Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn bản sắc văn hoá của dân tộc thái den tỉnh sơn la hiện nay...

Tài liệu Luận văn bản sắc văn hoá của dân tộc thái den tỉnh sơn la hiện nay

.PDF
102
468
109

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Hoàng Thúc Lân - Người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Đồng thời, em gửi lời cảm ơn đến Đảng ủy, Ban giám Hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Triết học, các thầy cô giáo Khoa Triết học, các phòng ban đặc biệt Phòng Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Đảng ủy, Ban giám Hiệu, phòng Đào tạo Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua đề tôi trong suốt thời gian qua đề tôi có thể hoàn thành tốt luận văn. Hà Nội, tháng 6 năm 2017 Tác giả Hoàng Ánh Thêu LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài “Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen tỉnh Sơn La hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hoàng Thúc Lân. Các kết quả nghiên cứu có tính độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi. Sơn La, tháng 6 năm 2017 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa BCH: Ban chấp hành CNXH: Chủ nghĩa xã hội KH – CN: Khoa học công nghệ ODA: Official Development Assistance (nguồn viện trợ phát triển chính thức) MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 1 LỜI CAM ĐOAN................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 5 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 8 3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 11 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ....................................................... 11 4.1. Khách thể nghiên cứu ............................................................................. 11 4.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................. 11 5. Giả thuyết khoa học ................................................................................... 12 6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 12 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................................................... 12 8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 12 9. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 13 10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ................ 13 10.1. Những luận điểm cơ bản ...................................................................... 13 10.2. Đóng góp mới của tác giả .................................................................... 13 NỘI DUNG ......................................................................................................... 14 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở SƠN LA............................................................................................................... 14 1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 14 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................... 14 1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số ……………………………………………………………………… …………………………………………………………..22 1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................... 23 1.2.1. Lịch sử hình thành dân tộc Thái và Thái Đen ở Sơn La ..................... 23 1.2.2. Thực chất bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La .............. 25 1.2.3.Những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận động biến đổi bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ........................................................................................... 45 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 49 Chương 2. BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở SƠN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............................................. 50 2.1. Thực trạng vận động biến đổi bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay .............................................................................................. 50 2.1.1. Về văn hóa vật chất ............................................................................. 50 2.1.2. Về văn hóa tinh thần ......................................................................... 57 2.2. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ................................................................................................................... 70 2.2.1. Nguyên nhân nhận thức của dân tộc Thái Đen ................................... 70 2.2.2. Nguyên nhân kinh tế ............................................................................ 72 2.2.3. Nguyên nhân chính trị ......................................................................... 74 2.2.4. Nguyên nhân văn hóa .......................... Error! Bookmark not defined. 2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay ..................................................... 76 2.3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc Thái Đen ở Sơn La............................................................................................................ 78 2.3.2. Nhóm giải pháp về chính trị ................................................................ 81 2.3.3. Nhóm giải pháp về văn hóa – xã hội cho đồng bào dân tộc Thái Đen ở Sơn La............................................................................................................ 87 Tiểu kết chương 2:............................................................................................ 93 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 96 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn hóa Việt Nam là đa dạng bản sắc được tạo thành từ sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử với truyền thống đoàn kết, cộng đồng các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam, gắn bó với nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập và xây dựng, phát triển đất nước. Các dân tộc Tây Bắc nói chung và đồng bào dân tộc Thái Đen sinh sống trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng là những con dân Việt Nam cần cù chịu khó, gắn bó hoà đồng; là những con người vị tha, yêu thương và đùm bọc nhau trong cuộc sống. Đó cũng chính là những phẩm chất chung, tốt đẹp của người Việt Nam. Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt Nam từ hơn 1000 năm trước trong các cuộc thiên di lịch sử. Dân tộc Thái ở Việt Nam có số dân 1,3 triệu người đứng thứ 3 cả nước sau người Kinh và người Tày, chủ yếu sống ở vùng núi phía Tây Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An… qua quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt, dân tộc Thái đã tạo nên được những nét đặc sắc về bản sắc văn hóa kiến trúc nhà ở, trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm thực, phong tục tập quán riêng biệt, ngôn ngữ, chữ viết… đã làm nên một nền văn hóa cho dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng. Ở điểm cực Tây của tổ quốc, Sơn La nằm ở nơi cao ráo, thoáng đãng, hội tụ sông, suối, núi đồi, những cánh đồng lúa và phảng phất đâu đây là mùi hương hoa cỏ dại từ những cánh rừng xanh bạt ngàn. Những ngôi nhà sàn thấp thoáng ven những bờ suối những chùm hoa dại, hoa ngũ sắc và những chùm hoa bay bay theo gió. Cảnh sắc nơi đây thật sự rất tuyệt vời. Phải chăng không khí trong lành, dịu mát cùng với cảnh sắc tuyệt vời như vậy cũng làm cho con người nơi đây trở nên phúc hậu? Chủ tịch Hồ Chính Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu đời sống đối với mỗi dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó của các dân tộc trong lịch sử, xã hội. Qua đó tìm ra những đặc sắc tinh túy trong hệ thống giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc để tôn vinh và phát huy lên tầm cao mới để không ngừng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ nay và mai sau”[39, tr.431]. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã nêu rõ: "Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống". Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, toàn cầu hóa đã và đang tạo nên xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Hội nhập quốc tế tạo nên nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức, trong đó có thách thức về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc. Làm thế nào để giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc như một sức mạnh nội sinh để phát triển là một vấn đề cần được nghiên cứu để có những định hướng đúng đắn cho con đường phát triển của dân tộc. Nhiều dân tộc đã và đang bị xói mòn và mất dần những giá trị bản sắc của mình, dân tộc Thái cũng đang phải đối mặt với nguy cơ đó. Nếu như trước đây cứ vào dịp đầu năm mới (trong khoảng tháng Giêng), hầu như thôn, bản người dân tộc Thái Sơn La sinh sống đều tổ chức hội ném còn, thì nay lễ hội ném còn ngày càng ít dần, và số người tham gia cũng không còn đông như xưa. Ném còn bây giờ chỉ còn được trình diễn ở một số lễ hội lớn của huyện, còn các bản hầu như không tổ chức riêng như trước nữa. Không chỉ mai một lễ hội, mà ngay cả tiếng nói, trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán, lễ hội… những thành tố cơ bản của văn hóa dân tộc, đồng thời là tiêu chí quan trọng để xác định thành phần tộc người cũng đã bị mai một hoặc có nguy cơ mai một…Chính vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú trọng. Có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, và tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, tức là sức sống và sự từng trải của dân tộc. Nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng và trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Vì thế việc nghiên cứu so sánh sự biến đổi của bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen có ý nghĩa hết sức quan trọng. Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài: “Bản sắc văn hóa của người Thái tỉnh Sơn La hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác nhau nhau như: Dân tộc học, văn hóa học, triết học. Bàn về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc phải kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Nhóm thứ nhất, nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như: Trong cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc, ( Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998 ), tác giả đi vào phân tích và làm sáng tỏ khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và mối quan hệ giữa các không gian văn hóa. Từ đó đi đến khẳng định: “Văn hóa nào cũng cần phải có sự giao tiếp để phát triển” [36, tr.16]. Bàn về văn hóa, còn phải kể đến công trình nghiên cứu “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên ), (Nxb Giáo dục, 2008). Cuốn sách giới thiệu đến về các quan niệm về văn hóa và các đặc điểm của văn hóa Việt Nam trong quá trình tiếp biến văn hóa nhân loại. Qua đó, khẳng định sự giao lưu văn hóa, cần phải có chính sách giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, cuốn“Văn hóa bản sắc văn hóa dân tộc” của tác giả Hồ Bá Thâm (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2012). Tác giả đã làm rõ bản chất, đặc trưng của văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và còn chỉ ra những thách thức khó khăn trong điều kiện giữ gìn, phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay trước sự tác động của kinh tế thị trường. Ngoài ra, khi nghiên cứu về “Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới hội nhập và phát triển” tác giả Đỗ Huy, (Nxb Thông tin - Truyền thông, 2013). Được tác giả trình bày hành trình của quá trình giải phóng, đổi mới và dự báo về bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và đưa ra những giải pháp cụ thể Nhóm thứ hai, nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có: Nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số có “Bản sắc văn hóa dân tộc Mông và giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị của nó ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Xuân Lương, Luận án tiến sĩ Triết học, (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2002). Tác giả đã tập trung vào khai thác những đặc điểm hình thành và những đặc trưng của bản sắc dân tộc Mông và đưa ra cái nhìn mới về bản sắc dân tộc Mông trước những tác động của kinh tế thị trường. Ngoài những nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số phải kể đến “Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” của Đinh Thị Hoa, Luận văn thạc sĩ Triết học (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006). Luận văn đã phân tích rõ về khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Mường qua các giá trị vật chất và giá trị tinh thần dước góc độ triết học. Mặc dù, khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, song các tác giả đều làm rõ khái niệm văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của họ. Bên cạnh đó, khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta và đề ra các giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhóm những công trình nghiên cứu về về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam và dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phúc. Bàn về bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu, phải kể đến cuốn “Người Sán Dìu ở Việt Nam” của Ma Khánh Bằng (Nxb Khoa học xã hội, 1983). Cuốn sách được tác giả giới thiệu khái quát về dân tộc Sán Dìu, các hoạt động kinh tế, sinh hoạt vật chất và một số tục lệ trong đời sống hàng ngày. Trong cuốn“Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” của tác giả Lâm Quý, (Ban Dân tộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc xuất bản năm 2009).Trong cuốn sách này, tác giả đã thể hiện theo tinh thần khảo cứu dân tộc học về lịch sử dân cư, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội, ngôn ngữ, chữ viết, kiến trúc mỹ thuật âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội... nhằm giúp người đọc có cách nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc với bản sắc truyền thống riêng. Tác giả cũng đồng thời cảnh báo những nguy cơ làm phai nhạt bản sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó khuyến nghị một số vấn đề về giữ gìn, bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc Sán Dìu, Cao Lan và Dao ở Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, cuốn “Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam” của Diệp Trung Bình, (Nxb Văn hóa dân tộc, 2011). Tác giả làm rõ những đặc điểm văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Đưa ra những so sánh và những giá trị truyền thống và hiện đại, những biến đổi lớn trong bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở nước ta hiện nay. Công trình nghiên cứu về “Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Lâm Quang Hùng, (Nxb Khoa học và Công nghệ, 2011). Tác giả đi khai thác những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc qua một số giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể dưới góc độ dân tộc học. Tác giả hướng tới khẳng định tầm quan trọng của việc bảo tồn các giá trị của dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc trong thời kỳ đổi mới. Nhóm thứ ba, nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình: Lê Ngọc Thắng với công trình “Nghệ thuật trang phục Thái”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1990; Tác giả đã làm rõ sự biến đổi về trang phục dân tộc Thái do quá trình giao lưu văn hóa với người Kinh, trang phục đang phát triển theo con đường âu hóa mạnh. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Đạt, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995. Trong cuốn này tác giả đã giới thiệu khá đầy đủ về những nét đặc sắc của văn hóa người dân tộc Thái. "Văn hóa và lịch sử dân tộc Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1996. Tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa Thái học Việt Nam và Thái học Quốc tế dựa trên cơ sở các công trình nghiên cứu về các dân tộc Tày - Thái ở nước ta. "Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học trình bày tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng, Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái, trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về dân tộc Thái ở Sơn La”, Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. " Tác giả đã giới thiệu khái quát về lịch sử và những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc Thái; "Hoa Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003 Tác giả đã đi nghiên cứu những sắc màu, những hoa văn, hoạ tiết được các cô gái Thái thổi hồn trên thổ cẩm. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử... Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Thái (nói chung), dân tộc Thái ở Sơn La (nói riêng) nhằm giới thiệu về dân tộc Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát triển văn hóa các dân tộc ở Sơn La nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái Đen ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La một cách khái quát. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ khái niệm thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Tây Bắc nói chung, và dân tộc Thái Đen ở Sơn La nói riêng. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Người dân tộc Thái Đen tại tỉnh Sơn La. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen tỉnh Sơn La xưa và nay trên góc độ triết học. 5. Giả thuyết khoa học Nếu nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La và xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau: Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen và tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái. Hai là, đánh giá thực trạng biến đổi vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế... khảo sát ở tỉnh Sơn La). Ba là, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú... Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái Đen ở Sơn La nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu các thành tố tiêu biểu như: ở (nhà và ở), ăn, mặc (trang phục), lễ hội, tang ma, cưới xin, sinh đẻ của người dân Thái Đen. 8. Phương pháp nghiên cứu Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lênin, đặc biệt là nguyên lý về lý luận nhận thức và lôgíc học, quan điểm của Đảng về bản sắc văn hóa dân tộc. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch sử - lôgíc, hệ thống hoá, khái quát hoá, khảo sát - thống kê, xử lý tài liệu, điều tra, điền dã… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được bố cục gồm 02 chương, 04 tiết. 10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả 10.1. Những luận điểm cơ bản Một là, bản sắc văn hóa là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Hai là, dân tộc Thái sống ở rừng núi, thung lũng nên đã có nhiều thế kỷ sống hòa vào trong sự cân bằng của môi trường tự nhiên, và tạo lập được hệ sinh thái nhân văn của mình. Ba là, với chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi của Đảng, chúng ta cần phải bảo lưu, khai thác cả cái cũ và mới trong những vùng dân cư mới để biến Sơn La thành vùng giàu mạnh của đất nước với một bản sắc văn hóa đa dạng và độc đáo trong sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. 10.2. Đóng góp mới của tác giả Về mặt lý luận: luận văn cung cấp cách tiếp cận hệ thống lý luận khoa học về quá trình hình thành và phát triển bản sắc văn hóa của người Thái Đen ở Sơn La. Trên cơ sở đó, chỉ rõ tính triết học trong xu hướng vận động, biến đổi các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay. Về mặt thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng vận động biến đổi bản sắc văn hóa của người dân tộc Thái ở Sơn La hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản và rút ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen tại tỉnh Sơn La hiện nay. Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu và đào tạo triết học và cung cấp những tư liệu cho các nhà quản lý, lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc ở Việt Nam nói chung và ở Sơn La nói riêng. NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở SƠN LA 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa * Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó còn nhiều ý kiến, vì thế trên thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [39, tr.431]. Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư ký Unesco định nghĩa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [61, tr.23]. UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu, động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [35, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị, các qui chuẩn về phương thức xử thế và các hệ thống hành vi của con người và cộng đồng. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng. “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình.” [31, tr.13 -14]. Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến giá trị của con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người khác xa và vượt lên trên loài vật, trờ thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những giá trị do con người sáng lập ra liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán… Ở Việt Nam, khi bàn luận về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người tộc danh, là một chi tiết của văn hóa nói chung. Còn phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người sống trong cùng một quốc gia. Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh sống của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó. Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định bản sắc văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, ích, mỹ” [63, tr.19] Đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc. Mục đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Giá trị văn hóa còn mang tính khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào đó để làm tiêu chí xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao hay thấp, phát triển hay không… điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn hóa. Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc . Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [78, tr.13]. Thực tế cho thấy, một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc. * Bản sắc văn hóa: Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành phẩm cách đặc biệt của một vật [69, tr42]. Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân tộc. Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó không những không mất đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa dân tộc mình, song vẫn phải giữ được cốt cách, giá trị căn bản, không đánh mất linh hồn của dân tộc mình. Khi nói đến một trong những nét đặc trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà không bị nhầm lẫn, đánh đồng giá trị đó với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc cường thịnh, không bị nô dịch và đồng hóa, mà luôn khẳng định chính mình: “Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập” [18, tr.48]. Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá trình giao lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn hóa chung. Đồng thời, tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái chung đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một biểu hiện nhất thời, nó có mối liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc gắn liền và thường được biểu hiện thônghoạt động sống hàng ngày, qua lao động sản xuất của con người và cộng đồng người trong mỗi giai đoạn lịch sử. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa dân tộc: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [83, tr.13]. “Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng… trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [24, tr.37]. Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy. Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị, giá trị tinh thần bên trong và biểu hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy nhau cùng phát triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản lĩnh, trở thành sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc đó sẽ mờ phai. Ngược lại, nếu văn hóa tự mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo , sẽ làm vơi chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa. Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố như: Hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức lao động sản xuất, hoạt động kinh tế. Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất phát từ những yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ, các dân tộc Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình - làng xã - Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [21, tr.56]. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống không chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc. Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc, là nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là tài sảnvô giá, di sản vô cùng quý báu của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các tộc người là việc làm hết sức có ý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định hướng, đường lối của Đảng, Nhà nước và ý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân. 1.1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen Dân tộc Thái Đen sống quây quần theo từng bản làng dưới sườn núi, mỗi bản có khoảng 30 đến 80 nóc nhà kề nhau. Họ sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, lúa nương và chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò... hoặc đi làm thêm, đi kiếm củi. Ở đây hầu như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình mình và bán kiếm thêm thu nhập. Phụ nữ Thái Đen có bộ trang phục rất duyên dáng, áo cóm bó sát người, váy đen dài chấm gót, đầu đội khăn piêu. Người con gái Thái Đen khi về nhà chồng phải chuẩn bị đủ 20 chiếc khăn piêu và chăn bông để biếu gia đình và họ hàng nhà chồng. Phụ nữ có chồng phải vấn tóc cao trên đỉnh đầu gọi là tằng cẩu. Điều này vừa để phân biệt được người con gái đã có chồng hay chưa, vừa thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ đó với chồng. Dân tộc Thái Đen thường làm nhà sàn gỗ 5 hoặc 3 gian tùy theo điều kiện của từng gia đình. Các gian giữa được dùng làm phòng ngủ, cách nhau bởi các tấm rido căng dây lên các cột nhà. Hai gian bên ngoài cùng đầu đốc nhà thì dùng làm bếp đun nấu, bên còn lại dùng để đặt bàn thờ thờ cúng ông bà, tổ tiên. ''Pạt tông'' là một trong những nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Theo lịch của dân tộc Thái cứ 10 ngày họ lại làm cơm cúng một lần và chỉ những dòng họ lớn, danh giá mới được làm pạt tông''. Ngày mất của bậc bề trên nhất trong họ sẽ được chọn để làm ngày giỗ chung cho cả dòng họ. Bà con thường
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan