Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn cải cách doanh nghiệp nhà nước là quá trình tất yếu nhằm nâng cao khả n...

Tài liệu Luận văn cải cách doanh nghiệp nhà nước là quá trình tất yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế việt nam

.PDF
73
141
129

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ----------- ----------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : Th.S ĐẶNG THỊ LAN Sinh viên thực hiện : DOÃN THỊ MAI HƯƠNG Lớp : ANH 3 - K38 - KTNT HÀ NỘI - 2003 LỜI CẢM ƠN EM XIN TRÂN TRỌNG CẢM ƠN CÔ GIÁO - THẠC SĨ ĐẶNG THỊ LAN – GIẢNG VIÊN KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI- ĐÃ TẬN TÌNH GIÚP ĐỠ EM HOÀN THÀNH TỐT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VỚI ĐỀ TÀI: "CẢI CÁCH DNNN LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM". EM CŨNG XIN CẢM ƠN CÁC THẦY CÔ GIÁO KHÁC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TRONG HƠN 4 NĂM QUA ĐÃ DẠY DỖ, TRANG BỊ CHO EM NHỮNG KIẾN THỨC QÚY BÁU LÀM NỀN TẢNG CHO BÀI LUẬN VĂN NÀY CON CŨNG XIN BÀY TỎ LÒNG BIẾT ƠN TỚI BỐ MẸ NGƯỜI ĐÃ GIÚP ĐỠ VÀ LUÔN TẠO CHO CON NHỮNG ĐIỀU KIỆN HỌC TẬP TỐT NHẤT. TÔI CŨNG RẤT TRÂN TRỌNG NHỮNG TÌNH CẢM VÀ SỰ KHUYẾN KHÍCH, ĐỘNG VIÊN CỦA BẠN BÈ – NHỮNG NGƯỜI LUÔN Ở BÊN VÀ GIÚP ĐỠ TÔI. XIN CẢM ƠN CÁC BẠN. MỤC LỤC TRANG LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................5 CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ..............................6 I. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế ........................................................6 1. Khái niệm ...............................................................................................6 2. Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế..................7 3. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.....................................................................................8 II. Khái quát về doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam ....................................10 1. Tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển doanh nghiệp Nhà nước .............................................................................................................10 2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước..................................................12 3. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường .14 3.1 Vị trí của DNNN ....................................................................... 14 3.2 Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường............................ 15 CHƯƠNG II: CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM .......................................................................18 I. Quá trình cải cách DNNN ........................................................................18 1. Các biện pháp đã được triển khai thực hiện ...........................................18 1.1 Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN ...................... 18 1.2 Sắp xếp, tổ chức lại các DNNN .................................................. 20 1.3 Thực hiện cổ phần hoá các DNNN .............................................. 23 2. Kết quả..................................................................................................24 2.1 Kết quả của việc đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN.......... 24 2.2 Kết quả của việc sắp xếp, tổ chức lại các DNNN. ......................... 25 2.3 Một số kết quả của việc thực hiện cổ phần hóa các DNNN ............ 26 3. Thực trạng DNNN hiện nay ..................................................................29 3.1 Về số lượng, cơ cấuvà quy mô của DNNN .................................. 29 3.2 Về năng lực hoạt động của DNNN .............................................. 33 II Nguyên nhân của những yếu kém tồn tại ................................................38 1. Nhận thức về vị trí, vai trò của DNNN ..................................................38 2. Cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN còn nhiều hạn chế...............39 3. Năng lực hoạt động của các DNNN còn nhiều hạn chế..........................41 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH DNNN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ .....................................45 I Phương hướng...........................................................................................45 1.Mục tiêu của cải cách DNNN.................................................................45 1.1 Một số quan điểm chủ yếu về nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ............................................................................................... 45 1.2 Phương hướng cải cách .............................................................. 49 II Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ......52 1 Nâng cao năng lực của các DNNN .........................................................52 1.1 Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đối với DNNN ... 53 1.2 Hiện đại hóa công nghệ trong các DNNN .................................... 53 1.3 Nâng cao năng lực quản lý trong các DNNN................................ 53 1.4 Quản lý và sử dụng có hiệu quả lao động trong các DNNN ........... 54 1.5 Lành mạnh hóa tình hình tài chính của DNNN ............................. 55 2. Đổi mới tổ chức quản lý hệ thống DNNN .............................................55 2.1 Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN................................................... 56 2.2 Thực hiện chế độ công ty đối với các DNNN và tổ chức Công ty đầu tư tài chính Nhà nước.................................................................... 56 2.3 Đổi mới mô hình tổng công ty Nhà nước ..................................... 58 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với DNNN.............................60 3.1 Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN ........ 60 3.2 Đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN ............................................................................................... 65 3.3 Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhà nước đối với DNNN .... 67 KẾT LUẬN .............................................................................................................69 PHỤ LỤC .............................................................................................................71 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................72 LỜI NÓI ĐẦU TRONG NHỮNG NĂM QUA, VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ: GIA NHẬP ASEAN VÀ THAM GIA VÀO KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) (1995); THAM GIA TIẾN TRÌNH Á - ÂU (ASEM) (1996) VÀ TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA APEC (1998); KÝ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI SONG PHƯƠNG VIỆT NAM – HOA KỲ (2000) VÀ ĐANG ĐÀM PHÁN ĐỂ GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO). QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP NÀY ĐÃ MỞ RA CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM NHIỀU CƠ HỘI PHÁT TRIỂN, NHƯNG BÊN CẠNH ĐÓ CŨNG ĐẶT RA KHÔNG ÍT THÁCH THỨC. MỘT TRONG NHỮNG THÁCH THỨC RÕ RỆT NHẤT LÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM CÒN RẤT THẤP SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI. VÀ ĐỂ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ, MỘT TRONG NHỮNG BIỆN PHÁP THƯỜNG ĐƯỢC NHẮC TỚI LÀ CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. VẬY CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ? CHÚNG TA ĐÃ THỰC HIỆN NHỮNG GÌ VÀ NÊN TIẾP TỤC LÀM GÌ NHẰM CẢI CÁCH DNNN?... NHỮNG CÂU HỎI NÀY KHIẾN EM THỰC SỰ RẤT MONG MUỐN ĐƯỢC PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH LUẬN ĐIỂM "CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM" TRONG LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP. QUÁ TRÌNH PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH SẼ ĐƯỢC TRÌNH BÀY CHỦ YẾU TRONG 3 CHƯƠNG: CHƯƠNG 1 : SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. CHƯƠNG 2 : CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH DNNN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH VIẾT LUẬN VĂN NÀY EM ĐÃ SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LÀ PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, PHƯƠNG PHÁP LÔGIC, PHƯƠNG PHÁP TRỪU TƯỢNG HÓA KHOA HỌC, PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP, PHƯƠNG PHÁP DIỄN DỊCH VÀ QUY NẠP, PHƯƠNG PHÁP LIỆT KÊ... ĐỂ CÓ THỂ ĐƯA RA NHỮNG NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN ĐÚNG ĐẮN CHO TỪNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỀ CẬP. DO GIỚI HẠN VỀ THỜI GIAN VÀ TẦM HIỀU BIẾT, LUẬN VĂN KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI NHỮNG THIẾU SÓT, HẠN CHẾ. VÌ THẾ, EM RẤT MONG NHẬN ĐƯỢC NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA CÁC THẦY CÔ GIÁO VÀ CÁC BẠN. CHƯƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM I. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ 1. Khái niệm Tại Việt Nam, quan điểm thời kỳ trước Đổi mới cho rằng khi xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa thì đồng thời phải xóa bỏ thị trường, cạnh tranh và kéo theo đó là khả năng cạnh tranh. Trong kinh tế đối ngoại, khái niệm này cũng hầu như không tồn tại vì 70 - 80% hoạt động ngoại thương và trên 90% ODA của Việt Nam được thực hiện theo những nghị định thư ký kết hàng năm trên tinh thần giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng từ năm 1986, với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại cùng việc mất đi chỗ dựa là Liên Xô và các nước Đông Âu, nước ta đã thực sự tham gia vào thị trường khu vực và thế giới đầy tính cạnh tranh và đào thải. Làm thế nào để có thể giữ vững vị thế của hàng nội địa tại thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư nhanh chóng trở thành những vấn đề có tính thời sự cấp bách. Và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng theo đó thu hút được sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành. Vậy khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là gì ? Khi nói về khái niệm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế (hay còn gọi là khả năng cạnh tranh quốc gia), các nhà chuyên môn của Việt Nam thường trích dẫn lại những định nghĩa do Ủy ban Cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ, Diễn đàn Kinh tế thế giới và OECD đưa ra: Theo Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là "mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó". Theo Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF), khả năng cạnh tranh đối với một quốc gia là "khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian". Còn Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã cố gắng kết hợp cả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia trong một định nghĩa chung. Đó là "khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế" [14, tr.12]. Những định nghĩa trên là chưa cụ thể và không phù hợp với cách hiểu của người Việt Nam. Theo sự nhìn nhận của cá nhân người viết, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu là khả năng thu hút, hấp thụ đầu tư (đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) và xác lập, duy trì, gia tăng lợi nhuận và thị phần của hàng hóa (hữu hình và vô hình) do nền kinh tế đó sản xuất ra trên thị trường trong nước và quốc tế. Như vậy, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế không phải là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hay khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Đó là 3 cấp độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là kết quả phép cộng khả năng cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Lại có quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là kết quả phép cộng khả năng cạnh tranh của tất cả các hàng hóa do nền kinh tế sản xuất ra. Trên thực tế, những quan điểm này chưa trọn vẹn vì mới đề cập đến năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thương mại. Để có năng lực cạnh tranh trong thu hút và hấp thụ đầu tư thì sức mạnh của doanh nghiệp và hàng hóa không phải là yếu tố duy nhất. Muốn có được cái nhìn đầy đủ, ta hãy xem xét những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. 2. Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Từ những khác biệt về cách tiếp cận và môi trường nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã đưa ra rất nhiều tiêu chí khác nhau. Theo Michael Porter, tác giả cuốn sách "Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia" (The Competitive Advantages of Nations), khả năng cạnh tranh của nền kinh tế được quyết định bởi sự tác động qua lại giữa 6 nhân tố cơ bản: - Các điều kiện sản xuất vốn có (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý...) - Các điều kiện của thị trường nội địa (số lượng cầu, sự đòi hỏi của người tiêu dùng...) - Các ngành công nghiệp bổ trợ và liên đới - Chiến lược, cơ cấu của các công ty và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành - Chính phủ - Các nhân tố ngẫu nhiên. Trong 6 nhân tố thì 4 nhân tố đầu đóng vai trò quyết định. Nếu lợi thế dựa trên 1 trong 4 nhân tố được phát huy ở mức độ cao thì lợi thế dựa trên các nhân tố khác sẽ dần xuất hiện do có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân tố. Và chỉ khi đó lợi thế cạnh tranh của một quốc gia mới được giữ vững. Việc mất lợi thế cạnh tranh dựa trên một trong những nhân tố trên cũng dễ dẫn đến việc mất lợi thế dựa trên những nhân tố khác và sau đó là của cả quốc gia [20, tr.27]. Trên thực tế, trước năm 1996, để đánh giá và xếp hạng khả năng cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã kết hợp với Viện Phát triển quản lý quốc tế (International Institute for Management Development - IMD) sử dụng mô hình tuyến tính đa nhân tố bao gồm 381 chỉ số. Những chỉ số này được phân làm 8 nhóm nhân tố: độ mở cửa, chính phủ, hệ thống tài chính - tiền tệ, công nghệ, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý của doanh nghiệp, nguồn nhân lực và thể chế. Tuy nhiên, từ năm 1996 WEF và IMD quyết định đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới theo những phương pháp riêng. Đối với IMD, phương pháp tính toán cũ hầu như được giữ nguyên, chỉ lược bỏ các chỉ số xuống còn 224. Về phần mình, WEF cũng giảm bớt số lượng chỉ số xuống còn 155, vừa kết hợp điều tra theo mẫu ở từng nước, vừa thăm dò ý kiến của 1500 công ty trên thế giới. Khác với IMD, WEF không tiếp tục xem xét một số chỉ số như sự tăng trưởng của GDP, của xuất khẩu và của dòng FDI vào trong nước vì cho rằng đó là kết quả chứ không phải là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của một quốc gia. WEF còn nhận định các nhóm nhân tố có tỷ trọng ảnh hưởng khác nhau. Từ năm 2000, WEF lại có sự điều chỉnh các nhóm tiêu chí, gộp thành 3 nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính và quốc tế hóa, trong đó trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3 [12] [20]. Còn ở Việt Nam ta, năng lực cạnh tranh quốc gia thường được nhìn nhận theo các nhân tố sau 1 : - Sự ổn định chính trị và trật tự - an toàn xã hội (nhất là sau sự kiện 11/9) - Hệ thống pháp luật - Hệ thống tài chính - tiền tệ - Kết cấu hạ tầng - Bộ máy hành chính - Nguồn nhân lực Sau khi xem xét các cách đánh giá, theo người viết, những nhóm tiêu chí thường được sử dụng nhất khi đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là: tình hình chính trị xã hội, hoạt động của Chính phủ, hệ thống tài chính - tiền tệ, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, độ mở cửa của nền kinh tế, hệ thống pháp luật, trình độ công nghệ, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và lợi thế tự nhiên. Tuy tầm quan trọng và ảnh hưởng có khác nhau, giữa các nhân tố trên luôn có mối quan hệ tương tác qua lại và năng lực cạnh tranh quốc gia là sự cộng hưởng của tất cả. 3. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi nền kinh tế mở; theo đó, các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngoại thương và đầu tư đóng vai trò ngày một quan trọng. Quốc gia nào cũng cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư trong khi trên thị trường thế giới, mức cung nhiều mặt hàng đã dư thừa còn nhu cầu đối với vốn và công nghệ vẫn là vô hạn. Thực tế này buộc họ phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt trong thương mại và thu hút đầu tư. Phần thắng sẽ thuộc về ai có sức cạnh tranh cao hơn và thất bại đồng nghĩa với sự tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế. Vì vậy, năng lực cạnh tranh trở thành yếu tố quyết định vị trí của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Có được năng lực cạnh tranh càng cao thì nền kinh tế càng phát triển và ngược lại. 1 Vũ Khoan. "Hội nhập để phát triển". Tạp chí Cộng sản số đặc biệt + 2/2002. tr.21 Một điều đáng nói nữa là khả năng cạnh tranh quốc gia luôn thay đổi. Trong các Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của WEF, Singapore đứng vị trí số 1 trong suốt 3 năm 1998, 1999, 2000 số 2 năm 2001 nhưng lại xuống thứ 10 năm 2002. Hà Lan có vị trí 12 năm 1998, lên 7 năm 1999, xuống 9 năm 2000 song lại vươn lên thứ 3 năm 2002. 2 ví dụ trên chứng tỏ năng lực cạnh tranh cao ở hiện tại không đồng nghĩa với năng lực cạnh tranh cao trong tương lai và ngược lại. Điều này buộc các nền kinh tế không ngừng nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nỗ lực của Việt Nam phải lớn hơn nỗ lực của những nước khác rất nhiều vì sức cạnh tranh của nước ta từ trước đến nay rất thấp. Năm 1986, khi đường lối mở cửa bắt đầu đi vào thực tiễn, Việt Nam bên trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, bên ngoài bị cô lập cao độ. Một nền kinh tế sản xuất không đủ tiêu dùng, thu không đủ chi, xuất khẩu chỉ bằng 20 - 40% nhập khẩu, lạm phát lên đến 774,7%... làm sao có được khả năng cạnh tranh cao. Hơn 15 năm đã qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn về kinh tế, nhưng vẫn chưa thoát khỏi nhóm nước nghèo nhất thế giới và luôn đứng tốp cuối ở từng tiêu chí cũng như ở bảng xếp hạng khả năng cạnh tranh. Từ số liệu ở bảng dưới, có thể thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp và đang có xu hướng tụt hậu. . Kể từ năm 1997, WEF đưa Việt Nam vào danh sách các nước được xếp hạng. Tuy nhiên, có thể thấy vị trí của nước ta chưa bao giờ thoát khỏi nhóm 20 nước cuối bảng. Về khả năng cạnh tranh kinh tế vi mô, cũng là khả năng cạnh tranh hiện tại, năm 1997, Việt Nam là 1 trong 5 nước có sức cạnh tranh thấp nhất. Năm 1998, nước ta vươn lên 43/53, nhưng là do nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lâm vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Vị trí này từ đó đến năm 2001 liên tục giảm khi các nền kinh tế bị khủng hoảng nhanh chóng cải cách và hồi phục, khiến năng lực chậm được cải thiện của Việt Nam tiếp tục suy yếu trong tương quan so sánh: năm 1999 xuống 7 bậc so với năm 1998, đứng thứ 50; năm 2000 xuống 3 bậc, bị loại khỏi 50 nước; và năm 2001, xuống 9 bậc, xếp vị trí 62. Và năm 2002, tỡnh hỡnh cú khả quan hơn khi Việt Nam tiến lên hai bậc, đứng thứ 60. Tuy nhiên, về khả năng cạnh tranh tăng trưởng, tức khả năng cạnh tranh trong 5 đến 8 năm tới, vị trí của Việt Nam vị trớ của Việt Nam lại suy giảm, khi từ 60 xuống 65. Bảng 1 : Khả năng cạnh tranh của Việt Nam theo các Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu Năm Vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng 1998 1999 2000 2001 2002 43 50 53 62 60 53 53 59 75 75 khả năng cạnh tranh Số nước được xếp hạng Nguồn http://www.vnn.vn Vị trí của Việt Nam thấp do hầu hết các chỉ số thành phần đều thấp. Các chỉ số thấp nhất của Việt Nam là 74 (công nghệ thông tin), 68 (công nghệ và tham nhũng), 67 (chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp)... Trong năm 2002, theo bảng đánh giá mức độ tham nhũng của TI (Transparency International), Việt Nam thuộc nhóm 11 trong số 99 nhóm và tình trạng tham nhũng đã vượt Thái Lan (nhóm 16), Trung Quốc (nhóm 18) và Philippines (nhóm 20). [3][12][17] Năm 2002, khả năng cạnh tranh hiện tại (current competitiveness index) của Việt Nam là 62/75, nhưng hoạt động và chiến lược doanh nghiệp và chất lượng môi trường kinh doanh đều chỉ đứng 64/75. Cũng trong năm này, PERC xếp Việt Nam đứng cuối bảng về mức độ công khai minh bạch trong hoạt động tài chính với số điểm 9,63/10 [12]. Với sức cạnh tranh yếu kém toàn diện như vậy, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đất nước không trở thành nơi khai thác tài nguyên thiên nhiên và là thị trường tiêu thụ cho các quốc gia khác, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề tất yếu, có tầm quan trọng hàng đầu ở Việt Nam. II. KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 1. Tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển doanh nghiệp Nhà nước DNNN được hình thành và tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, tuy tỷ trọng có khác nhau giữa các nước. Thực tế đó chỉ ra rằng, sự hình thành và phát triển của các DNNN không phải do ý chí chủ quan của một quốc gia, một tổ chức hay một cá nhân nào mà do những yếu tố khách quan quy định. Các yếu tố đó bao gồm: sự gia tăng vai trò của nhà nước như một thực thể kinh tế, sự cần thiết phải khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường, vai trò dẫn dắt và định hướng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp… Như vậy, tất yếu khách quan của DNNN thể hiện trên các mặt sau: Một là, DNNN là công cụ để khắc phục những khuyết tật này của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường với đặc trưng chủ yếu là tự do kinh tế, tự do cạnh tranh với mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận. Do đó, kinh tế thị trường chứa đựng nhiều khuyết tật cố hữu như: tác động của chu kỳ kinh doanh dẫn đến khủng hoảng; cạnh tranh là động lực phát triển trong kinh tế thị trường nhưng đồng thời cũng gây ra sự đổ vỡ. Mặt khác, trong thực tế cuộc sống, luôn có một số hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc không muốn làm, còn trách nhiệm của nhà nước thì không thể để xã hội thiếu sản phẩm hoặc dịch vụ. Khu vực tư nhân không được phép làm có nghĩa là bị nhà nước cấm. Có nhiều lý do cấm cụ thể. Song lý do chung nhất là, sự nguy hiểm, khó kiểm soát của việc sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đó, nếu để khu vực tư nhân làm. Chẳng hạn, việc trồng cây thuốc phiện để làm dược liệu cho bào chế thuốc bệnh, việc sản xuất vũ khí cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc… Những sản phẩm này rất cần cho xã hội, nhưng nếu giao cho khu vực tư nhân sản xuất sẽ gây nguy hại cho xã hội. Khu vực tư nhân không làm được có nghĩa là do tư nhân non gan, kém ý chí, thiếu hiểu biết, thiếu phương tiện và nguồn lực để đầu tư. Khu vực tư nhân không muốn làm có nghĩa là, việc sản xuất của các sản phẩm nào đó không mang lại lợi nhuận đủ sức hấp dẫn họ. Nhà nước không thể để cho xã hội thiếu sản phẩm và dịch vụ là vì, việc thiếu hàng hoá, dịch vụ có thể gây nên các bất ổn về chính trị – xã hội. Hai là, DNNN là một công cụ kinh tế quan trọng của nhà nước để thực hiện các tác động quản lý đối với nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung. Trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, nhà nước luôn là một thực thể kinh tế – chính trị quan trọng. Thực tế ở nhiều nước chỉ ra rằng, sự thành công hay thất bại, tăng trưởng hay suy thoái, giàu hay nghèo đều tìm thấy nguyên nhân ở quản lý nhà nước và vai trò của nhà nước. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, quan hệ xã hội trong kinh tế nói riêng, nhà nước có thể dùng phương pháp cưỡng chế, phương pháp tuyên truyền, thuyết phục và phương pháp kinh tế. Mỗi phương pháp trên có lợi thế riêng của nó và chỉ có thể áp dụng được trong những điều kiện nhất định. Đồng thời, để áp dụng được mỗi phương pháp đó, Nhà nước phải chuẩn bị những phương tiện tương ứng. Chẳng hạn, để cưỡng chế bằng pháp luật cần phải làm luật và xây dựng lực lượng bảo vệ pháp luật. Để tuyên truyền, thuyết phục phải xây dựng nội dung và hệ thống cơ quan, hệ thống phương tiện truyền thông. Cũng như vậy, để kích thích kinh tế, Nhà nước phải có hệ thống các đòn bảy kinh tế. Một trong những đòn bảy phải có là DNNN. Vì thế mọi nước đều xây dựng một số DNNN nhất định, tuỳ môi trường và đối tượng quản lý của mỗi nước. DNNN là một công cụ kinh tế rất đặc biệt. Để có thực lực vật chất điều tiết nền kinh tế quốc dân, nhà nước có thể dùng vật tư dự trữ quốc gia. Chẳng hạn, dùng dự trữ quốc gia để bán phá giá đầu cơ. Tuy nhiên, có một số hàng hoá không thể dự trữ được, như điện năng, nước sạch và tất cả các loại dịch vụ. Khi đó, chỉ có DNNN mới có thể đáp ứng được. Ba là, sự hình thành và tồn tại của DNNN ở nhiều nước như là một bộ phận kinh tế có vai trò định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế hỗn hợp gồm nhiều thành phần tham gia, cùng kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật, kinh tế nhà nước chỉ là một bộ phận. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì "kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các thành phần kinh tế khác" [17, tr.27]. Như vậy, trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế nhiều thành phần, DNNN có vai trò quan trọng là bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước. Đối với các nước đang phát triển, để thực hiện chiến lược tăng tốc, tạo dựng cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN, nhà nước tất yếu phải lựa chọn giải pháp phát triển các DNNN, tăng cường kinh tế nhà nước. Việc lựa chọn này không mang tính chủ quan, mà là một tất yếu lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đang ở trình độ kinh tế chậm phát triển. Đối với những nước này việc phát triển DNNN không chỉ là việc tập trung tư bản xã hội trong bước đầu phát triển kinh tế quốc dân mà còn có lợi thế hơn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại. Ngoài ra, DNNN còn trở thành "đối tác chính để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động liên doanh, liên kết" [17, tr.27-28] Bốn là, sự hình thành và phát triển DNNN như là một hình thức xã hội hoá sản xuất về mặt sở hữu. Sở hữu là một phạm trù kinh tế, nó vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm đối với lực lượng sản xuất và suy cho cùng là đối với nền kinh tế của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử, tất yếu và khách quan. Trong các loại hình sở hữu thì sở hữu nhà nước có những đặc điểm mang tính quy luật của quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Sở hữu nhà nước tuy mang tính đặc thù của mỗi chế độ chính trị – xã hội, nhưng nó có trình độ xã hội hoá cao hơn sở hữu tư nhân. Như vậy, sự ra đời và phát triển của DNNN – một bộ phận của sở hữu nhà nước, là sản phẩm tất yếu của việc xã hội hoá sản xuất kể cả ở các nước đang phát triển và các nước phát triển, cũng như các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa. Năm là, ở các nước theo định hướng XHCN, việc hình thành các DNNN là tất yếu khách quan nhằm định hướng nền kinh tế theo mục tiêu đã chọn, đồng thời góp phần làm cho kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước Trong các tài liệu về kinh tế, có nhiều quan niệm khác nhau về DNNN. Các quan niệm đó đều dựa trên các tiêu chí như sở hữu, mục đích hoạt động, cơ cấu tổ chức và hình thức hoạt động của doanh nghiệp, tuy vậy khái niệm về DNNN trên thế giới cũng được hiểu không thống nhất. Cùng tiêu chí xác định doanh nghiệp như nhau nhưng có nước gọi là DNNN, song nước khác lại cho đó là doanh nghiệp tư nhân. Mỗi khái niệm nhấn mạnh một số tiêu chí nhất định. Tuy nhiên, cũng có thể tìm thấy những tiêu chí chung trong các định nghĩa của một số học giả như Johansen, Malcolm Gillis, Hanson, Ramanadham, Lintner, Short, Aharoni và một số tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới. Trong các quan niệm về DNNN nêu trên thì quan niệm của Malcolm Gillis và Ramanadham được coi là phù hợp hơn với bản chất của DNNN và nó mang tính phổ biến. Điều đó được giải thích bởi các lý do sau: Theo quan niệm của Malcolm Gillis thì DNNN được xác định theo 3 tiêu chuẩn sau: i) Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp, hoặc nếu không thì Chính phủ có thể thực hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp theo đuổi và bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản lý doanh nghiệp ii) Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ bán cho công chúng, hoặc cho các doanh nghiệp tư nhân hoặc DNNN khác. iii) Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp thiếu điều kiện thứ nhất thì doanh nghiệp đó là doanh nghiệp tư nhân. Thiếu hoặc điều kiện thứ 2 hoặc điều kiện thứ 3 thì một tổ chức của Chính phủ không được coi là DNNN, mà được coi là cơ quan công cộng. [17]. Theo V.V Ramanadham, DNNN là một tổ chức trong đó kết hợp những yếu tố "công ích" và những yếu tố "doanh nghiệp" [24]. i) Những yếu tố công ích là: - Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức Nhà nước đảm nhận. Tiêu chí quan trọng trong các quyết định không chỉ là kết quả tài chính. - Lợi nhuận là của công chức không thuộc một nhóm tư nhân nào. - Doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước xã hội. Điều đó không có nghĩa đơn giản chỉ là các nhà quản lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước quyết định của họ, mà doanh nghiệp nói chung phải chịu trách nhiệm trước xã hội. ii) Những yếu tố "doanh nghiệp" là: - Doanh nghiệp có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường. - Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí, yêu cầu này xuất phát từ đòi hỏi giá của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phải bù đắp được chi phí sản xuất kinh doanh. Khả năng tồn tại về mặt tài chính và mối quan hệ giá cả - chi phí là những yếu tố phân biệt DNNN với các hoạt động công ích, ví dụ hoạt động an ninh, quốc phòng, giáo dục, y tế… Theo các định nghĩa trên, DNNN được xác định dựa trên những tiêu chí chung như quyền sở hữu, quyền kiểm soát của nhà nước, khả năng tồn tại trên thị trường, mục tiêu, mức độ tự chủ tài chính, quan hệ giá cả - chi phí. Tuy nhiên, ranh giới xác định doanh nghiệp nào là DNNN chưa thống nhất. Ví dụ, tiêu chí về quyến sở hữu của nhà nước trong DNNN rất khác nhau giữa các quốc gia. Đối với Úc và Tây Ban Nha, DNNN là doanh nghiệp mà nhà nước nắm quyền sở hữu trên 50% tài sản, ở Italia là 25%, Malaysia là 20%, Hàn Quốc là 10% [19]. Liên hiệp quốc đưa ra khái niệm về DNNN như sau: " Những xí nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của xí nghiệp" [20]. Trong khi đó theo luật công ty (1994) của Trung Quốc, DNNN là doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần khống chế từ 35% trở lên [23]. Như vậy, nhà nước không cần nắm giữ tỷ lệ vốn sở hữu lớn trong DNNN mà điều quan trọng là khả năng khống chế của nhà nước đối với doanh nghiệp. Điều này cũng thống nhất với quan điểm của Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc coi vai trò chủ đạo của "kinh tế quốc hữu… chủ yếu thể hiện ở sức mạnh khống chế của nó" [10, tr.39]. Như vậy, DNNN tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và các doanh nghiệp này được sử dụng như một công cụ để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Quan niệm về DNNN ở các nước không giống nhau, nhưng vẫn có điểm thống nhất chung, đó là căn cứ sở hữu và quyền chi phối đối với doanh nghiệp để phân biệt DNNN với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ở Việt Nam, quan niệm về DNNN có sự thay đổi trong từng thời kỳ. Theo Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định 50/HĐBT ngày 22/3/1988 và Quy chế về thành lập, giải thể DNNN ban hành kèm Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 thì DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước trực tiếp thành lập, tổ chức quản lý và điều hành hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của Nhà nước. Việc thành lập các DNNN do cơ quan nhà nước đề nghị và trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập. Quan niệm về DNNN như vậy vẫn dựa trên tiêu chí sở hữu 100% vốn nhà nước và thể hiện sự can thiệp trực tiếp và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp. Theo luật DNNN do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 20/1/1995, DNNN là "tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao, DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý [18, tr.1]. Nhìn chung, quan niệm về DNNN trong Luật cơ bản vẫn như đã quy định trong các văn bản pháp lý nêu trên. Điểm khác biệt và tiến bộ là ở chỗ Luật này đã xác định rõ tư cách pháp nhân và trách nhiệm pháp lý hữu hạn của DNNN. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá IX) thì quan niệm về DNNN có đổi mới và được phát triển thêm một bước quan trọng. Theo đó, DNNN không chỉ do Nhà nước nắm giữ 100% vốn mà còn bao gồm cả doanh nghiệp do Nhà nước chiếm cổ phần chi phối" [19, tr.6]. Ngoài ra, DNNN không nhất thiết do Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN trong phần vốn góp của mình. Từ những phân tích trên có thể rút ra DNNN là doanh nghiệp do nhà nước nắm phần sở hữu khống chế do, chi phối hay quản lý các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện của Việt Nam, DNNN là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn và nắm tỷ lệ vốn khống chế. 3. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường DNNN KHÔNG PHẢI LÀ DOANH NGHIỆP THÔNG THƯỜNG NHƯ CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ KHÁC. DO VẬY, CÂU HỎI THẾ NÀO LÀ MỘT DNNN HOẠT ĐỘNG TỐT, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ, SẼ KHÔNG THỂ TRẢ LỜI ĐƯỢC, KHÔNG THỂ CÓ CÂU TRẢ LỜI LÀM VỪA Ý MỌI NGƯỜI, NẾU KHÔNG ĐỨNG TRÊN CÙNG MỘT XUẤT PHÁT ĐIỂM ĐÁNH GIÁ. MỘT TRONG NHỮNG CƠ SỞ XUẤT PHÁT ĐIỂM ĐÓ LÀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 3.1 Vị trí của DNNN DNNN có vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Vị trí đó được xét trong ba mối quan hệ sau: Một là, DNNN trong mối quan hệ với chính sách, chiến lược phát triển kinh tế,. DNNN là lực lượng trực tiếp tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong mối quan hệ này vị trí của DNNN có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của từng giai đoạn phát triển nhất định. Hai là, tương quan của DNNN trong hệ thống giải pháp, công cụ kinh tế mà nhà nước lựa chọn để điều tiết, thúc đẩy và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Trong mối quan hệ này vị trí của DNNN được xem như là công cụ (trực tiếp hay gián tiếp) để điều tiết và thúc đẩy kinh tế. Ba là, tương quan giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế hỗn hợp. Tỷ trọng DNNN phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nước. Đối với các nước phát triển thì số lượng DNNN chiếm tỷ lệ nhất định và hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đối với những nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì DNNN: "giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" [19, tr.6]. Ở Việt Nam, vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN đã có bước chuyển quan trọng từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đó là, việc chuyển đổi khái niệm từ kinh tế quốc doanh sang khái niệm kinh tế nhà nước và tách bạch giữa DNNN với kinh tế nhà nước. Theo đó, DNNN được hiểu là một bộ phận quan trọng trong thành phần kinh tế nhà nước. Bước chuyển về nhận thức này được bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng khoá VII (tháng 1/1994). Trong báo cáo chính trị của Đảng tại Hội nghị này đã khẳng định "Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội cao, vừa tăng cường khả năng thúc đẩy và kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế như: đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước, … giao quyền sử dụng đất lâu dài (đất đai, rừng…); cho thuê, tô nhượng (hầm mỏ), liên doanh; góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác" [13]. Từ phân tích trên đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường việc hình thành sức mạnh của kinh tế nhà nước không chỉ từ các DNNN có 100% vốn Nhà nước mà còn bao gồm các nguồn thu từ vốn góp của Nhà nước vào các doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp và các doanh nghiệp thuần túy sở hữu khác. 3.2 Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường DNNN có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, vai trò của DNNN được thể hiện trên các mặt cụ thể sau: I)VAI TRÒ CỦA KHU VỰC DNNN THỂ HIỆN TRƯỚC HẾT BẰNG BA CHỈ TIÊU SAU: ĐÓNG GÓP VÀO TĂNG TRƯỞNG ĐẤT NƯỚC (CHIẾM TỶ TRỌNG LỚN TRONG TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC - GDP), THU HÚT VỐN, TẠO VIỆC LÀM VÀ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI. NGOÀI RA, TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM, CÁC DNNN CÒN ĐẢM BẢO CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ SỞ HẠ TẦNG, DỊCH VỤ XÃ HỘI NGÀY MỘT TỐT HƠN; CUNG ỨNG HÀNG HOÁ, VẬT TƯ, NĂNG LƯỢNG CHỦ YẾU CHO NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN NHƯ ĐIỆN, SẮT THÉP, XI MĂNG, PHÂN BÓN, XĂNG DẦU, GIẤY VIẾT … ĐỒNG THỜI, LÀ LỰC LƯỢNG CHỦ LỰC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THÔNG QUA CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG ÍCH. DNNN LÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY PHÂN BỐ LẠI NGUỒN LỰC, NHẤT LÀ NGUỒN VỐN VÀ NGUỒN NHÂN LỰC THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆC HÌNH THÀNH CÁC TRUNG TÂM KINH TẾ, VĂN HOÁ, ĐÔ THỊ MỚI. II)DNNN GIỮ VAI TRÒ QUAN TRỌNG CHI PHỐI NHỮNG NGÀNH, LĨNH VỰC VÀ SẢN PHẨM THEN CHỐT CỦA NỀN KINH TẾ. DNNN BẢO ĐẢM HẦU HẾT YÊU CẦU SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ CÔNG ÍCH, CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO THÔNG, ĐIỆN, NƯỚC, THÔNG TIN, VẬT TƯ, HÀNG HÓA CHO XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC. III)DNNN LÀ LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT TRONG TĂNG TRƯỞNG, XUẤT KHẨU, BẢO ĐẢM CÁC SẢN PHẨM QUAN TRỌNG CỦA NỀN KINH TẾ VÀ ĐÓNG GÓP CHO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC; GÓP PHẦN QUAN TRỌNG BẢO ĐẢM CÁC CÂN ĐỐI LỚN VÀ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ. IV)CÁC DNNN LÀ NGƯỜI CUNG CẤP CÁC SẢN PHẨM CHỦ YẾU (CÁC HÀNG CÔNG NGHIỆP VÀ TIÊU DÙNG, TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ CÁC DỊCH VỤ …) CHO NHU CẦU TRONG NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU. V)CÁC DNNN LÀ ĐIỂM TỰA VÀ CÔNG CỤ QUAN TRỌNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ, KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. DNNN LÀ LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH ĐỂ NHÀ NƯỚC BỔ SUNG THỊ TRƯỜNG NHỮNG HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ CẦN THIẾT. NHÀ NƯỚC SỬ DỤNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ XUNG KÍCH CỦA DNNN KHI NÀO LÀ LÚC CẦN THIẾT? ĐÓ LÀ KHI, KHU VỰC TƯ NHÂN KHÔNG LÀM ĐƯỢC HOẶC KHÔNG MUỐN LÀM, NHƯ ĐÃ PHÂN TÍCH Ở TRÊN. CHỨC NĂNG NÀY ĐƯỢC CÁC DNNN THỰC HIỆN THÔNG QUA VIỆC CHÚNG CUNG CẤP NHỮNG HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ THEO CHỦ TRƯƠNG, KẾ HOẠCH CỦA NHÀ NƯỚC (CẦU) ĐỂ NHẰM VÀO CÁC KHOẢNG TRỐNG CỦA THỊ TRƯỜNG (CUNG). TRONG VIỆC ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC PHẢI SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP VĨ MÔ NHƯ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH, CHÍNH SÁCH THUẾ, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ… MẶT KHÁC, NHÀ NƯỚC CŨNG PHẢI DỰA VÀO DNNN ĐỂ KHỞI ĐỘNG, PHỤC HỒI KINH TẾ HOẶC KÌM HÃM LẠM PHÁT. THÍ DỤ, KHI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VẬT VỜ, UỂ OẢI, NHÀ NƯỚC SẼ ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP VĨ MÔ NHẰM KÍCH THÍCH NHU CẦU. NHƯNG DO LÃI SUẤT ÍT HOẶC THU HỒI VỐN CHẬM, NÓI CHUNG CÁC DOANH NGHIỆP KHÔNG MUỐN ĐẦU TƯ. DO VẬY, NHÀ NƯỚC PHẢI DỰA VÀO CÁC DNNN ĐỂ TĂNG NHU CẦU ĐẦU TƯ, TỪ ĐÓ THÚC ĐẨY TĂNG NHU CẦU. VI) DNNN LÀ NHỮNG CƠ SỞ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG VIỆC ĐẦU TƯ, ỨNG DỤNG NHỮNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ; THỰC HIỆN HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC. ĐIỀU ĐÓ THỂ HIỆN TRƯỚC HẾT BỞI SỰ CẤT CÁNH KINH TẾ CỦA MỖI QUỐC GIA KHÔNG THỂ THIẾU CÁC NGÀNH HẠ TẦNG VÀ KHÔNG THỂ KHÔNG XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH HẠ TẦNG, MÀ VIỆC XÂY DỰNG NÀY THƯỜNG ĐÒI HỎI NHỮNG KHOẢN ĐẦU TƯ LỚN, RỦI RO CAO, THU HỒI VỐN CHẬM, HIỆU QỦA XÃ HỘI RỘNG LỚN. DO VẬY, NHỮNG DOANH NGHIỆP BÌNH THƯỜNG KHÔNG ĐỦ SỨC LÀM VÀ CŨNG KHÔNG MUỐN LÀM [2, TR.30-31]. THỨ NỮA LÀ, TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NGÀY NAY KHOA HỌC – KỸ THUẬT ĐÓNG VAI TRÒ THEN CHỐT. CÁC DNNN MỚI CÓ CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT VÀ NGUỒN LỰC ĐỂ CÓ KHẢ NĂNG CHUYỂN HOÁ THÀNH TỰU KHOA HỌC – KỸ THUẬT THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN THỰC. TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM, VAI TRÒ DNNN CÒN THỂ HIỆN Ở VIỆC ĐỊNH HƯỚNG, DẪN DẮT CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ KHÁC "GIỮ NHỮNG VỊ TRÍ THEN CHỐT, ĐI ĐẦU ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ; NÊU GƯƠNG VỀ NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT" [15, TR.96] BỞI LẼ DNNN CÓ MỘT VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ QUAN TRỌNG NHƯ VẬY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ, ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ, VIỆC CẢI CÁCH CÁC DNNN NHẰM NÂNG CAO KHẢ CẠNH TRANH LÀ MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU. CHƯƠNG II CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM I. QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH DNNN 1. Các biện pháp đã được triển khai thực hiện 1.1 Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN Từ kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và của các nước trên thế giới cho thấy việc đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN có vai trò hết sức quan trọng tới hiệu quả hoạt động của DNNN. Điều đó lý giải vì sao trong khoảng thời gian hơn 10 năm thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành trên 200 văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về vấn đề DNNN gồm: các nghị quyết, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư… nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho DNNN hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những văn bản pháp lý được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn và vướng mắc trong thực thi cơ chế, chính sách để tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tạo điều kiện cho DNNN phát huy tiềm năng và lợi thế sẵn có để nâng cao năng lực sản xuất, tăng sức cạnh tranh và hội nhập có kết quả vào kinh tế khu vực và quốc tế. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khóa VI) năm 1987 về chuyển hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, Chính phủ đã có nhiều biện pháp quan trọng về đổi mới DNNN. Khởi đầu là Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 về việc thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các DNNN. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành một số văn bản như Nghị định số 50/HĐBT ngày 23/3/1988 ban hành Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị định 98/HĐBT ngày 2/6/1988 ban hành Quy định về quyền làm chủ tập thể lao động tại xí nghiệp, Nghị định 27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí nghiệp… Năm 1990, Nhà nước thực hiện thí điểm trao quyền quản lý và sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn vốn cho DNNN. Đến năm 1991, mở rộng việc giao vốn nhà nước và quy định trách nhiệm bảo toàn vốn của DNNN. Trong thời kỳ này, Nhà nước đã chuyển từ phương pháp quản lý trực tiếp bằng việc đầu tư vốn và tài sản ở DNNN sang hình thức giao cho tập thể cán bộ công nhân viên chức và giám đốc doanh nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng để sản xuất kinh doanh. Tại Nghị định 196/HĐBT ngày 11/12/1988 và Nghị định 15/CP ngày 2/3/1993, Chính phủ đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các bộ trên lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng giảm bớt chức năng chủ quản của bộ. Theo đó các bộ chỉ có 4 nhiệm vụ là: quyết định thành lập, tách nhập, giải thể DNNN; giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho DNNN, bổ nhiệm giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp; kiểm soát hoạt động kinh doanh của DNNN. Để hoàn chỉnh hơn khung pháp lý cho DNNN hoạt động, trong thời gian từ 1988 đến 1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã công bố Pháp lệnh Kế toán thống kê ngày 29/9/1989, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 28/9/1989, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế ngày 12/01/1990. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã khẳng định: "Nhà nước quản lý nền kinh tế nhiều thành phần bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác". Việc thực hiện quản lý kinh tế bằng pháp luật cũng được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995 là một cơ sở pháp lý quan trọng, quy định: "DNNN là thực thể pháp nhân độc lập, tạo điều kiện cho các DNNN hoạt động có hiệu quả và thực hiện các mục tiêu do Nhà nước giao" [10]. Luật DNNN ra đời là sự chuyển đổi quan trọng trong quản lý hoạt động của DNNN, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết và khẳng định nhiều vấn đề có liên quan trong quan hệ giữa DNNN với Nhà nước. Luật này đã chỉ rõ quan niệm DNNN; phân định rõ DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh và DNNN hoạt động công ích; quyền tự chủ của DNNN; nghĩa vụ của DNNN đối với Nhà nước; định hướng phát triển khu vực DNNN; phân định quyền của cơ quan quản lý nhà nước và quyền của DNNN. Bộ Tài chính được giao quyền và chịu trách nhiệm quản lý tài sản nhà nước tại DNNN. Chủ trương thành lập các Tổng công ty nhà nước có quy mô quốc gia không trực thuộc Bộ, ngành chủ quản là nhằm xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản đối với DNNN. Tiếp theo Luật DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 27/1999/NĐ - CP ngày 20/4/1999) ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN chất lượng quản lý tài chính của DNNN được tăng cường theo hướng: - Nhà nước chuyển từ hình thức cấp vốn (vốn cố định và vốn lưu động) sang hình thức giao vốn cho DNNN và chuyển hình thức định mức vốn cho từng doanh nghiệp sang hình thức xác định vốn điều lệ cho DNNN. - DNNN được quyền sử dụng vốn, quỹ và thay đổi cơ cấu vốn, tài sản để phục vụ phát triển kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn; được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp không thuộc sở hữu của Nhà nước); được quyền huy động vốn dưới các hình thức: phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay vốn, nhận vốn, góp vốn liên kết và các hình thức khác nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của DNNN; áp dụng việc mua bảo hiểm tài sản trong DNNN; hạch toán vào chi phí kinh doanh để hình thành quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản thu khó đòi, dự phòng các khoản giảm giá giữa đồng tiền Việt Nam so với ngoại tệ… thực hiện chế độ trích lập quỹ dự trữ tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm trong các DNNN. Khuyến khích thực hiện khấu hao nhanh để các DNNN có điều kiện hiện đại hoá và nhanh chóng đổi mới công nghệ. DNNN được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố, nhượng bán tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp để phục vụ cho kinh doanh và thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong giá thành sản phẩm, ngoài các khoản trích lập quỹ dự phòng như đã nói ở trên thì DNNN còn được chi trợ cấp thôi việc cho người lao động, tiền thuê đất hoặc thuế sử dụng đất, chi cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại cho các hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp đặc biệt DNNN thua lỗ thì ngân sách nhà nước không cấp bù như trước đây mà doanh nghiệp phải lấy lãi của các kỳ kế tiếp đó để bù lỗ. Việc phân phối thu nhập của DNNN cũng đã thay đổi theo nguyên tắc gắn hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và hài hoà giữa quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Ngày 31/12/1994 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động làm căn cứ pháp lý trong sử dụng lao động. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định về hợp đồng lao động, theo đó chuyển việc sử dụng lao động từ hình thức biên chế vĩnh viễn sang hình thức hợp đồng lao động; quy định nghĩa vụ, quyền lợi của doanh nghiệp, của người lao động trong việc chấm dứt hợp đồng lao động cũng như mất việc làm; về thoả ước lao động tập thể; về mức lương tối thiểu, hệ thống thang bảng lương, chế độ trả lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp và một số quy định khác có liên quan đến tiền lương của người lao động; về chế độ bảo hiểm xã hội; về an toàn lao động, vệ sinh lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. 1.2 Sắp xếp, tổ chức lại các DNNN Sắp xếp và tổ chức lại các DNNN được tiến hành trên cơ sở phân loại DNNN, thu gọn đầu mối, loại bỏ các DNNN làm ăn không hiệu quả, tổ chức lại các tổng công ty nhà nước nhằm chấn chỉnh và xây dựng khu vực DNNN hoạt động có hiệu quả, đảm nhiệm được vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các biện pháp này thực hiện như sau: A) PHÂN LOẠI VÀ SẮP XẾP LẠI DNNN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN TRÊN CƠ SỞ THU GỌN ĐẦU MỐI, ĐỔI MỚI CƠ CẤU DNNN, NHÀ NƯỚC ĐÃ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUAN TRỌNG SAU: NGÀY 01/9/4990 HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG ĐÃ BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH 315/HĐBT YÊU CẦU CÁC DNNN PHẢI RA SOÁT LẠI CHỨC NĂNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH, RA SOÁT LẠI CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT KINH DOANH (VỐN, CÔNG NGHỆ, THỊ TRƯỜNG, TỔ CHỨC LAO ĐỘNG, TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, SOÁT XÉT LẠI TÌNH TRẠNG TÀI CHÍNH DNNN, VIỆC CHẤP HÀNH KỶ LUẬT TÀI CHÍNH, KẾ TOÁN, THỐNG KÊ). NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN TIẾP LỖ TRONG THỜI GIAN DÀI DO KHÔNG TIÊU THỤ ĐƯỢC SẢN PHẨM, KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC NHIỆM VỤ KINH DOANH, KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG THANH TOÁN VÀ KHÔNG THỂ KHẮC PHỤC ĐƯỢC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP NHƯ CHUYỂN HƯỚNG SẢN XUẤT, THAY ĐỔI MẶT HÀNG, ĐẦU TƯ TRANG BỊ LẠI, CŨNG NHƯ CÁC BIỆN PHÁP VỀ CHẤN CHỈNH VÀ TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT KINH DOANH VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CẤP TRÊN… CÓ THỂ BỊ TUYÊN BỐ GIẢI THỂ. NGÀY 20/11/1991 HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT QUY ĐỊNH VIỆC THÀNH LẬP, ĐĂNG KÍ, GIẢI THỂ DNNN NHẰM LOẠI BỎ NHỮNG DNNN ĐÃ THÀNH LẬP MỘT CÁCH TRÀN LAN, Ồ ẠT TRONG NHỮNG NĂM TRƯỚC ĐÓ. CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH PHỦ NHƯ BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ, BỘ TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM, BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐÃ BAN HÀNH NHIỀU THÔNG TƯ HƯỚNG DẪN VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT LÀ MỘT CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC SẮP XẾP DNNN. ĐÂY LÀ LẦN ĐẦU TIÊN QUY ĐỊNH CÁC ĐIỀU KIỆN TỐI
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan