở cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim (1858 – 1917) là một trong số rất ít người sử dụng thuật ngữ “Xã hội hóa”. Ông nêu: “giáo dục vừa có chức năng phân hóa vừa có chức năng xã hội hóa”. Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều cách hiểu và định nghĩa XHH khác nhau: - Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội. - Xã hội hóa là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội. - Đại từ điển Tiếng Việt nêu lên khái niệm: “Xã hội hóa được hiểu là làm cho một việc gì, một cái gì đó thành của chung xã hội”[50, 1848]. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì thuật ngữ XHH được sử dụng khá phổ biến trong các văn kiện, hội nghị, hội thảo. Tác giả Lê Quốc Hùng cho rằng: "Xã hội hóa là việc Nhà nước huy động mọi cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện một số dịch vụ công cộng trên cơ sở có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước"[31, 17]. Bản chất của xã hội hóa là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội thực sự là của dân, do dân và vì dân. Công tác XHH còn tương đối mới mẻ, trong mỗi chúng ta và hơn nữa là những người trong ngành giáo dục cần phải nhận thức đầy đủ. 13 Xã hội hóa không phải là buông lỏng sự quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản lý thống nhất của Nhà nước mà thực chất là tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật. Xã hội hóa gắn liền với mở rộng dân chủ, khắc phục dần tính thụ động, thờ ơ, phó mặc cho Nhà nước. Xã hội hóa là làm sao phải thu hút mọi tổ chức trong xã hội, mọi thành phần kinh tế tham gia thực hiện các dự án phát triển của Nhà nước. Quá trình thực hiện chủ trương XHH được Nhà nước Việt Nam tiến hành theo các bước sau: - Xoá bỏ dần chế độ bao cấp, cơ chế xin cho. - Tách dần hoạt động quản lý kinh doanh khỏi hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan chức năng Nhà nước. - Không ngừng củng cố dịch vụ công và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Tất cả những đặc điểm trên thể hiện khá đầy đủ về nội dung, vai trò cũng như ý nghĩa của hoạt động xã hội hóa. Như vậy, xã hội hóa là việc Nhà nước huy động mọi cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện một số dịch vụ công cộng, trên cơ sở đó có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. 1.2.5. Xã hội hóa giáo dục 1.2.5.1. Khái niệm xã hội hóa giáo dục Qua nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn hoạt động giáo dục, cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về ý nghĩa tính chất xã hội của giáo dục và xã hội hóa công tác giáo dục. Thực tế nếu tự thân vận động, giáo dục dù không có định hướng cụ thể rõ ràng vẫn thể hiện tính chất xã hội nhưng không đạt đến trình độ XHH đích thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó. Cần phân biệt XHHGD và xã hội hóa công tác giáo dục. 14 Xã hội hóa giáo dục là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động giáo dục và cộng đồng xã hội, là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội, thích ứng với xã hội. Xã hội hóa công tác giáo dục là duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục và xã hội, XHHCTGD còn là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước. Xã hội hóa giáo dục là cách nói gọn của XHHCTGD với nội hàm là phương thức, cách thức, phương châm, cách làm giáo dục, tổ chức và quản lý giáo dục. Đảng ta chủ trương XHHGD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận không thể thiếu trong đường lối giáo dục của Đảng. Đặc điểm của XHHGD là mở rộng quy mô, mở rộng trách nhiệm giáo dục, chuyển hướng từ giáo dục tinh hoa thành giáo dục đại chúng – giáo dục cho mọi người – xây dựng xã hội học tập. Hoạt động giáo dục từ chỗ là trách nhiệm của ngành giáo dục, do Nhà nước đảm trách, đến mọi cá nhân, tập thể, cộng đồng cùng chăm lo. Điều đó tạo nên động lực mới và sức mạnh tổng hợp, tính công bằng xã hội của GDĐT. Như vậy, XHHGD là quá trình tăng cường tính xã hội của giáo dục lên tầm cao mới, đa phương hóa nguồn lực, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, cộng đồng hóa trách nhiệm dưới sự quản lý của Nhà nước. Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng XHHGD là "Làm cho xã hội nhận rõ trách nhiệm đối với giáo dục, giáo dục phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện việc kết hợp giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện để giáo dục kết hợp với lao động, học đi đôi với hành; xã hội hóa giáo dục có quan hệ hữu cơ với dân chủ hóa giáo dục"[33,17-18]. Xã hội hóa giáo dục đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và thực hiện từ nhiều thập kỷ qua, hoạt động XHHGD luôn vận động và phát triển. Ở nước ta, XHHGD là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát triển GDĐT, XHHGD là chủ trương đúng đắn, mang tính chiến lược của Đảng. "Xã hội hóa giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức 15 kinh tế - xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập"[31, 17]. Văn kiện Đại hội IX của Đảng có nêu: "Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích phát triển tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục"[25, 73-74]. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh: “Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời”[26, 34- 35]. Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện rộng rãi chủ trương XHHGD và XHHGD phải được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân, toàn thể xã hội tham gia vào giáo dục, làm cho hoạt động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xã hội. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu: "Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục"[27, 132] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: "Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục 16 mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vất chất kỹ thuật" [28, 117] Như vậy, xã hội hóa giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế - xã hội (của mọi thành phần, lực lượng xã hội) tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục nhằm xây dựng xã hội học tập. 1.2.5.2. Đặc điểm, bản chất, nội dung xã hội hóa giáo dục là gì? - Đặc điểm của XHHGD + Đó là việc huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan đến giáo dục vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục. Sức huy động này không phải là nhất thời mà là thường xuyên theo một cơ chế vận hành xác định, được xây dựng từ cấp Trung ương đến địa phương trên cơ sở một chiến lược phát triển giáo dục lâu dài cho cả nước cũng như cho mỗi địa phương, địa bàn dân cư nhất định. Chính phủ đã ra Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 29 tháng 5 năm 1998 thành lập Hội đồng quốc gia về giáo dục do Thủ tướng làm Chủ tịch với sự tham gia của các Ban, Bộ như: Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ trưởng Trưởng ban Tổ chức Chính phủ, đại diện các nhà giáo và các nhà khoa học. Đó là một trong những biểu hiện cụ thể của đặc điểm trên về xã hội hoá công tác giáo dục. + Đó là việc huy động các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục. Các lực lượng xã hội đó có thể tham gia rộng rãi vào nhiều lĩnh vực hoạt động giáo dục với nhiều hình thức phong phú đa dạng. Các lực lượng xã hội đó là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, cá nhân của Mặt trận, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Ban đại diện cha mẹ học sinh, Hội khuyến học, Hội chữ thập đỏ, … mọi tổ chức xã hội và cá nhân quan tâm đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt gia đình và tộc họ đang ngày càng đóng vai trò trực tiếp quan trọng trong công tác giáo dục. Sự tham gia 17 của các lực lượng này sẽ làm cho giáo dục gắn bó với cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và vì lợi ích của cộng đồng. + Đó là việc đa dạng hoá các hình thức giáo dục và các loại hình nhà trường. Việc mở rộng các hình thức giáo dục phi chính quy bên cạnh các hình thức giáo dục chính quy, phát triển các loại hình bán công, dân lập, tư thục bên cạnh trường công lập vốn là hình thức độc tôn trước đây, đã mở ra khả năng huy động nhiều lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn, thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. + Xã hội hoá công tác giáo dục còn là việc mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển. Đây không những là chính sách lâu dài trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng ta mà còn là biện pháp cần thiết trong giai đoạn mà Nhà nước chưa có đủ kinh phí cần thiết các loại hoạt động giáo dục. + Xã hội hoá công tác giáo dục không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và vai trò của Nhà nước. Trái lại xã hội hoá công tác giáo dục chỉ có thể thực hiện thành công khi có sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và vai trò chủ động, nồng cốt của ngành giáo dục. Các địa phương thực hiện tốt công cuộc xã hội hoá công tác giáo dục đều khẳng định điều kiện tiên quyết trên. Đây cũng là đặc điểm riêng của xã hội hoá công tác giáo dục ở nước ta hiện nay và sau này. Ở đây cũng cần nói thêm là xã hội hoá công tác giáo dục không phải là cách làm giáo dục chỉ có ở riêng nước ta mà là cách làm giáo dục phổ biến của các nước trên thế giới kể cả những nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế phát triển cao. Tuy nhiên, thuật ngữ họ dùng không phải là “Xã hội hoá công tác giáo dục” mà là “sự tham gia của cộng đồng và giáo dục”. Rõ ràng là thuật ngữ 18 được sử dụng rộng rãi trên thế giới này về mặt ngữ nghĩa đã thể hiện được rõ ràng nội dung cơ bản của xã hội hoá công tác giáo dục. - Bản chất của XHHGD là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào phát triển sự nghiệp giáo dục. Xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân và các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp địa phương và của từng người dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã hội lành mạnh thuận lợi cho hoạt động giáo dục. Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này. - Nội dung của XHHGD + Huy động toàn xã hội, toàn dân tham gia vào các hoạt động phát triển giáo dục về qui mô, số lượng, chất lượng,…, của các cơ sở giáo dục, cộng đồng dân cư, vùng miền, đặc biệt xây dựng XHHT, động viên mọi người học tập thường xuyên, suốt đời. + Đa dạng hóa các hình thức học tập, loại hình nhà trường. + Đa dạng hóa các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực). + Huy động toàn xã hội xây dựng môi trường thuận lợi cho giáo dục. + Huy động toàn xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào QTGD. Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân. Xã hội hoá là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. ở mỗi địa phương, đây là cộng đồng trách nhiệm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người dân. 19 Xã hội hoá và đa dạng hoá các hình thức hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh việc củng cố các tổ chức của Nhà nước, cần phát triển rộng rãi các hình thức hoạt động do các tập thể hoặc các cá nhân tiến hành trong khuôn khổ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đa dạng hoá chính là mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào các hoạt động trên. Xã hội hoá là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, không phải là biện pháp tạm thời, chỉ có ý nghĩa tình thế trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí cho các hoạt động này. Khi nhân dân ta có mức thu nhập cao, ngân sách nhà nước dồi dào vẫn phải thực hiện xã hội hoá, bởi vì giáo dục, y tế, văn hoá là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của toàn dân. Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước. Công bằng xã hội không chỉ biểu hiện về mặt hưởng thụ, tức là người dân được xã hội và nhà nước chăm lo, mà còn biểu hiện cả về mặt người dân đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương. 1.3. Vị trí vai trò của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân 20 Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống Giáo dục Quốc dân. Tầm quan trọng của giáo dục mầm non là ở chỗ nó đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục lâu dài nhằm hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Niềm tin và hy vọng của từng gia đình và cả xã hội về tương lai của trẻ và của đất nước trông chờ ở sự phát triển hàng ngày ở lứa tuổi măng non này. Chính vì vậy, hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII đặt ra mục tiêu đến năm 2020 phải “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Điều 21,22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục mầm non “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến sáu tuổi”, “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một”. GDMN có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là chuẩn bị tiền đề về thể chất, về trí tuệ và về tâm lý, cho trẻ em đến trường phổ thông và cũng tạo ra tiền đề vững chắc cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến GDMN và đã cho ra đời những chủ trương chính sách hợp lý kịp thời nhằm phát triển GDMN trong thời kỳ mới, thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Phát triển GDMN là nền tảng chiến lược phổ cập tiểu học của đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và trên thế giới đã chứng minh lợi ích lâu dài của việc can thiệp giáo dục vào các năm ở tuổi mầm non. Trí tuệ, tính cách và hành vi đứa trẻ đã được hình thành ở chính những năm đầu cuộc đời con người. Những can thiệp khi trẻ còn nhỏ có thể thúc đẩy các em đi học và giảm tỷ lệ bỏ học, tỷ lệ lưu ban tức là chất lượng học tập của các em sẽ vững chắc hơn. Chăm sóc sức khoẻ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non là công việc vô cùng quan trọng vì ở lứa tuổi mầm non mà bị suy dinh dưỡng thường xuyên và sức khoẻ kém hơn ở lớp tiểu học thì trẻ sẽ không đi học đều dẫn đến tình trạng lưu ban, bỏ học.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan