Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng thống kê thà...

Tài liệu Luận văn giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng thống kê thành phố bắc ninh theo tiếp cận cộng đồng

.PDF
93
548
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI VŨ NGỌC LINH GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỐNG KÊ THÀNH PHỐ BẮC NINH THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI - 2017 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI VŨ NGỌC LINH GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỐNG KÊ THÀNH PHỐ BẮC NINH THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng Mã số: Thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hồng Thuận HÀ NỘI – 2017 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về cơ cấu nền kinh tế và kéo theo sự dịch chuyển về cơ cấu nghề nghiệp trong xã hội. Đồng thời, Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế tri thức, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Mỗi sinh viên, sau khi tốt nghiệp, phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm… Điều đó đặt ra những thách thức không chỉ đối với mỗi sinh viên mà còn là vấn đề mà mỗi cơ sở đào tạo phải tìm ra phương hướng, giải pháp để đáp ứng đòi hỏi trên. Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, trong giáo dục nhân cách toàn diện cho sinh viên, giáo dục giá trị nghề nghiệp đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi các giá trị nghề nghiệp chính là cơ sở bên trong, định hướng và thúc đẩy mọi hoạt động và hành vi, là hạt nhân tạo nên phẩm chất và năng lực nghề của mỗi con người trong thời đại mới. Do đó, cần phải tổ chức một cách có hiệu quả hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên nói chung và sinh viên ngành thống kê nói riêng, . Trong hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên, trường Cao đẳng Thống kê đã thực hiện bằng nhiều con đường, phương pháp khác nhau. Trong đó, giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên theo hướng tiếp cận cộng đồng đã thể hiện nhiều điểm thuận lợi và tác động trực tiếp nhất đến nhận thức, của sinh viên. Qua đây, có thể thấy rõ vai trò của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp trong quá trình đào tạo cũng như việc sử dụng nguồn lao động là sinh viên của nhà trường sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh việc học tập tại trường, sinh viên còn tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động nghề nghiệp tại cộng đồng trong quá trình thực hành, thực tập nghề nghiệp. Đặc biệt, sau khi ra trường, họ 3 được tiếp nhận vào các cơ quan, doanh nghiệp, chính là nơi tiếp tục giáo dục, nâng cao giá trị nghề nghiệp cho các cựu sinh viên. Do đó, trước hết phải xác định được cách thức thực hiện để tối ưu hóa quá trình giáo dục giá trị nghề nghiệp theo hướng tiếp cận cộng đồng. Trước đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục giá trị nhằm làm rõ bản chất, mục đích, nội dung và các con đường giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ,… cũng như giáo dục giá trị văn hóa, giáo dục giá trị đạo đức, giáo dục giá trị sống, giáo dục giá trị nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên,… Tuy nhiên, cho đến nay việc giáo dục giá trị nghề thống kê còn rất hiếm và riêng giáo dục giá trị nghề nghiệp theo hướng tiếp cận cộng đồng thì dường như chưa có nghiên cứu nào. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định lựa chọn vấn đề: “Giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh theo tiếp cận cộng đồng” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên theo tiếp cận cộng đồng, tìm ra các biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh dựa vào cộng đồng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Quá trình giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh Tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh. 4. Giả thuyết khoa học Nếu giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê thông qua phối hợp với theo tiếp cận cộng đồng địa phương, tạo ra môi trường 4 trải nghiệm nghề nghiệp phù hợp với điều kiện của sinh viên, thì sẽ tác động tích cực đến hệ giá trị nghề nghiệp của các em. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng 5.2. Khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh. 5.3. Đề xuất các biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh; Từ đó khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên theo tiếp cận cộng đồng . - Giới hạn về địa bàn: Đề tài triển khai nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh và trường Cao đẳng Thống kê. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Hồi cứu, các tài liệu, khái quát và hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về giá trị nghề nghiệp, giáo dục giá trị nghề nghiệp, tiếp cận cộng đồng,… Từ đó xây dựng cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê Thành phố Bắc Ninh theo tiếp cận cộng đồng. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi Xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho CBQL, GV và sinh viên nhằm tìm hiểu thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục giá trị nghề nghiệp cho 5 sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh. 7.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm Quan sát hoạt động giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng nhằm bổ sung thông tin về thực trạng. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn Tiến hành phỏng vấn sâu, trao đổi với một số CBQL, giảng viên, sinh viên nhằm làm rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung thêm những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài. 7.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy của GV như nội dung, chương trình giảng dạy, tài liệu học tập,…và sản phẩm hoạt động học của sinh viên như kết quả học tập, tính tích cực tham gia các hoạt động giáo dục liên quan đến giáo dục giá trị nghề nghiệp. 7.2.2.5. Phương pháp chuyên gia Thu thập các thông tin và xin ý kiến của chuyên gia về những vấn đề có liên quan và biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng. 7.3. Phương pháp thống kê toán học Chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê toán học và, phần mềm xử lý dữ liệu SPSS để rút ra những nhận xét, kết luận có giá trị khách quan. 8. Cấu trúc của đề tài Đề tài có cấu trúc là ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Đề tài gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên theo tiếp cận cộng đồng. Chương 2. Thực trạng giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng. Chương 3. Biện pháp giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Thống kê theo tiếp cận cộng đồng. 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN THEO TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Trên thế giới Giáo dục giá trị đang được xem như một xu thế của giáo dục hiện đại. Mặc dù, trên thế giới, việc nghiên cứu về giáo dục giá trị và tổ chức giáo dục giá trị trong nhà trường đã được tiến hành từ trước đó khá lâu. Có thể xác định lịch sử giáo dục giá trị được bắt đầu ở Mỹ vào năm 1776, khi những người trong Ban soạn thảo Tuyên ngôn độc lập Mỹ đã đặt ra trách nhiệm của nhà trường là giáo dục cho thế hệ tương lai các phẩm chất đạo đức, truyền đạt cho họ các giá trị, đặc biệt là các giá trị dân chủ. Ở châu Á, từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, vấn đề giáo dục giá trị cũng đã được bàn đến. Trong cuốn Soka Kyoibugaku Taikei (Tổng luận về giáo dục học sáng tạo giá trị) được xuất bản năm 1930, nhà giáo dục Nhật Bản Tsunesaburo Makiguchi đã nêu lên quan điểm của mình về việc xây dựng một nền giáo dục tam phương. Mục đích của của nền giáo dục này là đào tạo học sinh thành những con người năng động, hạnh phúc, phát triển toàn diện và biết tạo ra giá trị. Để thực hiện được nền giáo dục tam phương, T.Makiguchi đề nghị phải chuyển đổi các chức năng của người giáo viên từ chỗ là người truyền thụ tri thức thành người hướng dẫn hữu ích cho tiến trình tìm tòi và học tập của học sinh [33]. Trong hoạt động điều tra nghiên cứu về định hướng giá trị của thanh niên, có các công trình đáng chú ý như: Chương trình nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên do Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của Bungari thực hiện vào những năm 1977 – 1978; các cuộc điều tra do Phòng nghiên cứu thanh niên thuộc viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản thực hiện đối với lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi ở 11 nước trên thế giới và cuộc điều tra do Viện khảo sát xã hội Châu Âu thực hiện đối với lứa tuổi 15 – 24 tuổi ở mức 10 nước 7 Châu Âu được tiến hành vào năm 1985; Cuộc điều tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI, so The Club of Rome thực hiện theo đề nghị của UNESCO, được tiến hành vào năm 1986… [36] Bên cạnh các cuộc điều tra nghiên cứu định hướng giá trị của thanh niên, nhiều hội nghị khoa học về giáo dục giá trị cũng đã được tổ chức. Điển hình là: Hội nghị khoa học với chủ đề “Đẩy mạnh giáo dục giá trị đạo đức nhân văn, văn hóa quốc tế” được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản vào tháng 2 năm 1994. Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm giáo dục giá trị đạo đức nhân văn và thống nhất đưa ra 8 nhóm giá trị được xác định trên cơ sở có liên quan đến 8 chủ đề: Quyền con người; Dân chủ; Hợp tác và Hòa bình; Bảo vệ môi trường; Bảo vệ di sản văn hóa; Bản thân và những người khác; Tính dân tộc; Tâm linh [31]; Tháng 8 năm 1996, một cuộc hội thảo của 20 nhà giáo dục đến từ khắp nơi trên thế giới diễn ra tại trụ sở của UNICEF ở thành phố New York. Hội thảo bàn về nhu cầu cảu trẻ em và những trải nghiệm khi tiếp xúc với các giá trị, về Giáo dục Giá trị sống. Đặc biệt, đáng chú ý là bài Giáo dục giá trị trong nhà trường phổ thong Mỹ do tác giả Dale N. Titut trình bày trong Hội thảo khoa học về giáo dục tại Đại học Kutztow vào tháng 9 năm 1994. Nội dung của bài tham luận đã tổng kết Chiến lược giáo dục giá trị ở phổ thông của Mỹ gồm 12 điểm. Trong mỗi điểm đều bao gồm các GTNN mà người giáo viên cần phải có [18, tr. 12-20.]. Chương trình Giáo dục các Giá trị sống của LVEP (một tổ chức phi lợi nhuận được UNESCO hỗ trợ, ủy ban UNICEF Tây Ban Nha và tổ chức Brahma Kumaris tài trợ). Chương trình đưa ra các hoạt động giá trị khác nhau dựa trên kinh nghiệm và những phương pháp thực hành nhằm trang bị cho trẻ em và thanh thiếu niên các tri thức, giúp họ trải nghiệm và khám phá 12 giá trị căn bản của các nhân, gồm: Hợp tác, Tự do, Hạnh phúc, Trung thực, Khiêm tốn, Yêu thương, Hòa bình, Tôn trọng, Trách nhiệm, Giản dị, Khoan dung, Đoàn kết [2]. Ở nhiều nước, giáo dục giá trị được gắn với giáo dục đạo đức hoặc giáo dục công dân. Chẳng hạn, Scotland đã nhấn mạnh đến việc hình thành ở học sinh các giá trị của niềm tin cơ bản, các giá trị giao lưu; Bang New South Wales 8 đã chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục các thài độ và hành vi với 3 loại giá trị: các giá trị của việc học tập, các giá trị về bản thân và về người khác; các giá trị của tinh thần trách nhiệm công dân [16, ]. Một số nước ở khu vực Đông Nam Á cũng đưa giáo dục giá trị vào trong nhà trường và toàn xã hội từ rất sớm. Năm 1988, Philippin tiến hành xây dựng và phát triển “Chương trình giáo dục cho người Philippin”. Đồng thời, cũng trong năm đó, Bộ Văn hóa giáo dục thể thao Philippin đã phát hành tài liệu “Giáo dục giá trị cho người Philippin”. Vào năm 1992, Trung tâm canh tân và công nghệ giáo dục thuộc Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á công bố tài liệu “Giá trị trong hành động”. Tài liệu trình bày về quan điểm, mục tiêu, chương trình, cách đưa giáo dục giá trị vào nhà trường và cộng đồng của các nước Indonesia, Philippin, Singapo, Malaysia, Thái Lan [36]. Tóm lại, hiện nay giáo dục giá trị đã trở thành một xu thế chung trên thế giới, hầu hết các nước đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu và tổ chức giáo dục giá trị trong nhà trường. Quan niệm chung của các nước khi nghiên cứu và triển khai giáo dục giá trị đều hướng đến hình thành cho học sinh, sinh viên các giá trị cốt lõi, mang tính thời đại nhằm giúp họ có thể thích ứng và hoạt động có hiệu quả trong một thế giới đang biến đổi hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên, do phần lớn các nước đều mới bước đầu tiên triển khai giáo dục giá trị, nên những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song vẫn chưa thật toàn diện và sâu sắc. Việc nghiên cứu và triển khai chương trình giáo dục giá trị mới chỉ tập trung vào các giá trị sống, giá trị đạo đức – nhân văn. Trong khi đó, vấn đề giáo dục GTNN cho người học nghề, bao gồm cả nghề thống kê, còn ít được quan tâm. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở nước ta, vấn đề giáo dục giá trị cũng được các nhà khoa học bàn đến từ khá sớm. Năm 1986, qua bài viết “Một số vấn đề phương pháp giáo dục về giảng dạy đạo đức cho học sinh phổ thông” đăng trên tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, Hà Thế Ngữ đã chỉ ra nhân lõi của phương pháp giáo dục đạo đức là 9 phải chuyển hóa được những giá trị xã hội vào trong ý thức của người học, và do đó, giáo dục giá trị phải là một phần hữu cơ của quá trình giáo dục đạo đức [29]. Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, giáo dục giá trị cùng với giá trị và định hướng giá trị đã trở thành những vấn đề rất được quan tâm ở nước ta và được bàn đến trong nhiều công trình nghiên cứu về con người, đặc biệt là trong một số đề tài thuộc hai chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước: Chương trình KX-07 “Con người là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội” (1991 – 1995) và Chương trình KHXH-04 “Phát triển văn hóa, xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 – 2000). Ngoài các đề tài nằm trong khuôn khổ hai chương trình khoa học công nghệ nêu trên, vấn đề định hướng giá trị và giáo dục giá trị còn được nhiều tác giả nghiên cứu, bàn đến trong các đề tài khoa học, đề tài luận án tiến sĩ, trong các hội thảo khoa học, các bài báo khoa học,… Qua khái quát, có thể nhận thấy, những hướng chủ yếu được tác gả tập trung nghiên cứu hoặc bàn đến gồm: - Xác định thực trạng định hướng giá trị của học sinh, sinh viên [3], [6], [23], [25], [26], [28]. - Giáo dục giá trị sống cho thanh thiếu niên , [2], đặc biệt trong các năm 2005 và 2006, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục đã biên soạn và phát hành hai tài liệu về giảng dạy các giá trị sống trong nhà trường [37], [38]. - Trên thực tế, từ năm 2000, LVEP đã triển khai Chương trình giáo dục các Giá trị sống vào nước ta. Trong khuôn khổ của Chương trình, nhiều hoạt động như Tập huấn giáo viên, cung cấp tài liệu, hướng dẫn thực hành các giá trị sống cho các đối tượng khác nhau đã được tổ chức. Tuy nhiên chương trình mới chỉ được triển khai tại các cơ sở giáo dục – lao động – xã hội với các đối tượng là học viên cai nghiện, trẻ em đường phố, trẻ em bị thiệt thòi, … và một số trường phổ thông dân lập ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh [2]. Tóm lại, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ là vấn đề đã được đặt ra từ cách đây khá lâu, nhưng phải đến cuối thể kỷ XX, vấn đề này mới thực sự trở thành mối quan tâm chung của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia và của các nhà khoa học. Qua những khảo cứu ở trên có thể nhận thấy, các hoạt động nghiên 10 cứu về giáo dục giá trị diễn ra rất đa dạng và ngày càng phát triển rộng rãi. Trên phạm vi toàn cầu, nhiều cuộc hội thảo khoa học với các tầm mức khác nhau đã được tổ chức, nhiều chương trình giáo dục giá trị với các quy mô khác nhau đã được xây dựng và triển khai. Mặc dù vậy, trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn, vấn đề giáo dục GTNN cho sinh viên còn ít được bàn đến. 1.2. Các khái niệm công cụ 1.2.1. Giá trị nghề nghiệp 1.2.1.1. Giá trị Từ thời cổ đại, những hiểu biết đầu tiên về giá trị đã có trong các tư tưởng triết học. Đến cuối thế kỉ XIX, với sự xuất hiện của giá trị học, thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ về một khái niệm khoa học và được nghiên cứu ngày càng sâu rộng trong triết học, đạo đức học, văn hóa học, xã hội học, tâm lý học… Với mỗi ngành học đều có những hướng tiếp cận riêng đối với khái niệm “giá trị”. Vì thế, xung quanh khái niệm “giá trị” có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau. Theo một số từ điển Việt Nam và từ điển nước ngoài, khái niệm “giá trị” được định nghĩa “là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con người, là cái làm cho vật có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai cấp, nhóm, xã hội nói chung, được phản ánh vào các nguyên tắc và chuẩn mực đạo lý, lý tưởng, tâm thế, mục đích. Có giá trị vật chất và giá trị tinh thần” [7. tr. 123] Nhà xã hội học J. H. Ficher (Hoa Kỳ) coi: “Tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc nhóm xã hội đều có một giá trị” [24]. Nhà văn hóa học C. Kluckholn (Hoa Kỳ) cho rằng: “Người ta nhận thấy ở giá trị những quan niệm thầm kín hoặc bộc lộ cái ao ước riêng của một cá nhân hay của một nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn các phương thức, phương tiện và mục đích khả thi của hành động” 4. tr. 31]. Còn theo quan niệm của nhà giáo dục học T. Makiguchi (Nhật Bản) thì: “Giá trị là sự thể hiện có tính định lượng của mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của việc đánh giá” [33. tr. 104]. 11 Trong những thập kỷ gần đây, ở nước ta cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị. Nhìn chung, tác giả của các công trình này đều quan niệm giá trị là tính có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quy, có ích của các đối tượng đối với chủ thể. Chẳng hạn, theo tác giả Thái Duy Tuyên thì giá trị là: “Cái đáng quý, cái cần thiết, có ích, có nghĩa, thỏa mãn những nhu cần về vật chất và tinh thần của con người, giai cấp, nhóm xã hội nói chung” [34, tr. 106]. Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giá trị. Qua các định nghĩa có thể nhận thấy những quan điểm chung sau đây: Thứ nhất, giá trị là tính ích lợi, tính ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan đối với cuộc sống của con người. Nó nói lên khả năng của sự vật, hiện tượng trong việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất hay tinh thần của từng người, từng nhóm người, của cộng đồng, xã hội và của toàn nhân loại. Giá trị của một khách thể (sự vật, hiện tượng) hoàn toàn khác với cái gọi là bản chất và quy luật của chính bản thân khách thể đó. Cái bản chất và quy luật của khách thể luôn tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào nhu cầu của con người. Còn giá trị của khách thể lại chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ với nhu cầu của chủ thể (cá nhân, nhóm, cộng đồng…). Nhờ nhu cầu mà chủ thể xác định được một đối tượng có giá trị hay không và giá trị ấy cao hay thấp. Thứ hai, giá trị là sự biểu hiện mối quan hệ lợi ích, đánh giá của chủ thể đối với sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa, giá trị có mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan của giá trị là những đối tượng trong hiện thực chứa đựng những đặc tính có khả năng thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần nào đó của con người. Còn mặt chủ quan của giá trị là thái độ, quan điểm, tiêu chuẩn lựa chọn giá trị cũng như phương thức đánh giá đối tượng của xã hội và cá nhân. Sự phân biệt hai mặt cấu thành của giá trị đã cho thấy giá trị chỉ nảy sinh và tồn tại thông qua sự đánh giá của chủ thể, mà chủ thể bao giờ cũng là con người nên giá trị là một phạm trù mang bản chất xã hội. Giá trị là cái thuộc về xã hội, chỉ có trong xã hội loài người. Các giá trị giúp con người định hướng hoạt động và góp phần tạo dựng nên xã hội loài người. Tuy nhiên, sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc 12 vào ý thức của con người mà phụ thuộc vào những yêu cầu và điều kiện thực tiễn trong đó họ sống và hoạt động. Do vậy, trong mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế độ xã hội, mỗi cộng đồng dân tộc, tôn giáo, giai cấp,… đều có những giá trị riêng của mình. Nói khác đi, giá trị là một phạm trù mang tính xã hội, tính xã hội, tính lịch sự - cụ thể, luôn biến đổi theo không gian và thời gian. Thứ ba, Giá trị được hình thành trong hoạt động thực tiễn, gắn liền với hoạt động của con người. Khi đã hình thành, giá trị có vai trò là chỗ dựa để con người xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình. Mọi cách thức và hành động của con người trong hoạt động đều được chỉ đạo bởi các giá trị. Vì thế, giá trị là cái chi phối con người trong việc lựa chọn các phương thức, phương tiện và mục đích hoạt động. Từ những quan điểm trên, có thể hiểu một cách khái quát: Giá trị là tính ích lợi, tính có ý nghĩa tích cực của sự vật, hiện tượng đối với sự thỏa mãn nhu cầu của con người, có tác dụng chi phối con người trong việc lựa chọn mục đích, phương thức và phương tiện hoạt động. Trong xã hội loài người có vô số các giá trị khác nhau. Thông thường, các giá trị được phân chia thành hai loại tương ứng với hai lĩnh vực cơ bản trong đời sống con người, đó là giá trị vật chất (thỏa mãn các nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (thỏa mãn các nhu cầu tinh thần). Người ta cũng thường phân biệt các giá trị xã hội với các giá trị cá nhân. Giá trị cá nhân là giá trị mà một con người, với tư cách là một chủ thể của hoạt động, đã tiếp thu hoặc tạo ra được cho chính bản thân mình. Còn giá trị xã hội là giá trị được đa số người trong cộng đồng thừa nhận và cần đến nó như một nhu cầu thực sự. Các giá trị xã hội là các giá trị căn bản của con người, là cơ sở của giá trị cá nhân. Do đó, việc giáo dục giá trị cho cá nhân phải dựa trên nền tảng của các giá trị xã hội. Các giá trị, dù là giá trị cá nhân hay giá trị xã hội, bao giờ cũng tồn tại và vận đọng trong mối liên hệ chặt chẽ với các giá trị khác. Khi một tổ hợp các giá trị khác nhau được cấu trúc theo những vị trí thứ bậc khác nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, phù hợp với việc thực hiện các chức năng đặc thù của xã hội thì được gọi là hệ giá trị (hệ thống giá trị). Mỗi hệ giá trị đều có một cấu trúc 13 riêng, trong đó các giá trị được sắp xếp theo từng nhóm tương ứng với từng lĩnh vực hoạt động của con người. Các nhóm giá trị này có vị trí độc lập tương đối và có sự tương tác với nhau trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội. Hệ thống giá trị là một hình thức của hệ thống xã hội nói chung, của cấu trúc xã hội nói riêng, trong đó thể hiện các cấp độ giá trị và mối liên hệ giữa các cấp độ giá trị. Nói đến cấp độ giá trị là nói đến sự hệ thống hóa các giá trị theo tầng bậc của cộng đồng. Cụ thể là, có cấp độ giá trị của quốc gia - dân tộc, cấp độ giá trị của một giai cấp, của tộc người, của từng nhóm xã hội, cấp độ giá trị của từng cá nhân. Giữa các cấp độ giá trị có nhiều nét đồng nhất với nhau, nhưng cũng có những điểm khác biệt thể hiện ở các giá trị đơn lẻ và đặc biệt là ở sự xếp đặt thứ tự các giá trị trong tổng thể bảng giá trị. Hệ giá trị luôn có tính lịch sử - cụ thể và chịu sự chế ước bởi lịch sử. Trong cấu trúc của hệ giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ và của hiện tại, có các giá trị đương đại và các giá trị truyền thống, các giá trị của quốc tế, của khu vực, của dân tộc, của giai cấp… Cấu trúc đó là kết quả của quá trình hình thành, phát triển và chuyển hóa các giá trị dưới tác động của các điều kiện lịch sử cụ thể. Do đó, trong mỗi thời kỳ lịch sử, hệ giá trị lại có một cấu trúc tương ứng. Khi điều kiện lịch sử biến đổi thì cấu trúc của hệ giá trị cũng biến đổi theo, có những giá trị cũ bị mất đi và có những giá trị mới được nảy sinh. Điều đó đã nói lên khả năng thích ứng cũng như tính phát triển nội tại của hệ giá trị. Hệ giá trị khác nhau thì trật tự sắp xếp các giá trị cũng khác nhau. Việc sắp xếp các giá trị (hay nhóm giá trị) theo một thứ tự ưu tiên nhất định được gọi là thang giá trị (hay thước đo giá trị). Thang giá trị được hình thành và thay đổi theo thời gian cùng với sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người, của dân tộc, của cộng đồng, của từng nhóm người và của từng cá nhân. Thang giá trị không tồn tại tự thân mà vận động và phát triển thông qua quá trình con người, với tư cách là chủ thể của hoạt động và giao lưu, vận dụng vào thực tiễn để nhận thức, đánh giá, lựa chọn và chấp nhận các giá trị cũng như để sáng tạo ra các giá trị mới. Vì thế, nói đến thước đo giá trị là nói đến mặt thực tiễn của thang giá trị. 14 Thang giá trị, thước đo giá trị được dùng để đánh giá về các giá trị. Trên thực tế, mỗi cá nhân hay cộng đồng xã hội đều có những thước đo giá trị riêng. Tuy nhiên, dù là thước đo giá trị nào thì trong nó cũng có những giá trị giữ vị trí là giá trị cốt lõi, chuẩn mực chung cho nhiều người, chiếm vị trí ở bậc cao hoặc vị trí then chốt. Những giá trị đó được coi là giá trị chuẩn hay chuẩn giá trị. Chuẩn giá trị là một giá trị cụ thể, được cộng đồng xã hội lựa chọn, đánh giá trong quá trình họ tham gia vào các loại hình hoạt động và giao lưu. Khi giá trị được chọn lọc lên đến cấp độ chung cho mọi người thì nó trở thành chuẩn giá trị nằm trong hệ giá trị xã hội, giữ vị trí là giá trị cốt lõi, thực hiện vai trò của một giá trị hạt nhân để điều chỉnh các giá trị khác, đảm bảo cho mối quan hệ tương tác trong nhóm giá trị cũng như trong cả hệ thống giá trị luôn đa dạng và ổn định. Vai trò hạt nhân của chuẩn giá trị được thể hiện rõ nét nhát khi nó nằm trong cấu trúc của thang giá trị. Ở đây, chuẩn giá trị được lấy làm căn cứ, làm tiêu chuẩn để phân định các giá trị vào từng tang bậc phù hợp. Bởi thế, chuẩn giá trị chính là thang bậc chuẩn trong thước đo giá trị. Chuẩn giá trị có vị trí độc lập tương đối. Tuy nhiên, trong đời sống của mỗi cộng đồng xã hội, các giá trị chuẩn không tách rời nhau, mà liên hệ mật thiết với nhau tạo thành hệ chuẩn giá trị của cộng đồng. Hệ chuẩn giá trị giữ vị trí là nhân lõi của hệ giá trị xã hội. Nội dung của hệ giá trị xã hội được biểu hiện một cách cô đọng nhất ỏ hệ chuẩn giá trị. Vì vậy, qua hệ chuẩn giá trị của một cộng đồng có thể xác định được những đặc trưng cơ bản trong hệ giá trị của cộng đồng đó. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với việc xây dựng nội dung giáo dục giá trị cho học sinh, sinh viên hiện nay. Giá trị luôn gắn liền với sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Do đó, nó có vai trò hết sức to lớn trong đời sống cá nhân và cộng đồng. Giá trị là nguồn động lực thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới lý tưởng chân, thiện, mỹ. Nó có tác dụng như những biểu tượng định hướng cho hoạt động của con người, đồng thời cũng lại như những chuẩn mực, quy tắc để điều chỉnh hành động của họ. Mỗi nhóm xã hội và giai tầng xã hội đều có một hệ giá trị đặc thù đóng vai trò điều chỉnh mọi hoạtđộng của cộng 15 đồng. Hệ giá trị này là hạt nhân tạo nên tâm thức chung của cộng đồng, định hướng cho các thành viên công đồng cùng thống nhất hành động theo mục tiêu chung mà xã hội đã đề ra. Chính vì thế, xây dựng các hệ thống giá trị để định hướng cho xã hội nói chung, cho từng lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. 1.2.1.2. Giá trị nghề nghiệp Giá trị nghề nghiệp là một bộ phận của hệ thống giá trị xã hội, là một loại giá trị gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của con người. Bởi vậy, khái niệm “giá trị nghề nghiệp” chỉ trở nên rõ ràng khi nó được xem xét trong mối quan hệ với khái niệm “nghề nghiệp”. Nghề nghiệp, theo tài liệu “Dân số - lao động - việc làm - giải pháp” của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, được xác định là: “một lĩnh vực mà trong đó con người sử dụng sức lao động của mình để tạo ra những cái cần thiết cho xã hội, nhờ đó con người có thể thỏa mãn những nhu cầu cần thiết cho việc tồn tại và phát trienr của mình” [39, tr. 68]. Trong Từ điển Tiếng Việt thông dụng, “nghề” được định nghĩa là: “Công việc chuyên môn theo sở trường hoặc theo sự phân công của xã hội” [42, tr. 702], còn “nghiệp” là: “Nghề làm ăn, sinh sống” [42, tr. 710]. Vậy, có thể xác định nghề nghiệp là công việc chuyên môn trong một lĩnh vực hoạt động nhất định, là dạng lao động đòi hỏi ở người làm việc phải có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, những phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của công việc chuyên môn. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, đồng thời thỏa mãn được những nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của bản thân. Trong đời sống xã hội luôn tồn tại nhiều nghề khác nhau. Bất cứ nghề nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị nghề nghiệp. Các GTNN nằm trong khái niệm “giá trị” nên nó cũng mang đầy đủ các dấu hiệu bản chất của giá trị. Nghĩa là, GTNN cũng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với nhu cầu của con người và chỉ được hình thành thông qua sự đánh giá của chủ thể. Tuy nhiên, bên 16 cạnh những dấu hiệu chung ấy, ở GTNN còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây: - Giá trị nghề nghiệp là cái có khả năng giúp con người thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến việc thực hiện các chức năng chuyên môn trong một lĩnh vực hoạt động nhất định. Với các nghề khác nhau thì GTNN cũng khác nhau. Song, nhìn chung, các GTNN trong mỗi nghề đều bao gồm: các phẩm chất nghề nghiệp, truyền thống của nghề, các tri thức lý thuyết của nghề, các kỹ năng, kỹ xảo, hiệu quả lao động… Các GTNN đóng vai trò định hướng và điều chỉnh hoạt động chuyên môn của nghề, chi phối người lao động trong việc lựa chọn mục đích, phương thức và phương tiện khi tiến hành các hoạt động chuyên môn. Tổng thể các GTNN trong một nghề tạo nên văn hóa của nghề đó. Việc lĩnh hội các GTNN từ nền văn hóa nghề sẽ giúp con người hình thành được nhân cách nghề nghiệp ở bản thân. Nhờ vậy, họ có thể tham gia lao động trong nghề và khẳng định được giá trị của mình trong hoạt động nghề nghiệp cũng như trong cộng đồng xã hội. Vì thế, GTNN chính là giá trị nhân cách nghề nghiệp của người lao động, là giá trị của con người. - Nguồn gốc của GTNN nằm trong thực tiễn của nghề, nó vốn là đặc tính của những đối tượng nhất định. Đặc tính này trở thành GTNN khi nó được người lao động nhận thức, đánh giá là có ý nghĩa tích cực cho hoạt động nghề nghiệp của bản thân và mong ước chiếm lĩnh lấy nó. Như vậy, GTNN chỉ được hình thành trong thực tiễn nghề và thông qua sự đánh giá của chủ thể hoạt động trong nghề (cá nhân, nhóm người hoặc cộng đồng người lao động). - Các GTNN luôn gắn kết chặt chẽ với công việc chuyên môn trong một lĩnh vực hoạt động nhất định. Chúng chỉ hình thành và tồn tại trong mối quan hệ với những nhu cầu có liên quan đến công việc chuyên môn của người lao động. Mỗi nghề là một lĩnh vực chuyên môn đặc thù với những chức năng, mục đích, nội dung, phương thức, phương tiện và điều kiện thực hiện riêng biệt. Tính đặc thù về chuyên môn của nghề đã tạo ra tính đặc thù trong nhu cầu về chuyên môn của người lao động, và do đó, tạo ra tính đặc thù của các GTNN nằm trong nghề. Nói khác đi, GTNN bao giờ cũng là giá trị đặc trưng cho một nghề cụ thể. 17 Từ những đặc điểm trên, tác giả luận án sử dụng khái niệm “giá trị nghề nghiệp” với hàm nghĩa là giá trị (phẩm chất, tri thức, kỹ năng…) đặc trưng của người lao động trong một nghề, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến công việc chuyên môn của người lao động, chi phối họ trong việc lựa chọn mục đích, phương thức và phương tiện để tiến hành các hoạt động chuyên môn. Như vậy, khái niệm “giá trị nghề nghiệp” hoàn toàn khác với khái niệm “giá trị của nghê nghiệp”. Khái niệm “Giá trị của nghề nghiệp” được dùng để chỉ về những ích lợi mà nghề đó mang lại cho cá nhân và xã hội. Còn khái niệm “giá trị nghề nghiệp” lại được dùng để chỉ về những phẩm chất, đức tính, các tri thức lý thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo… mang tính đặc trưng của một nghề. Các GTNN là các giá trị con người, giúp con người thực hiện tốt chức năng nghề nghiệp của mình. GTNN có quan hệ mật thiết với giá trị của nghề nghiệp. Nhờ GTNN mà người lao động đã làm cho nghề nghiệp của mình trở nên có giá trị đối với cộng đồng, xã hội. Nói cách khác, GTNN tạo nên giá trị của nghề nghiệp. Khi bàn đến khái niệm GTNN cũng cần phân biệt nó với khái niệm chuẩn nghề nghiệp. Trên thực tế, hai khái niệm này thường đi liền với nhau, nhiều khi ý nghĩa của chúng trùng khít với nhau, rất khó tách bạch. Tuy nhiên, nếu xem xét đầy đủ thì GTNN và chuẩn nghề nghiệp có nhiều điểm khác biệt. GTNN là biểu tượng tinh thần có tác dụng thúc đẩy người lao động tích cực thực hiện các chức năng của nghề, còn chuẩn nghề nghiệp là quy ước chung về những điều mà người lao động trong nghề nên làm, phải làm và những điều không nên làm, không được làm, nó nhắc nhở mỗi người cần phải ứng xử như thế nào trong từng tình huống cụ thể. GTNN là cái quy định mục đích hoạt động của người lao động, còn chuẩn nghề nghiệp là sự vận dụng cụ thể GTNN vào việc định hướng các khuôn mẫu ứng xử và quy tắc hành động để đạt đến mục đích ấy. Giá trị và chuẩn nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. GTNN là nền tảng tạo nên chuẩn nghề nghiệp, còn chuẩn nghề nghiệp lại là sự hiện thực hóa của các GTNN. Vì thế, trên cơ sở khái quát các chuẩn nghề nghiệp có thể rút ra các GTNN tương ứng. 18 Trong thực tiễn nghề nghiệp luôn hàm chứa vô số các GTNN khác nhau. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà có thể đưa ra những tiêu chí khác nhau để phân loại các GTNN. Chẳng hạn: + Dựa vào hiệu quả của GTNN về phương diện lợi ích có thể phân thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. + Căn cứ vào thời điểm hình thành GTNN và thời gian tồn tại của nó trong lịch sử phát triển nghề có thể phân thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. + Phân loại các GTNN theo chức năng của nó trong hoạt động nghề, ta có giá trị mục đích và giá trị công cụ. Sự phân loại GTNN chính là sự sắp xếp các giá trị theo những quan hệ nhất định. Căn cứ vào sự phân loại GTNN cũng như căn cứ vào chức năng, mức độ phổ biến hoặc mức độ tác dụng của giá trị, có thể xác địn được các hệ thống GTNN và thang GTNN. Hệ giá trị nghề nghiệp là một tổ hợp các GTNN khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định tạo thành một chỉnh thể thống nhất để thực hiện các chức năng chuyên môn trong hoạt động nghề nghiệp. Một hệ GTNN bao giờ cũng có một cấu trúc cụ thể. Trong đó, các giá trị được sắp xếp thành từng nhóm. Các nhóm này có vị trí độc lập tương đối và có sự tương tác qua lại với nhau. Hệ GTNN có cấu trúc như thế nào là tùy thuộc vào cách sắp xếp các giá trị tồn tại bên trong nó. Chẳng hạn, nếu sắp xếp giá trị theo các mặt hoạt động thì cấu trúc của hệ GTNN gồm có các nhóm giá trị: đạo đức nghề nghiệp, tri thức nghề nghiệp, kỹ thuật lao động. Còn khi sắp xếp giá trị theo các mặt trong nhân cách nghề nghiệp thì cấu trúc của hệ GTNN lại bao gồm các nhóm giá trị: đạo đức nghề, trình độ tay nghề, phong cách nghề. Nghề nghiệp là một lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực nghề nghiệp luôn tồn tại nhiều nghề, nhiều chuyên môn khác nhau. Mỗi nghề, mỗi chuyên môn đều có những hệ GTNN riêng, mang tính đặc thù. Việc hệ thống hóa các giá trị trong một hệ GTNN theo tầng bậc cộng đồng sẽ xác định được các cấp độ giá trị trong hệ GTNN đó. Ví dụ, trong hệ thống GTNN của 19 nghề dạy học có các cấp độ giá trị từ toàn cầu, quốc gia,.. đến từng trường, từng bộ môn, từng cá nhân. Một GTNN được xác định nằm ở cấp độ giá trị nào tức là nó có ý nghĩa với mọi người trong cộng đồng đó. Các cấp độ giá trị trong một hệ GTNN có quan hệ bao hàm nhau, nằm trong nhau. Bởi vậy, giữa các cấp độ giá trị trong một hệ GTNN có nhiều nét đồng nhất với nhau thể hiện ở những giá trị chung cho nhiều cấp độ, nhưng cũng có những điểm khác biệt thể hiện ở các giá trị đơn lẻ và đặc biệt là ở sự xếp đặt thứ tự các giá trị trong tổng thể bảng GTNN. Bất cứ hệ GTNN nào cũng mang tính lịch sử - cụ thể, chịu sự chế ước bởi những điều kiện phát triển xã hội - lịch sử. Trong sự biến đổi của xã hội từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, hệ GTNN cũng biến đổi theo. Có những giá trị mới được nảy sinh, có những giá trị cũ bị mất đi, đồng thời là sự chuyển hóa cho nhau giữa các GTNN và các nhóm GTNN. Bởi vậy, trong một hệ GTNN luôn bao gồm cả những giá trị có tính truyền thống và tính thời đại, cả những giá trị mang tính nhân loại, tính dân tộc và tính cộng đồng… Thang giá trị nghề nghiệp là một hệ thống GTNN được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định. Trong thực tế, tùy theo đặc điểm phát triển của nghề ở từng thời điểm lịch sử nhất định, mà giá trị này được ưu tiên hơn giá trị khác, giá trị này được cần đến hơn giá trị kia. Bởi vậy, thang GTNN cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của xã hội cả về thời gian và không gian. Khi thang GTNN được một chủ thể nào đó (người lao động hoặc người quản lý lao động trong nghề…) vận dụng vào quá trình thực hiện hay đánh giá các hoạt động trong mối quan hệ với công việc, với đồng nghiệp, với tập thể, với xã hội và với chính bản thân mình, hoặc để sáng tạo, nhận thức đánh giá, lựa chọn và chấp nhận các giá trị cần cho nghề nghiệp của mình thì được gọi là thước đo giá trị nghề nghiệp. Vấn đề thang GTNN và thước đo GTNN là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nghề, nó định hướng và thúc đẩy sự phát triển nhân cách của người lao động, giúp họ hình thành được các phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cần thiết. Do đó, việc chuyển hóa thang GTNN, thước đo GTNN thành thang giá trị, thước đo giá trị của từng người lao động sẽ tạo nền tảng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan