1 Luận văn Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay 2 Mở đầu 1. Tính cấp thiết
của đề tài Bảo hiểm xã hội là một chính sách trong những nội dung của hệ thống
tài chính Nhà nước nhằm góp phần thực hiện ổn định kinh tế - xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống người lao động. Cùng với các nội dung nhiệm vụ và chính sách
kinh tế Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến công tác bảo hiểm xã hội
(BHXH). Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã
hội nói riêng đã có bước phát triển khá, tăng nguồn thu quỹ BHXH hàng năm để sử
dụng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời BHXH góp phần đảm
bảo chi cho các đối tượng được hưởng chính sách, không ngừng nâng cao đời
sống, ổn định kinh tế - xã hội. Những năm qua cùng với quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, các thành phần kinh tế trong nước phát triển
cả về số lượng và chất lượng, công tác BHXH càng có cơ hội tạo địa bàn hoạt
động, tăng nguồn thu, mở rộng đối tượng thu không những trong khu vực kinh tế
Nhà nước mà lan tỏa sang các thành phần kinh tế khác. Nhận thức của nhân dân về
bảo hiểm và BHXH ngày càng cao, ý thức chấp hành ngày càng tốt, hoạt động
BHXH ngày càng phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách
BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Bước vào thời kỳ đổi
mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật lao động và Điều lệ BHXH nhằm thống
nhất thực hiện BHXH trong phạm vi toàn quốc đối với mọi người lao động. Từ
tháng 7 năm 1995, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động và độc lập với ngân sách nhà nước. Hướng phát
triển sẽ trở thành nguồn tài chính chủ yếu bảo đảm cho các nhu cầu hoạt 3 động và
chi trả cho các đối tượng của BHXH trong tương lai. Khác với các loại hình bảo
hiểm khác, quỹ BHXH được Nhà nước bảo trợ để bảo đảm ổn định và tăng trưởng
quỹ. Ninh Bình là một tỉnh được tái lập từ năm 1992, công tác BHXH được đặc
biệt quan tâm. Từ đó đến nay hoạt động thu - chi, đảm bảo chính sách cho đối
tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng khá. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi
mới, BHXH chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh. Đặc biệt từ khi có quyết định
20/TTg/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc sát nhập Bảo hiểm Y tế vào BHXH,
mặc dù đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng nhiều vấn đề phát sinh bên cạnh
đó gây bức xúc trong đời sống xã hội. Để có đánh giá khách quan, khoa học về
BHXH nói chung và BHXH ở tỉnh Ninh Bình, vấn đề “Bảo hiểm xó hội ở tỉnh
Ninh Bình hiện nay” được chọn làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. Nhằm góp
phần sáng tỏ hơn về mặt lý luận, đánh giá khách quan khoa học về bảo hiểm Ninh
Bình hiện nay. Từ đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả đối với loại hình này. 2.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn ở nước ta trong những năm gần đây
đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về BHXH nhằm phân tích những ưu điểm
và hạn chế của chính sách, chế độ và đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách
BHXH đã được nhiều cơ quan, các bộ ngành BHXH thực hiện, cụ thể: - Đỗ Văn
Sinh: “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học
Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. Luận án đề xuất những giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý quỹ Bảo hiểm Việt Nam. - Đặng Ngọc Liên: “ Quản lý
thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân tại Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2004. Luận văn nghiên cứu BHXH dưới góc độ
quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà Nội, thời gian 1997 - 2004 và các giải pháp để
nâng cao hiệu quả quản lý thu bảo hiểm. 4 - Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến: “góp
phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”, sách
tham khảo, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1996. Tác giả đề xuất những giải pháp
góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm ở nước ta hiện nay. - Bảo
hiểm xã hội Việt Nam: “Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo nghị
định 01/2003/NĐ - CP”. Các tác giả đã đề xuất lộ trình mở rộng đối tượng tham
gia BHXH. - Phạm Duy Đỉnh: Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”. Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn
nêu rõ dịch vụ BHXH là một loại hình dịch vụ đặc thù. Những thành công phát
triển dịch vụ BHXH của Hà Nội và đề xuất giải pháp mở rộng dịch vụ trong giai
đoạn đến 2010. - Trần Quang Lâm: “Bảo hiểm Y tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn nêu BHXH Việt Nam, chương trình phát
triển ngành BHXH Việt Nam đến 2010. Chương trình đề cập mục tiêu, quy hoạch
và phương hướng phát triển ngành BHXH Việt Nam trên cơ sở phân tích dự báo
xu hướng phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu đánh giá những vấn
đề BHXH đang đặt ra như quản lý, mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Đề xuất
các giải pháp chi trả bảo hiểm đúng đối tượng, thời gian. Cũng như biện pháp hành
chính, chế tài đối với những đối tượng trốn tránh trách nhiệm BHXH. Tuy nhiên,
vấn đề BHXH ở tỉnh Ninh Bình hiện nay chưa có đề tài trùng lắp. 5 Với đề tài luận
văn này, mong muốn từ thực tiễn việc thực hiện công tác BHXH trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm
thực hiện tốt hơn nữa công tác BHXH đối với người lao động trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. 3.
Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống và hoàn
thiện thêm những vấn đề lý luận về BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. - Phân tích thực trạng thực hiện chính sách BHXH trong thời
gian qua. - Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển BHXH ở Ninh Bình giai đoạn
hiện nay đến 2015 * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Đề tài tập trung nghiên cứu một số
vấn đề lý luận về BHXH, các chế độ chính sách BHXH đang thực hiện ở nước ta
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế. - Phân tích thực trạng của BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
chỉ rõ các thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp thiết
thực, có khả thi nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của BHXH tỉnh Ninh Bình. 4. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu BHXH ở Ninh Bình thể hiện
trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH trên địa bàn các mặt
công tác chủ yếu: - Thu BHXH. - Chi trả các chế độ BHXH. - Công tác giải quyết
chế độ chính sách. - Công tác quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH. - Công tác
khai thác mở rộng đối tượng tham gia BHXH. 6 Các nội dung trên được nghiên
cứu trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 đến nay, đặc biệt các số liệu từ năm
2003 khi có sát nhập bảo hiểm y tế. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta đã đề ra
trong các kỳ Đại hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới kể từ Đại hội VI đến nay về các
lĩnh vực kinh tế, tài chính, xã hội. Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu tổng kết đánh
giá thực trạng, kết hợp lý luận với thực tiễn, thông qua việc phân tích, so sánh các
số liệu thống kê để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu của luận văn. 6. ý nghĩa lý
luận và thực tiễn của đề tài - Làm rõ thêm các khái niệm, phạm trù về bản chất, vai
trò, vị trí của BHXH trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam. Mối
quan hệ giữa BHXH với các loại hình bảo hiểm khác. - Khẳng định sự cần thiết,
vai trò và giải pháp cụ thể của việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong các
thành phần kinh tế trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. - Hệ thống các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về BHXH theo xu hướng phát triển và hội nhập.
Các quan điểm chỉ đạo của tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện BHXH
ở Ninh Bình. - Luận văn là công trình nghiên cứu khá toàn diện về BHXH tại Ninh
Bình sau hơn 10 năm thực hiện chính sách BHXH mới trong cơ chế thị trường.
Đặc biệt từ khi sát nhập bảo hiểm y tế vào BHXH. Từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác BHXH trên địa bàn
tỉnh. 7 - Đây là đề tài nghiên cứu việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh Ninh Bình nhìn dưới góc độ BHXH là một bộ phận của
hệ thống tài chính phục vụ người lao động trong các thành phần kinh tế. Có thể
làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy môn Kinh tế chính trị. 7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội Trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1. Bảo hiểm
xã hội và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội 1.1.1. Bảo hiểm xã hội, vị
trí, vai trò của bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Bảo hiểm và bảo hiểm xã hội Bảo hiểm ra
đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy ra, gây
nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã luôn chú ý phòng tránh nhưng
những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do
thiên nhiên gây ra, do môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, do sự biến động và phát
triển không ngừng của khoa học và công nghệ… Để đối phó với các rủi ro, con
người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu
quả của chúng gây ra. Ví dụ như phòng ngừa và hạn chế tối đa các rủi ro có thể
xảy ra; tự bảo hiểm (tự bỏ ra nguồn tài chính nhất định để bù đắp những thiệt hại
xảy ra với mình trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh);
mua bảo hiểm (đóng một số tiền nhất định cho người quản lý bảo hiểm và người
quản lý bảo 8 hiểm sẽ chịu trách nhiệm về rủi ro). Bảo hiểm là sự chuyển giao rủi
ro trên cơ sở hợp đồng. Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do đòi hỏi khách
quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh. BHXH xuất hiện và phát
triển cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Theo tổ chức
lao động Quốc tế (ILO), Phổ là quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo
hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH bằng luật định. Đồng
thời tổ chức này cũng khuyến nghị quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các
đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ,
khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Theo Công ước số 102, ngày 04 tháng 6
năm 1952 của Tổ chức lao động quốc tế về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,
trong đó quy định 9 chế độ về trợ cấp sau đây: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tuổi già 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ 8. Trợ cấp khi tàn phế 9. Trợ cấp cho
người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) [14, tr.286]. Chín chế độ trên hình
thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước
tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng
ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế
độ (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên
những cơ sở kinh 9 tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương v v... Đồng thời tuỳ
từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân
của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong... Tuy nhiên, cơ sở để xác định
điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ
thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều
kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới
tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của
mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những
nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những
nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi... Hoặc khi xác định điều kiện hưởng trợ
cấp cho chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như:
điều kiện môi trường lao động, bảo hộ lao động,... Các yếu tố này thường có quan
hệ và tác động qua lại với nhau và ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của
từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Thời gian hưởng trợ cấp và
mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời
gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và
hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của
từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao
động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc
tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm
nhất định so với mức tiền công hay tiền lương. ở các nước kinh tế phát triển do
mức lương cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát
triển do mức lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở Pháp
mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức lương cao nhất (với điều kiện đóng BHXH
đủ 37,5 năm), ốm đau được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm
10 được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH
bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ
42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng 65%,
sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương... Tuy
vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lương
hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm
cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ
phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của
mức quy định. Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn
được sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong
hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi
khác... Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư quỹ
BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH
phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm
bảo lợi ích kinh tế - xã hội. Từ những quan niệm, các cách hiểu và các cách tiếp
cận khác nhau ở các nước và các thời kỳ nhất định, vì vậy cho đến nay đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. ở Việt Nam, trong sách “Giáo trình bảo hiểm”
của trường Đại học Kinh tế quốc dân, nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 2005,
khái niệm chung nhất về bảo hiểm được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm là hoạt
động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm
trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham
gia nộp 1 khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba” [45, tr.13]. Định nghĩa
trên mang tính chung nhất của bảo hiểm, nó chỉ rõ việc người tham gia bảo hiểm
chuyển rủi ro cho người bảo hiểm (thường là một tổ chức 11 kinh doanh) thông
qua việc nộp một khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia bảo
hiểm gặp khó khăn dẫn đến tổn thất, cơ quan bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc
bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm đăng ký
với tổ chức bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm thực chất là quá trình phân phối lại thu
nhập giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai
nạn rủi ro gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Điều này thể hiện trong
việc hình thành quỹ bảo hiểm từ sự đóng phí của người tham gia bảo hiểm. Khi
người tham gia bảo hiểm gặp biến cố theo hợp đồng sẽ được quỹ bảo hiểm đền bù
theo thoả thuận. Như vậy, phần thu nhập của nhiều người sẽ được chuyển cho một
người, điều này thể hiện tính nhân văn. Quá trình phân phối lại thu nhập trong bảo
hiểm được thực hiện. Sự phân phối trong bảo hiểm là sự phân phối không đều,
không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân
phối một số tiền bằng nhau. Chỉ có một số ít người tham gia bảo hiểm không may
gặp rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm mới nhận được sự phân phối, cũng có nghĩa
phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng
vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối. Tuy nhiên,
trong các loại hình bảo hiểm, đặc điểm này cũng thể hiện khác nhau. Cụ thể, với đa
số các loại hình BHTM, sự phân phối không mang tính bồi hoàn thể hiện rõ. Ví dụ:
bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tài
sản. bảo hiểm sức khoẻ… phần đông người mua bảo hiểm không được phân phối
vì không gặp biến cố, chỉ có một số ít người được đền bù. Trong một số dịch vụ
bảo hiểm nhân thọ đang thực hiện như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm Đại học, bảo
hiểm khi kết hôn (do hãng bảo hiểm quốc tế Prudential thực hiện) hoặc bảo hiểm
hưu trí trong BHXH, tính chất bồi hoàn trong phân phối thể hiện khá rõ. Trong các
hình thức bảo hiểm này, 12 những người tham gia bảo hiểm hầu hết được bảo hiểm
khi đạt đến các điều kiện do hai bên thoả thuận. Qua sự phân tích trên ta thấy, hoạt
động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc "số đông bù số ít" thể hiện trong qúa trình lập
quỹ dự trữ bảo hiểm cũng như quá trình phân phối bồi thường. Nguyên tắc này còn
thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của
mỗi thành viên. Trong hoạt động kinh tế - xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển được trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để thoả mãn những nhu cầu tối
thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm
tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã
hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn nhu cầu sinh sống và phát
triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong
thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và
mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai
nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già đến khả năng lao động hay khả
năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí
còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám và điều trị khi ốm
đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra
nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong một nội bộ
cộng đồng; đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Rõ ràng,
những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. 13 Khi nền kinh tế hàng
hoá phát triển, việc thuê nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam
kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm cho người làm thuê
có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu cần thiết khi ốm đau,
tai nạn, thai sản… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và
người chủ không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập,
buộc họ một lúc phải bỏ ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn.
Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải thực
hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều
mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và
điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của nhà nước, mặt
khác buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng
được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm
thuê. Số tiền đóng góp của các chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.
Chính những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được
dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn
định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra
bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết các
phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những
mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với
người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, 14 mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm
bảo an toàn xã hội. BHXH là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế
xã hội của Nhà nước; BHXH rất cần cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội, bất luận
là người giàu hay nghèo, người có địa vị cao hay thấp. Xã hội nào có hệ thống
BHXH phát triển mạnh bao nhiêu thì xã hội đó càng phát triển và ổn định bấy
nhiêu, làm cho người lao động yên tâm, phấn khởi, tích cực sản xuất ra nhiều của
cải vật chất cho xã hội. Trên tinh thần ấy, theo từ điển bách khoa Việt Nam
“BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng thông qua việc hình thành và
sử dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp
phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội”. ở nước ta, trước thời ký đổi mới, trên cơ sở hiến
pháp năm 1946 Chính phủ đã ban hành sắc lệnh về các chế độ trợ cấp ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước đó là: Sắc lệnh số
29/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quy định chế độ trợ
cấp cho công nhân; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 và Sắc lệnh số
77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 do Hồ Chủ Tịch ký, quy định thực hiện các chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ công nhân viên chức. Tiếp
theo là Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ
về Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức, Nghị định
số 161/CP ngày 30 tháng 10 năm 1964 của Hội đồng 15 chính phủ về điều lệ đãi
ngộ đối với quân nhân. Đây là văn bản đầu tiên và quan trọng nhất về BHXH ở
nước ta trong thời kỳ này, các văn bản đã quy định rõ đối tượng, phạm vi điều
chỉnh. Quy định các chế độ BHXH gồm 6 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
hay bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. Quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên liên quan trong BHXH. Các chế độ BHXH được thiết lập dựa
trên nguyên tắc phân phối theo lao động, nhằm khuyến khích mọi người tích cực
làm việc đẩy mạnh sản xuất, góp phần ổn định lực lượng lao động trong nền kinh
tế quốc dân. Mức trợ cấp BHXH được căn cứ vào thời gian công tác, tuổi đời, vào
điều kiện làm việc, vào tình trạng suy giảm khả năng lao động. Mức trợ cấp BHXH
gắn chặt với tiền lương và nguyên tắc phải thấp hơn mức tiền lương khi làm việc.
Về tổ chức và quản lý thì Bộ Lao động thương binh và Xã hội quản lý 3 chế độ
mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản thực
hiện 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp. Nghị định
số 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 của Hội đồng bộ trưởng về các chế độ
BHXH được sửa chữa có tính đến các chính sách ưu đãi đối với những người tham
gia trong hai cuộc kháng chiến và những công nhân viên chức làm việc tại những
nơi xa xôi, khó khăn gian khổ và hải đảo. Nghị định số 236/HĐBT bổ sung quy đổi
thời gian công tác theo hệ số. Quyết định số 133/HĐBT ngày 01 tháng 11 năm
1985 của Hội đồng bộ trưởng là nâng tỷ lệ trợ cấp hưu trí lên cao nhất bằng 95%
tiền lương tháng trước khi nghỉ hưu. Chính sách BHXH trong thời kỳ này còn
nhiều hạn chế như: Đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH mới chỉ được
thực hiện đối với công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang, chính sách
BHXH còn đan xen với nhiều chính sách khác như chính sách ưu đãi xã hội, chính
sách dân 16 số, chính sách cán bộ... nguồn tài chính BHXH phụ thuộc chủ yếu vào
ngân sách Nhà nước, quan hệ tài chính Bảo hiểm xã hội chưa được coi trọng như
thu, chi BHXH. Mặc dù vậy, chính sách BHXH trong thời kỳ này đã cụ thể hoá
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của
đất nước thời kỳ này. Trong điều 140 của Bộ luât lao động của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Nhà nước quy định về chính sách BHXH nhằm
từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống
cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp lao động ốm đau, thai sản,
hết tuổi lao động, chết, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm gặp rủi ro
hoặc các khó khăn. Chế độ BHXH là cụ thể hoá những quy định chính sách xã hội
của nhà nước, quy định của các hình thức bảo đảm, những điều kiện về vật chất và
tinh thần cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ khi gặp trường
hợp bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Nhà nước ta coi BHXH là một chính sách
quan trọng xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội. Từ ngày thành lập
BHXH, ngày 26 tháng 1 năm 1995 Chính phủ ban hành điều lệ BHXH kèm theo
nghị định 12/CP đối với người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế và
BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội
nhân dân và công an nhân dân. Điều lệ BHXH bao gồm 5 chế độ cụ thể như sau: Chế độ ốm đau. - Chế độ thai sản. - Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Chế độ hưu trí. - Chế độ tử tuất. 17 Về đối tượng BHXH được áp dụng đối với
người làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế, mở rộng đối tượng đến xã
viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, ngư nghiệp, lao động
tự do… thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách nhà nước, từng bước thực hiện
việc cân đối quỹ BHXH. Quỹ BHXH có 3 nguồn đóng góp là Nhà nước, chủ sử
dụng lao động và người lao động trong đó: + Người lao động đóng góp bằng 5%
tiền lương hàng tháng. + Người chủ sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quĩ
lương của doanh nghiệp. Ngày 12 tháng 11 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị
định 93/1998/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của điều lệ BHXH ban hành
kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 và nghị định số
94/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 9 năm 1999 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều lệ
của Điều lệ BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ
quân đội và công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15
tháng 7 năm 1995. Điều lệ BHXH quy định rõ chức năng quản lý Nhà nước về
BHXH và chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH, quản lý Nhà nước về BHXH do
Bộ lao động - thương binh và xã hội đảm nhiệm, việc tổ chức quản lý thực hiện
pháp luật BHXH do BHXH Việt Nam đảm nhiệm. Ngày 24 tháng 1 năm 2002
Chính phủ ra quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc chuyển giao BHYT sang
BHXH Việt Nam quản lý, ngày 06 tháng 01 năm 2003 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 100/NĐ - CP quy định về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của
BHXH Việt Nam sau khi tiếp nhận cơ quan BHYT sang. Với việc ban hành Điều
lệ BHXH mới, chính sách BHXH đã thể chế hóa đường lối của Đảng, phù hợp với
thời kì mới góp phần ổn định 18 đời sống cho người hưởng BHXH, giảm dần bao
cấp ngân sách Nhà nước, mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Chính sách BHXH
đã được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, thực hiện sự công bằng về
quyền được hưởng trợ cấp của mọi người lao động, thực hiện quan hệ hữu cơ giữa
nghĩa vụ về đóng góp và quyền lợi hưởng thụ về BHXH, mở rộng mạng lưới trợ
cấp BHXH đến mọi người lao động nhằm bảo đảm an toàn xã hội. 1.1.1.2. Vị trí,
vai trò của bảo hiểm xã hội trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Về vị trí của BHXH: BHXH chiếm một vị trí quan trọng nhất và là thành phần
chính của hệ thống bảo trợ xã hội ở các nước trên thế giới. Nhiều nước hiện nay,
các nguồn thu về đóng góp BHXH chiếm đến 10% GDP và chi cho các chế độ
BHXH chiếm tỷ trọng đến 60 - 70 % tổng chi tiêu cho các hoạt động bảo đảm xã
hội của toàn quốc gia. ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị,
trật tự xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. BHXH đã
được Nhà nước quan tâm ngay từ ngày đầu thành lập và được thể chế hoá bằng các
sắc lệnh của Chính phủ. Chính sách này đã giúp cho đội ngũ công nhân viên chức
và những người làm việc trong lực lượng vũ trang yên tâm, hăng say công tác, góp
phần không nhỏ vào việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Ngày nay, cùng với sự
chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quỹ
BHXH ở Việt Nam đã được thành lập một cách độc lập với ngân sách Nhà nước và
triển vọng trở thành nguồn chủ yếu trong việc đảm bảo các nhu cầu chi của BHXH
trong tương lai. 19 Về vai trò của BHXH: Đối với người lao động có rất nhiều rủi
ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, những bất cập về mặt xã hội và những
rủi ro này có xu hướng xảy ra thường xuyên và có tính chất phổ biến hơn vì thị
trường lao động và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn vận động và
đứng trước sự kém ổn định và bền vững. Khi rủi ro xảy ra đối với những người lao
động sẽ gây cho họ những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, ảnh hưởng không
tốt không chỉ cho chính người lao động, gia đình họ mà còn cả cộng đồng và xã hội
loài nguời. BHXH với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của
Nhà nước sẽ góp phần trợ giúp cho những người lao động đang gặp phải rủi ro, bất
hạnh, nhanh chóng khắc phục những khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu
nhập thay thế, những điều kiện sinh hoạt thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống,
yên tâm trong công tác, tạo cho họ niềm tin vào tương lai, từ đó góp phần quan
trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như tinh thần nỗ lực vì sự phát triển
của doanh nghiệp, cơ quan họ đang làm việc nói riêng và cho toàn xã hội nói
chung. Đối với người sử dụng lao động, để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc
sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản
phẩm và nhờ vào qúa trình lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con
người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản
phẩm, đó chính là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối quan hệ tốt với
người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhịêm của mình đối
với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào
cuộc sống. Từ đó, họ lao động sản xuất hăng hái hơn, 20 tạo ra nhiều sản phẩm tốt
hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người chủ sử dụng lao động hoạt
động đạt kết quả cao. Muốn vậy, người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng
BHXH cho những người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả
cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp những rủi ro bất trắc. Việc tham
gia đóng BHXH cho người lao động của người chủ sử dụng lao động đã góp phần
vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát
triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng
như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp phần vào sự phát triển của đất
nước. Đối với xã hội, trước hết nếu BHXH là một loại dịch vụ. Hoạt động BHXH
giống như một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người
lao động, một loại dịch vụ cần cho mọi người chứ không phải chỉ là cán bộ, công
nhân viên chức. Khi các tổ chức này sản xuất và cung ứng ngày càng nhiều loại
dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng đa dạng các nhu cầu của người dân, thì giá trị của
những dịch vụ này ngày càng tăng và là một bộ phận trực tiếp làm gia tăng tổng
sản phẩm xã hội. Dưới giác độ này, BHXH được xem như một ngành dịch vụ quan
trọng của nền kinh tế. Hai là, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, BHXH sẽ giải quyết những “rủi ro” xảy ra đối với những
người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc,
khả năng sáng tạo của họ và tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao
động xã hội. Thông qua sự trợ giúp của BHXH đối với người lao động khi họ gặp
rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính
sách tiêu dùng quốc gia, kích thích tiêu dùng của xã hội, hỗ trợ và bổ sung các
chính sách vĩ mô khác của chính phủ. 21 Ba là, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập
trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính quốc gia, tới hoạt động của
hệ thống tín dụng, tiền tệ, ngân hàng. Do đó, trong các hoạt động của BHXH luôn
đặt ra một yêu cầu là quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển bằng nhiều hình thức
khác nhau. Trong đó có hình thức đầu tư và phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ.
Đây là một trong những kênh vốn quan trọng, có tác động không nhỏ tới quá trình
phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn đầu tư lớn tạo ra những
cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần quan trọng tạo ra công ăn việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người
lao động và tăng tổng sản phẩm quốc dân. Bốn là, BHXH cũng là một chính sách
nhằm thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những
người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách:
phân phối lại giữa người khoẻ và người già, giữa người đang làm việc và người đã
về nghỉ hưu, người trẻ tuổi và người cao tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng
trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp. Đây được gọi là phân phối lại theo
chiều ngang. Còn phân phối lại theo chiều dọc là thực hiện điều tiết giữa người có
thu nhập thấp và người có thu nhập cao, giữa người giàu và người nghèo. Đây là
một mục tiêu quan trọng trong các chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. BHXH
không hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho
người nghèo một cách cứng nhắc. Tư tưởng chủ đạo của BHXH dựa trên đạo lý:
“lá lành đùm lá rách”, đoàn kết tương trợ, phát huy tính nhân văn, sống hoà nhập,
có tình, có nghĩa giữa các cá nhân, các nhóm trong cùng cộng đồng với nhau.
1.1.2. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội trong phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 22 1.1.2.1. Bản chất bảo hiểm xã
hội BHXH là một loại hình bảo hiểm đặc biệt gắn liền với các chính sách an sinh
xã hội. Vì vậy, khi xem xét bản chất của BHXH theo quan điểm kinh tế chính trị
nó sẽ được thể hiện rõ hơn. BHXH xét dưới góc độ như là một loại hình kinh tế
dịch vụ. Để thấy rõ hơn về vấn đề này, có thể xem các quy định về đóng, hưởng
BHXH hiện nay như những thoả thuận đạt được giữa người tham gia bảo hiểm và
cơ quan bảo hiểm chỉ đơn thuần có tính kinh tế. Tức là ta coi BHXH thuần tuý là
một loại hình dịch vụ, một loại hàng hoá. Khi viết về dịch vụ với tư cách là một
loại hàng hoá, C.Mác đã viết: “những sự phục vụ này với tư cách là những sự phục
vụ cũng có giá trị sử dụng và do những chi phí sản xuất của chúng nên chúng có
giá trị trao đổi” [28, tr.215]. Như vậy, bảo hiểm nói chung hay BHXH nói riêng
đều là một loại dịch vụ nên nó có giá rị và giá trị sử dụng. Dưới góc độ giá trị,
BHXH có giá trị là kết tinh hao phí sức lao động trong quá trình thực hiện các giao
dịch về BHXH của những người làm công tác BHXH trong các cơ quan BHXH
khi thực hiện các công việc về thu, chi, quản lý chính sách, quản lý sử dụng quỹ
BHXH và được tính vào giá trị của dịch vụ BHXH bao gồm cả những hao phí lao
động trong quá trình thiết kế, hoạch định chế độ chính sách, chi phí quản lý nhà
nước… của cơ quan nhà nước có liên quan việc xác định giá trị của dịch vụ BHXH
là một quá trình phức tạp vì nó liên quan đến nhiều chi phí lao động sống của nhiều
lao động có trình độ lao động cao, phức tạp. Biểu hiện ra bên ngoài hay giá trị trao
đổi của BHXH là một phần trong khoản chi phí phải đóng BHXH của những đối
tượng được BHXH. Phí phải đóng BHXH ở nước ta hiện tại là 23% tính trên tổng
quỹ tiền lương cơ bản của đơn vị sử dụng lao động. Trong đó đơn vị đóng 17%,
người lao động 6 %. 23 Kinh phí chi cho bộ máy quản lý BHXH được lấy trong
phần lãi phát sinh do đầu tư tăng trưởng qũy. Ngân sách nhà nước chi cho bộ máy
quản lý nhà nước về BHXH và hỗ trợ quỹ BHXH trong trường hợp cần thiết khi
không đáp ứng khả năng tài chính chi trả các chế độ BHXH cho người lao động.
Dưới góc độ giá trị sử dụng, người tham gia BHXH sẽ được đảm bảo về thu nhập
hoặc bù đắp một phần về thu nhập khi gặp rủi ro bất ngờ hoặc sau quá trình làm
việc nhất định (trợ cấp tuổi già hay hưu trí). Giá trị sử dụng của dịch vụ bảo hiểm
nói chung đều mang tính bù đắp, theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Giá trị sử
dụng của dịch vụ BHXH có thể là ngắn hạn hoặc có hiệu lực dài hạn. Với các dịch
vụ BHXH ngắn hạn hoặc không được tiêu dùng nó phụ thuộc vào những sự kiện
bảo hiểm đã thoả thuận trước có thể xảy ra hay không. Ví dụ, trong chế độ ốm đau,
người tham gia BHXH đóng phí bảo hiểm để được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền
lương nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động không may phải nghỉ việc
do ốm đau. Quá trình đóng phí thường xuyên trong quá trình lao động nếu anh ta
không bị ốm đau thì cũng không được hưởng trợ cấp này. Đối với các chế độ
BHXH dài hạn, ví dụ chế độ hưu trí, tử tuất, người tham gia bảo hiểm có nhiều khả
năng được tiêu dùng dịch vụ BHXH hơn. ở đây, người tham gia bảo hiểm sẽ được
hưởng nếu đã tham gia BHXH đủ điều kiện nhất định đã thoả thuận. Nhưng điều
này cũng có thể sẽ không xảy ra, tức là người tham gia bảo hiểm cũng có trường
hợp không được tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ như người lao động đủ điều kiện hưởng
hưu trí nhưng không may bị chết đương nhiên người đó không được hưởng hưu,
thay vào đó gia đình người tham gia bảo hiểm được hưởng chế độ tử tuất theo quy
định. Như vậy, cũng như dịch vụ bảo hiểm nói chung, người “mua” dịch vụ BHXH
có thể được tiêu dùng hoặc không được tiêu dùng nó phụ 24 thuộc vào những sự
kiện bảo hiểm đã thoả thuận trước có thể xảy ra hay không. Tuy nhiên, BHXH
không đơn thuần như là một dịch vụ hàng hoá thông thường. Vì BHXH là một bộ
phận quan trọng nhất trong hệ thống các chính sách an sinh an toàn xã hội của mỗi
quốc gia. Do đó, dịch vụ BHXH bị chi phối nhiều yếu tố phi dịch vụ. Các yếu tố
này mang nặng tính xã hội, nhằm mục tiêu ổn định, an toàn xã hội mà không có
tính kinh tế. Vì vậy, tính chất dịch vụ của BHXH thường không rõ các quy định
của cơ quan quản lý còn nhiều, người tham gia BHXH thường ít có cơ hội lựa
chọn. Dưới góc độ kinh tế chính trị, về bản chất của BHXH trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là phấn đấu để mọi người lao động
ngày càng được đảm bảo tốt hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Đặc
biệt trong khi gặp khó khăn và cả khi mất sức lao động. Nếu xem xét bản chất của
BHXH theo quan hệ sản xuất - Tư bản chủ nghĩa, người lao động là một yếu tố của
quá trình sản xuất. Khi các điều kiện sản xuất tốt, người lao động có khả năng sáng
tạo ra nhiều giá trị thặng dư góp phần làm giàu cho giai cấp Tư sản và các điều
kiện phúc lợi xã hội tốt hơn, tạo điều kiện ổn định xã hội, phát triển sản xuất và
quy luật tích luỹ tư bản ngày càng bộc lộ rõ hơn. Nói chung, BHXH là một nhu cầu
khách quan trong đời sống xã hội, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế hàng hoá phát
triển. BHXH nhằm triển khai các chính sách BHXH của mỗi quốc gia. BHXH thực
hiện mối quan hệ ba bên là người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan
BHXH. Nguyên tắc hoạt động của BHXH cũng mang những đặc trưng cơ bản của
các loại hình dịch vụ bảo hiểm nói chung. Đó là nguyên tắc “cộng đồng chia sẻ rủi
ro”, “số đông bù số ít”, “có đóng có hưởng”. Tuy vậy, BHXH mang tính 25 xã hội
rõ nét hơn tính kinh tế xuất phát từ mục tiêu an toàn, an sinh xã hội được nhà nước
bảo trợ và chi phối. Do vậy, BHXH trở thành một trong những quyền con người và
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn nhân quyền
năm 1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có
quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh
tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người” [14,
tr.8]. ý nghĩa sâu xa nhất ở đây là BHXH đã thể hiện được tính xã hội và nhân văn.
Trước hết ta phải khẳng định rằng BHXH là sự bảo đảm của xã hội, đối với yếu tố
lao động sản xuất tức là hoạt động nhằm đảm bảo cho người lao động mà cụ thể là
người lao động phụ thuộc (người lao động không có tư liệu sản xuất, người lao
động làm công hưởng lương, có quan hệ với người sử dụng lao động) ổn định cuộc
sống bằng cách bù đắp một phần hoặc toàn bộ những thiếu hụt, mất mát về thu
nhập trước những rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, chăm sóc y tế, mất việc làm, mất khả năng lao động, già cả, chết. Những
người lao động này phải trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật, có khă
năng và nhu cầu việc làm đều phải có nghĩa vụ tham gia BHXH để được hưởng
quyền lợi BHXH, khi người lao động đóng BHXH sẽ tạo được cơ sở vững chắc về
tâm lý xã hội trong cuộc sống, nó nhắc nhở ý thức, trách nhiệm của họ với cuộc
sống của chính mình, với xã hội hiện tại và tương lai, đồng thời bảo vệ nhân phẩm
của người lao động, vì nó xác lập quyền lợi bình đẳng của họ được hưởng BHXH
theo qui định của pháp luật. BHXH ngày càng được hoàn thiện theo hướng mở
rộng đối tượng tham gia, bảo đảm đầy đủ hơn đời sống của người lao động và thân
quyến của họ. BHXH ngày nay đã thực sự trở thành một công cụ đắc lực của chính
xã hội ở 26 từng quốc gia, trong công cuộc giữ gìn sự ổn định xã hội. Đối với
người Việt Nam, chính sách BHXH càng nêu cao truyền thống nhân văn của dân
tộc, vì BHXH là sự bảo đảm của xã hội trước những rủi ro bằng phương thức đóng
và tiếp nhận phúc lợi xã hội. Tính xã hội trong BHXH được hiểu là tính thống nhất
trong phạm vi một quốc gia và do nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm, cụ thể hoá
tính xã hội của hoạt động BHXH là ở chỗ nó được thực hiện thống nhất trong
phạm vi cả nước theo một thể chế pháp luật và được thực hiện bình đẳng cho mọi
người lao động và có đủ điều kiện tham gia. Tính nhân văn của chính sách BHXH
còn thể hiện ở chỗ trợ giúp về vật chất cần thiết được pháp luật quy định, nhằm
phục hồi nhanh chóng sức khoẻ, duy trì sức lao động xã hội, góp phần giảm bớt
khó khăn về kinh tế ổn định đời sống người lao động và gia đình họ. Do vậy, bản
chất của BHXH khác hẳn với bản chất của các loại hình bảo hiểm thương mại
khác. 1.1.2.2. Những đặc trưng cơ bản Bảo hiểm cho người lao động trong và sau
quá trình lao động. Nói cách khác, khi đã tham gia vào hệ thống BHXH, người lao
động được bảo hiểm cho đến lúc chết. ở nước ta, căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã
hội cụ thể, BHXH có một số đặc trưng sau: Một là, khi còn làm việc, người lao
động được đảm bảo nếu bị ốm đau. Cụ thể, về thời gian hưởng chế độ ốm đau
trong một năm tính theo ngày làm việc, không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hàng
tuần (tuỳ theo số năm người lao động đã đóng BHXH) được quy định như sau:
Nếu người lao động làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng từ 30
đến 60 ngày. Nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc
danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ y tế ban hành thì được
hưởng từ 40 đến 70 ngày. Người lao động mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần
chữa trị dài ngày do Bộ y tế ban hành thì được 27 hưởng tối đa không quá 180
ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hàng tuần. Hết thời hạn 180
ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau vời mức thấp hơn.
Ngoài ra còn có chế độ khi con ốm. Về mức trợ cấp ốm đau: 75% mức tiền lương
đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Hai là, lao động nữ được trợ
cấp thai sản khi sinh con, cụ thể, thời gian hưởng chế độ thai sản từ 4 đến 6 tháng
tuỳ theo công việc, sức khoẻ… Về mức trợ cấp, người lao động được hưởng 100%
mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ
việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng
BHXH. Ba là, người bị tai nạn lao động được trợ cấp tai nạn lao động, tuỳ vào tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động mà người lao động hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng
tháng. Bốn là, khi không còn làm việc nữa thì được hưởng tiền hưu trí, tuỳ vào số
năm đóng BHXH mà người lao động được hưởng mức lương hưu từ 45% đến 75%
mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Ngoài ra, còn được hưởng trợ cấp 1
lần nều đóng BHXH trên 30 năm đối với nam và trên 25 năm đối với nữ, cứ mỗi
năm đóng BHXH được trợ cấp bằng 0.5 tháng mức bình quân tiền lương tháng
đóng BHXH. Năm là, khi chết thì được tiền mai táng và gia đình được hưởng trợ
cấp tiền tuất... Đây là đặc trưng riêng của BHXH mà không một loại hình bảo hiểm
nào có được. Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của người lao động trong
BHXH liên quan đến thu nhập của họ gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết... Do những sự kiện và rủi 28 ro này
mà người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động
không được sử dụng, dẫn đến họ bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Vì vậy, người
lao động cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống và sự bù
đắp này được thông qua các trợ cấp BHXH, đây là đặc trưng rất cơ bản của
BHXH. Người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp BHXH,
tuy nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ đóng BHXH. Người chủ sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng
BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH, bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước là nguồn
hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra, nguồn thu của quỹ BHXH còn có các
nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH;
khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp BHXH theo quy định của
pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ BHXH dùng để chi trả các trợ cấp
BHXH và chi phí cho các hoạt động quản lý của bộ máy BHXH. Như vậy, có thể
thấy quỹ BHXH là một quỹ xã hội, nhưng vừa là quỹ tài chính, vừa là quỹ phát
triển. Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của BHXH.
BHXH còn chịu sự giám sát chặt chẽ của người lao động (thông qua tổ chức công
đoàn) và người sử dụng lao động (thông qua tổ chức của giới chủ) theo cơ chế ba
bên, đây cũng là đặc trưng rất riêng của BHXH. Tất cả những khía cạnh nêu trên,
một lần nữa cho thấy: BHXH được lập ra để tác động vào thu nhập theo lao động
của người lao động tham gia BHXH. Nói cách khác, BHXH là hệ thống bảo đảm
khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất
khả năng lao động hay mất việc làm, 29 do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập
được thay thế, nhằm bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ.
1.1.3. Mối quan hệ bảo hiểm xã hội với loại hình bảo hiểm khác và các chính sách
xã hội 1.1.3.1. Quan hệ bảo hiểm xã hội với Bảo hiểm Nhân thọ Bảo hiểm nhân
thọ (BHNT) là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà
trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra
(người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc bị chết), còn người
tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá
trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ
của con người. Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam thì: "Bảo hiểm
nhân thọ là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc
chết". Người được bảo hiểm và người tham gia BHNT rất rộng, có thể bao gồm
mọi người ở các lứa tuổi khác nhau. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con
người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản
thân và gia đình. Ngoài bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các dịch vụ bảo hiểm nhân
thọ ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư
trong xã hội. Bảo hiểm nhân thọ, nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình của
bảo hiểm thương mại, là hình thức bổ sung cho bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
Nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi
ro tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và
đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. So với bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm nhân thọ có đối tượng tham gia rộng hơn, quỹ 30 bảo hiểm được
hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm do những người tham gia đóng góp, số tiền chi
trả căn cứ vào sự thỏa thuận và cam kết trong hợp đồng. Hình thức bảo hiểm là tự
nguyện. Còn đối với bảo hiểm xã hội, phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào tiền
lương của người lao động do Nhà nước quy định. Ngoài ra, sự khác nhau còn được
thể hiện ở cơ sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện… Tuy nhiên sự
khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra sự đối lập, mâu thuẫn, mà
trái lại chúng bổ sung cho nhau. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có thể thay thế
bảo hiểm xã hội trong những trường hợp, những khu vực của nền kinh tế, những
nơi mà bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp thu
nhập của người lao động bị giảm sút. Mặc dù người lao động làm công ăn lương
được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu
cầu nằm ngoài phạm vi bảo hiểm xã hội hoặc các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội
không đáp ứng được những nhu cầu khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và
thiếu hụt về mặt tài chính sẽ được bảo hiểm nhân thọ bù đắp. 1.1.3.2. Bảo hiểm xã
hội với chính sách xã hội Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, nó là tổng thể
những tư tưởng quan điểm, những phương thức, giải pháp và công cụ của nhà
nước, được cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật. Phản ánh lợi ích và trách
nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục
đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân... chính sách bao trùm lên mọi cuộc sống của con
người. Tuỳ theo đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá của mỗi
nước và trong từng thời kỳ lịch sử nhất định mà nhà nước có thể ban hành những
chính sách xã hội cụ thể, ví dụ như chính sách giáo dục, y tế, văn 31 hoá, dân số,
trẻ em, xoá đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, việc làm và
tiền lương, BHXH... Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính
sách quan trọng. Chính sách BHXH và các chính sách xã hội khác có mối quan hệ
biện chứng với nhau, các chính sách này hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề
xã hội. Thực hiện tốt các chính sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính
sách xã hội khác. Chẳng hạn như, việc thực hiện tốt BHXH cho mọi người lao
động trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay sẽ làm cho mọi người lao động
trong các thành phần kinh tế được hưởng bảo hiểm góp phần tạo ra sự bình đẳng về
quyền lợi của người lao động, giảm sức ép về việc làm trong khu vực kinh tế Nhà
nước, giảm gánh nặng của ngân sách cho cứu trợ xã hội. Từ đó tăng khả năng chi
của Nhà nước cho việc thực hiện các chính sách xã hội khác. Chính sách việc làm
có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá rõ nét, số người làm việc
ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho BHXH có nguồn thu ổn định,
ngược lại chính sách giảm biên chế giảm lao động làm việc trong các doanh nghiệp
như quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP ... dẫn đến tăng số người về nghỉ
chế độ ... làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng năm phải cấp bù
rất lớn. Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động rất lớn đến chính sách dân số
kế hoạch hoá gia đình, chính sách đối với những người tham gia chiến tranh ...
Như vậy, mở rộng đối tượng và quyền lợi BHXH sẽ giảm thiểu các chi phí cho các
chính sách khác trong bảo trợ xã hội. 1.2. Sự cần thiết và yêu cầu của mở rộng đối
tượng tham gia Bảo hiểm xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa 1.2.1. Bảo hiểm xã hội xét dưới góc độ kinh tế Người lao
động đóng phí BHXH, phần đóng góp này là khoản tiền mà người lao động phải
đóng góp hàng tháng để được hưởng trợ cấp khi gặp phải 32 rủi ro hoặc sự cố theo
các chế độ bảo hiểm. Đây là mục đích kinh tế của người lao động, khoản được trợ
cấp thường xấp xỉ với giá trị của khoản đã đóng BHXH, thậm chí còn có thể cao
hơn như trường hợp sống lâu. Rủi ro để được hưởng trợ cấp thường là tuổi già,
chết, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản. ở Việt Nam, Nghị
định 12/CP ngày 26/01/1995 đã quy định người lao động đóng BHXH hàng tháng
bằng 5% tiền lương. BHXH cũng phục vụ lợi ích người sử dụng lao động vì góp
phần duy trì ổn định lao động trong xã hội. Người sử dụng lao động trả lương cho
người lao động và cả khi họ không còn đủ khả năng làm việc để được hưởng
lương. Người lao động được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững, thậm chí làm tăng
lợi nhuận của người sử dụng lao động. Điều lệ BHXH của nước ta quy định người
sử dụng lao động phải đóng 15% so với tổng quỹ lương của những người lao động
được bảo hiểm trong đơn vị. Đối với ngân sách, BHXH góp phần làm giảm “gánh
nặng” cho ngân sách Nhà nước. Do đặc điểm nước ta chiến tranh kéo dài, người
hưởng BHXH nhiều. Hàng năm ngân sách Nhà nước phải bỏ ra khoảng 4.500 tỷ
đồng để trả lương cho hưu trí và mất sức. Khi có chế độ BHXH mới, hàng năm thu
được của người lao động khoảng 1.800 tỷ. Khoản chi của ngân sách Nhà nước cho
trợ cấp hưu trí, mất sức... nhờ đó cũng giảm được một phần. Đồng thời, phần
“nhàn rỗi” của quỹ BHXH kết hợp với phần tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước tạo
thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Đối với những nước có dân số trẻ, nguồn
thu BHXH là một nguồn tiết kiệm nội bộ rất quan trọng vì các khoản chi trợ cấp,
trước hết là chi trợ cấp tuổi già ít dùng đến ngay. Nguồn thu được tích tụ dài ngày,
có nhiều tiền nhàn rỗi. Hiện nay pháp luật của hầu hết các nước đều cho phép sử
dụng tiền nhàn rỗi của quỹ bhxh để 33 đầu tư sinh lợi, tăng trưởng quỹ. Tuy nhiên
nguyên tắc đầu tư phải đảm bảo, bảo tồn và phát triển vốn, thanh toán được chắc
chắn như mọi hạng mục đầu tư khác. Vì phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ các mức trợ
cấp khi phát sinh trường hợp bảo hiểm, cho nên việc đầu tư của quỹ BHXH phải
được nhà nước xét duyệt một cách chặt chẽ, phải đầu tư vào các hạng mục đầu tư
của Nhà nước, có ích đối với xã hội và nền kinh tế quốc dân. Thường Nhà nước
- Xem thêm -