Ảnh hưởng của gia đình đến hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Gia đình Việt Nam xuất phát từ truyền thống đạo lý hàng ngàn năm văn
hiến. Tên tuổi các vị anh hùng dân tộc, các danh nhân, các bậc hiền tài, các nhà
cách mạng lỗi lạc đều được sinh ra từ các gia đình có tính chất đặc biệt, tiềm ẩn
trong gia đình đó là sự giáo dục, chăm sóc của những người cha, người mẹ đã
tảo tần nuôi dưỡng con nên người, cho con học hành đỗ đạt để giúp dân giúp
nước.
Giáo dục gia đình là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành nhân
cách trẻ. Trẻ em khi vừa chào đời đã đắm mình trong cái nôi tình cảm của gia
đình và đặc biệt là người mẹ, từ cử chỉ vỗ về âu yếm của người mẹ đến những
lời ru ngọt ngào như những dòng sữa bất tận bắt đầu bồi đắp cho tâm hồn trẻ
thơ. Cha mẹ và người thân trong gia đình tập cho trẻ từng “lời ăn tiếng nói”,
câu chào hỏi, lễ nghĩa, đó là bài học đầu đời của trẻ. Trong giai đoạn này từng
lời ăn tiếng nói của cha mẹ sẽ tác động lên trẻ rất lớn.
Vai trò của người mẹ và người cha vô cùng quan trọng. Tục ngữ có câu
“phúc đức tại mẫu” hay “cha mẹ hiền lành để đức cho con”. Hay: “Kiếm nơi
cha thảo mẹ hiền, Sớm hôm phụng dưỡng bạc tiền không ham”.
Gia đình có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển tư tưởng của
Hồ Chí Minh, gia đình góp phần xây dựng, tô thắm, làm rạng rỡ thêm những tư
tưởng của Người, là nơi gìn giữ vun đắp, phát huy những giá trị truyền thống
quý báu của con người Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình có truyền thống
giáo dục tốt, Hồ Chí Minh đã lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào của Mẹ, bằng
tình yêu thương của Cha, bà ngoại và dì An cùng với tình yêu thương của anh
chị em trong gia đình. Đó chính là mái ấm dạo dàt tình thương mà mỗi con
người ai cũng mong ước có được. Ở mỗi môi trường đều có nội dung, phương
1
pháp giáo dục khác nhau, trong đó việc giáo dục của gia đình giữ một vị trí đặc
biệt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người ngay từ tuổi ấu
thơ. Qua lời ru của mẹ, tình thương, tấm gương và lời khuyên bảo của bà, cha
mẹ, anh chị đã đem đến cho tuổi thơ cậu bé Nguyễn Sinh Cung những bài học
đầu tiên của cuộc đời.
Gia đình có ảnh hưởng rất lớn với mỗi con người, với cộng đồng xã hội,
có sự tác động qua lại với những chiều hướng tiêu cực hay tích cực về: nhân
cách, lối sống, đạo đức, kỷ cương, các giá trị xã hội. Với Hồ Chí Minh gia đình
có ảnh hưởng rất lớn đến Người. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài : “Ảnh hưởng
của gia đình đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”. Để làm đề tài
luận văn của mình.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của gia đình đối với quá trình
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Và Người đã vận dụng những tư tưởng đó
vào cuộc sống sau này của Người.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rở anh hưởng của gia đình đối với sự hình tư tưởng Hồ Chí Minh và
một số tư tưởng của Hồ Chí Minh được ảnh hưởng từ gia đình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đối tượng nghiên cứu:
Gia đình của Hồ Chí Minh và những ảnh hưởng của gia đình đối với sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi gia đình của Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ảnh hưởng của gia đình đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Và Hồ Chí Minh đã vận dụng những tư tưởng ấy vào cuộc sống của mình.
Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành tốt luận văn tôi đã sử dụng các phương pháp: Tổng hợp,
phân tích, và đặc biệt tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
luận văn gồm có 2 chương và 8 tiết.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUÊ HƯƠNG VÀ GIA ĐÌNH CỦA HỒ CHÍ MINH.
1.1 Quê hương của Hồ Chí Minh.
Nghệ An là vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa và truyền thống cách
mạng lâu đời. Đất Nghệ An xưa là Bộ Hoài Nam, một trong 15 bộ của nước
Văn Lang. Thời Bắc thuộc, Đường Cao Tông đổi tên nước ta là An Nam Đô Hộ
Phủ, đất này thành Châu Hoan, Châu Diễn, gồm 11 huyện. Đời Vua Trần Duệ
Tông (1372 – 1377 ), đổi Châu Hoan thành Nghệ An. Đời Vua Trần Thuận
Tông, Hồ Quý Ly đổi lộ Nghệ An thành trấn Lâm An. Sang đến nhà Lê, đây là
đạo Tây Hải, rồi gọi là Nghệ An thừa tuyên. Thời Tây Sơn đặt là Trung Đô, sau
thành trấn Nghệ An. Đời nhà Nguyễn đất này là trấn Nghệ An. Năm Minh
Mạng thứ 12, vua đổi trấn thành tỉnh Nghệ An. Hà Tĩnh sau cũng trở thành một
trấn của tỉnh Nghệ An.
Từ những thế kỷ trước, Nghệ An là vùng biên viễn của nước Đại Việt,
cũng là nơi dân tộc ta đi tiếp tục cuộc hành trình mở mang bờ cõi về phương
Nam. Vì thế, nên từ xưa đã có câu ca dao:
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Vì nằm ở xa trung tâm, nên sự quản lý của nhà nước Đại Việt đối với
vùng đất này còn khá lỏng lẻo. Suốt khoảng thời gian dài, các triều đại phong
kiến chưa đủ sức quản lý chặt chẽ và giữ vững an ninh trật tự ở vùng đất này.
Các cộng đồng cư dân ở đây phần lớn phải tự bảo vệ cho sự bình yên của mình.
Mặt khác, do thường xuyên phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt nên con
người nơi đây phải vươn lên bằng sức mạnh của ý chí và nghị lực để tồn tại,
phát triển. Tất cả các yếu tố đó đã tạo nên nét “gia phong” của người Nghệ An.
Nghệ An mang nhiều nét chung, tiêu biểu của đất nước, dân tộc, con
người ở xứ sở sông Lam, núi Hồng cũng có những nét riêng, những đặc điểm
4
của xứ Nghệ. Nhà sử học Phan Huy Chú nhìn thấy ở đây không chỉ là vùng
“đất xấu, dân nghèo, tập tục cần kiệm, nhà nông chăm chỉ làm ruộng nương,
học trò ưa chuộng học hành”. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi đây
là địa phương có “núi cao sông rộng, phong tục thuần hậu, cảnh tượng tươi
sáng, gọi là đất danh tiếng hơn cả Nam Châu. Người thì thuận hòa mà chăm
học, sản vật thì nhiều thứ quý lạ...Được khí tốt của núi sông nên sinh ra nhiều
bậc danh hiền...”.
Nhân dân Nghệ An giàu truyền thống lao động sản xuất, đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, trong phong trào
Tây Sơn, vùng đất Nghệ An đóng góp nhiều vào cuộc đấu tranh cho độc lập,
thống nhất đất nước. Trong phong trào chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, nhân
dân Nghệ An đã vươn cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp.
Nghệ An là nơi hội tụ nhiều anh hùng, chiến sĩ đã lấy để lập căn cứ khởi
nghĩa như: năm 722, Mai Thúc Loan đã lấy vùng này để làm căn cứ khởi nghĩa
chống ác đô hộ nhà Đường. Vương Thúc Mậu lập đội chung nghĩa binh, dựng
cờ Cần Vương chống Pháp.
Với tất cả những truyền thống tốt đẹp ấy, Nghệ An trở thành cái nôi nuôi
dưỡng, hun đúc nên cậu bé Nguyễn Sinh Cung có tấm lòng nhân ái, tình yêu
quê hương, lòng yêu nước và thương dân.
1.1.1 Quê nội của Hồ Chí Minh.
Từ thành phố Vinh của tỉnh Nghệ An theo quốc lộ 46 cây số 13 rẽ vào con
đường đất đỏ rợp bóng hàng bạch đằng và phi lao, đến làng có những hồ sen
dọc hai bên đường đó chính là quê nội thân yêu của Hồ Chí Minh ở làng Kim
Liên thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Người dân ở đây có truyền thống hiếu học, có nhiều người đỗ đạt nhưng vẫn
còn là một vùng đất nghèo nên người dân phải lao động chân tay vất vả. Ngoài
việc làm ruộng người dân còn làm thêm nhiều nghề khác như dệt vải, đan lát
hoặc sơn tràng, kiếm củi, đốt than...
5
Xưa kia vùng này được gọi là Trại Sen với những địa danh toàn tên Sen
như: Đồng Sen Cạn, Đồng Sen Sâu, Đầm Sen, Vực sen, Chợ Sen.
“Trong đầm gì đẹp bằng Sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
“Nhất vui là cảnh quê mình
Kim Liên sen tốt, Ngọc Đình chuông kêu”.
Chính cái đẹp bình dị với hương thơm ngọt ngào quyến rũ của Sen đã tạo
nên cảnh trí thiên nhiên đặc sắc ở nơi đây nên làng có tên gọi là làng Sen.
Nghệ Tĩnh còn là quê hương của các nhà cách mạng yêu nước như Phan
Đình Phùng, Phạm Hồng Thái, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai và xa hơn
nữa dưới chân núi Hồng Lĩnh là quê hương của Nguyễn Công Trứ và đại thi
hào Nguyễn Du. Đất nước, núi sông quê hương Hồ Chí Minh gắn bó chặt chẽ
với lịch sử nước nhà.
Tuy là vùng đất sản sinh ra nhiều con người ưu tú như vậy nhưng khí hậu,
thổ nhưỡng ở đây không hề được thiên nhiên ưu đãi. Ruộng đất thì khô cằn,
mới nắng đã hạn, mới mưa đã lụt, luôn mất mùa nhiều nơi là đồng chua nước
mặn, khí hậu khắc nghiệt, đời sống của người dân rất cực khổ. Để thích nghi
với thiên nhiên khắc nghiệt như vậy người dân luôn luôn cần cù, siêng năng để
đấu tranh với thiên nhiên giành giật từng củ khoai, hạt lúa.
“Muốn ăn thì phải chăm làm
Một hạt thóc vàng chín hạt mồ hôi”.
“Làng Sen đóng khố thay quần
Ít cơm, nhiều cháo, tảo tần quanh năm”.
Thiên nhiên càng khắc nghiệt thì con người càng phải nghị lực dẻo dai,
bền bỉ. Cuộc sống đã rèn luyện cho con người ở nơi đây nghị lực, sự kiên
cường dũng cảm trong chiến đấu.
6
Nơi đây là một vùng đất tập trung nhiều di tích lịch sử, các bậc hiền tài,
các danh tướng của dân tộc. Chính nơi đây đã tạo điều kiện để cậu bé Nguyễn
Sinh Cung sớm nung nấu lòng yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
1.1.2 Quê ngoại của Hồ Chí Minh.
Làng Chùa cách làng Sen khoảng 2 km là một làng quê bình dị như mọi
làng quê khác ở Việt Nam, nhưng lại nổi tiếng trong và ngoài nước, vì đây là
quê ngoại của Hồ Chí Minh, nơi mà cậu bé Nguyễn Sinh cung đã cất tiếng khóc
chào đời, chung một xã Chung Cự với quê nội. Chính nơi đây, bà Hoàng Thị
Loan – thân mẫu của Người – đã được sinh ra và lớn lên bởi truyền thống của
họ Hoàng mà cha là cụ Hoàng Đường – có tiếng nhân từ, trọng nghĩa tình, sống
gần gũi với nhân dân.
Nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của Nam Đàn là hát phường vải. Quê
hương của hát phường vải là các làng ven núi Chung: Kim Liên, Hoàng Trù,
Ngọc Đình, Tịnh Lý,...Do làm nghề trồng bông vải nên hát phường vải là hình
thức sinh hoạt tinh thần rất phổ biến ở đây. Đêm đêm, trai gái trong vùng
thường quay xa, kéo sợi và hát với nhau, có khi sâu đêm suốt sáng. Ngoài hát
phường vải nơi đây còn có các làn điệu hát dặm ví đò đưa. Truyện cổ tích, ca
dao, tục ngữ.
Ông bà ngoại của Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nho học. Cụ
Hoàng Đường là một nhà nho yêu nước, cụ mở lớp dạy học tại nhà, cụ bà thì
làm ruộng và khi rảnh rỗi thì cùng hai cô con gái dệt vải. Ngôi nhà của cụ gồm
có 5 gian và hai chái, trong đó ba gian ngoài thông với nhà thờ rất thoáng mát.
Bộ phản kê ở gian thứ nhất là nơi cụ Đường dạy học. Gian thứ hai có bộ tràng
kỷ bằng tre, chiếc án thư với những dụng cụ dạy học như bút lông, nghiên
mực... Gian thứ ba có bộ phản dùng làm nơi nghỉ ngơi của thầy và trò. Hai gian
còn lại là nơi nghỉ ngơi của cụ bà và là nơi sinh hoạt của gia đình. Khi tác hợp
cho cậu học trò Nguyễn Sinh Sắc và con gái đầu lòng của mình là Hoàng Thị
Loan. Hai cụ đã làm một ngôi nhà tranh 3 gian nằm ở góc vườn phía tây. Gian
7
ngoài cạnh cửa sổ có chiếc án thư với nghiên mực, hộp đựng bút lông, hai chiếc
ghế vuông, chếch về phía trong là hai giá sách đựng sách thánh hiền. Tại gian
nhà này cụ Hoàng Đường thường qua đây trao đổi với ông Sắc về văn chương,
chữ nghĩa.Gian giữa sát phên có chiếc giường nhỏ bằng gỗ xoan, liếp nứa, trải
chiếu mộc, chiếc màn bằng vải nhuộm nâu là nơi nghỉ của ông Sắc và bà Loan.
Sát bên chiếc giường là chiếc rương gỗ nhỏ dùng đựng lương thực và các vật
quí của gia đình. Chiếc khung cửi đặt ở gian thứ ba là công cụ lao động của bà
Loan dùng để dệt vải, dệt lụa nuôi sống cả gia đình. Bà Hoàng Thị Loan vừa
dệt vải vừa hát ru con để chồng yên tâm việc bút nghiên. Tại đây còn có chiếc
võng gai đơn sơ, nơi xưa kia Bác Hồ đã từng nằm ngủ. Tuổi thơ của cậu bé
Nguyễn Sinh Cung đã được mẹ chăm sóc, vun đắp bằng những làn điệu dân ca
bay bổng chứa đựng những ước mơ cao đẹp, hy vọng sâu xa.
Sau hơn mấy mươi năm xa cách quê hương, bôn ba nơi xứ người. Ngày 9
– 12 – 1961, Bác Hồ về thăm lại ngôi nhà tranh, nơi mà cách đây hơn 70 mươi
năm Người đã cất tiếng khóc chào đời, đón nhận ánh dương đầu tiên của cuộc
sống, nơi đây đã ghi lại biết bao kỷ niệm êm đẹp, thân thương trong những năm
đầu thời ấu thơ của Bác.
Quê hương bên nội, bên ngoại của Hồ Chí Minh đã sớm hun đúc, nuôi
dưỡng tình cảm và tư tưởng yêu nước, thương nòi cho Người. Cái nôi văn hóa
gia đình và quê hương trở thành nguồn sữa nuôi dưỡng và là điểm tựa tinh thần
của Hồ Chí Minh trên bước đường cách mạng sau này.
1.2 Gia đình của Hồ Chí Minh.
Gia đình của Hồ Chí Minh thuộc gia đình những người lao động nghèo,
Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên trong một gia đình gia giáo, có tinh thần hiếu học
và đậm nét truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Cha là Cụ Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho có tấm lòng yêu nước nồng
nàn. Mẹ là bà Hoàng Thị Loan, bà là một phụ nữ cần cù lao động, đảm đang,
làm nghề nông và dệt vải, hết lòng yêu thương chăm sóc chồng con.
8
Chị cả của Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, có biệt danh là Bạc Liên.
Bà đã tham gia tích cực trong tổ chức chống Pháp của Đội Quyên, Đội Phấn.
Đối với chị Thanh, Bác Hồ được đón nhận tình thương vô hạn, chị đã hi sinh
hạnh phúc riêng để giúp gia đình vượt qua khó khăn từ khi bà Loan mất. Anh
trai Nguyễn Sinh Khiêm tham gia trong hoạt động chống Pháp, và các hoạt
động yêu nước khác. Là một người anh rất mực yêu thương em mình.
1.2.1 Cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Hồ Chí Minh .
Cụ Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862 tại làng Kim Liên, thuộc xã Chung
Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông Sắc xuất thân trong
một gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ từ sớm, sống với anh trai cùng cha khác
mẹ, từ nhỏ đã làm lụng vất vả. Không được đi học nhưng ông rất ham học. Mỗi
khi đi chăn trâu qua cổng lớp học của thầy đồ Vương Thúc Mậu là ông thường
mải mê nghe giảng rồi tập viết vào nền đất, lá cây.
Thưở ấy có Thầy Hoàng Đường ở làng Chùa hay đến làng Sen chơi cùng
Thầy Vương Thúc Mậu, thấy cậu bé chăn trâu ham học, biết hoàn cảnh gia đình
khó khăn nên Thầy Hoàng Đường xin về nuôi dạy. Từ đó, ông được di học. Vài
năm sau, khi trình độ học vấn đã khá, ông Hoàng Đường đã cho Sinh Sắc theo
học Thầy Nguyễn Thức Tự, một người nổi tiếng uyên bác, ông Sắc trở thành
người học giỏi có tiếng vào hàng nhất nhì ở làng Sen.
Được mọi người trong làng yêu mến vì vừa học giỏi, vừa lễ độ, nên cụ
Hoàng Đường đã gả con gái lớn của mình là Hoàng Thị Loan cho Sinh Sắc.
Năm 1883, lễ cưới được tổ chức tại làng Chùa. Khoa thi Hương năm Tân Mão
1891, ông chỉ đậu nhị trường. Năm 1895, ông dự kỳ thi Hội khoa Ất Mùi
nhưng không đậu, lòng ông nặng trĩu bao nhiêu điều nghĩ ngợi trăn trở. Sau đó,
ông đã đưa gia đình vào Huế sinh sống để ông yên tâm lo thi cử. Cuộc sống
khó khăn của gia đình phải trông nhờ vào sự đảm đang lo toan của bà Loan. Bà
tiếp tục dệt vải để nuôi con, nuôi chồng ăn học. Ông được nhận vào học tại
Quốc Tử Giám để ôn luyện chờ khoa thi sau.
9
Năm 1898, ông Sắc trượt khoa thi Hội, ông không còn là nho sinh tại
Quốc Tử Giám nên cũng không được nhận học bổng của trường. Cuối năm
1898, ông Sắc đã tìm được chỗ dạy tại nhà ông Nguyễn Sĩ Độ ở làng Dương
Nỗ, huyện Phú Vang, cách thành phố Huế khoảng 7 km. Ông đem hai con
Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung theo đến đây ở trong nhà người em
ông Nguyễn Sĩ Độ là Nguyễn Sĩ Khuyến, để vừa dạy học vừa dạy chữ cho con,
còn bà Loan vẫn ở lại Huế. Bà con trong làng và các vùng lân cận nghe tiếng
ông hay chữ đã cho con em đến học ngày càng đông. Học trò thuộc nhiều lứa
tuổi khác nhau, tuy bận rộn với việc dạy học nhưng ông vẫn ôn luyện chờ khoa
thi sau. Hàng tháng, ông vẫn xin dự thính bình văn ở trường Quốc Tử Giám.
Năm Canh Tý 1900, ông Sắc được cử đi làm giám thị cho kỳ thi Hương
tại Thanh Hóa. Tại Huế, cuối năm bà Hoàng Thị Loan đã sinh con thứ tư, vì bà
thiếu sữa phải chon con đi bú nhờ nên bà con gọi cậu con cái trai út Nguyễn
Sinh Nhuận là Xin. Sau cái chết của vợ, ông đưa con trở về quê mở lớp dạy học
để nuôi con. Nhiều người xa gần nghe tiếng của ông đã gửi con đến nhờ ông
dạy dỗ.
Được sự động viên của bà con, nghĩ đến sự hy sinh cao cả của vợ hiền và
ơn nghĩa của cha mẹ vợ, ông quyết tâm vào Huế dự thi Hội lần nữa. Tại khoa
thi Hội năm Tân Sửu 1901, Nguyễn Sinh Sắc (lúc này lấy tên là Nguyễn Sinh
Huy), đậu Phó bảng. Sau khi về quê vinh quy bái tổ, mãi đến năm 1906,
Nguyễn Sinh Sắc không trở lại Kinh chờ lệnh bổ hàm. Mâu thẫu trong lòng ông
thực ra cũng là điều trăm trở của nhiều sĩ phu lúc bấy giờ. Ba mươi năm dùi
mài kinh sử mới đỗ đạt thế nhưng rồi ông chần chừ không muốn ra làm quan.
Làm quan thì mới lo lắng được cho gia đình, nuôi dạy các con và phụng dưỡng
người mẹ vợ đã già. Đây cũng là con đường ông đã chọn để đáp lại tấm lòng
của cha mẹ vợ, của người vợ đã tận tình lo lắng cho ông suốt bao năm. Thế
nhưng, thân phận của người dân mất nước cùng sự nhốn nháo chốn quan
trường lúc này làm cho ông trăn trở. Ông đã chọn cách cáo ốm để không ra
10
nhận chức. Ông dùng thời gian này đưa hai con đi nhiều nơi trong các tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh dạy học và giao du với các sĩ phu. Nhờ đó mà dù còn nhỏ
nhưng Nguyễn Tất Thành đã được đi nhiều nơi, thấy được nhiều cảnh đời khác
nhau, cảm nhận được sự nghèo khổ của nhân dân và nỗi nhục mất nước, được
sự tiếp xúc với nhiều nhà nho yêu nước và những suy nghĩ, trăn trở của họ về
thời cuộc từ đó mở rộng tầm mắt hơn.
Cuối cùng, không thể trì hoãn được nữa, tháng 5 – 1906, ông Sắc đưa hai
con trai đến Huế để nhậm chức. Tại đây, ông làm việc cho Bộ Lễ. Năm 1909,
triều đình bổ nhiệm ông làm Thừa biện Bộ Lễ chuyên coi sóc việc học hành.
Mỗi tháng hai lần, ông đến giảng đường Di Luân, Quốc Tử Giám để trông coi
các cuộc bình văn.
Tháng 5 – 1909, ông được cử đi chấm thi hương ở Bình Định. Do ông có
quan hệ rộng rãi với nhiều nho sĩ có tư tưởng yêu nước, tiến bộ đã bị bắt trong
cuộc đàn áp chống thuế và cuộc vận động duy tân, triều đình đã đổi ông làm Tri
huyện Bình Khê ở Bình Định ( 7-1909). Ông làm quan chính trực, thương yêu
dân và hay bênh vực người nghèo nên không được hàng ngũ hương chức ủng
hộ. Nhân vụ kiện của gia đình Tạ Đức Quang, dù Bộ Hình đã có tờ trình rõ
ràng nhưng ông vẫn bị triều đình và Tòa Khâm sứ giáng chức thành dân thường
và buộc phải đi xa. Bản án được duyệt ngày 27 – 8 – 1910.
Để biết tin tức của con, ông Sắc đã đi hết nơi này đến nơi khác tìm gặp
những người quen để hỏi thăm. Ông đã gặp con mình ở Sài Gòn trước khi
Nguyễn Tất Thành lên tàu ra đi tìm đường cứu nước và phải đến gần 10 năm
sau ngày chia tay, ông mới biết tin của con. Biết tin con qua những người thủy
thủ từ Pháp về, biết tin con qua bản Yêu sách mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt
Hội nghị Versaille. Ông Phó bảng cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi Tất Thành
vẫn tiếp tục đi theo con đường yêu nước mà hai cha con đã chọn. Từ đó ông
thường đi khắp đó đây giao du với bạn bè. Cuối cùng, ông chọn Cao Lãnh là
nơi có phong trào yêu nước phát triển mạnh để sống và đã mất tại đây năm
11
1929. Năm 1975, phần mộ ông được nhân dân tỉnh Đồng Tháp tu bổ gọi là
Lăng cụ Phó bảng.
1.2.2 Bà Hoàng Thị Loan – thân mẫu của Hồ Chí Minh.
Thân mẫu của Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan (1868 – 1901), là con
của nhà nho Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép. Bà Hoàng Thị Loan là một
người phụ nữ cần cù lao động, đảm đang, làm nghề nông và dệt vải, hiểu biết
chữ nghĩa, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, hết lòng yêu thương và chăm sóc chồng
chu đáo.
Bà Hoàng Thị Loan sinh ra trong một gia đình nho học, trung lưu. Ông
ngoại là cụ Nguyễn Văn Giáp ở làng Kẻ Sía thuộc xã Hưng Đạo, huyện Hưng
Nguyên, đỗ bốn lần tú tài. Ông nội là cụ Hoàng Xuân Cẩn, ba lần đi thi đều đậu
tú tài. Trong căn nhà gỗ năm gian, lợp tranh, hai gian ngoài được dùng làm nơi
dạy học của cụ Hoàng Đường, nên chị em bà cũng được học được một ít chữ
nghĩa. Gia đình nhà bà Loan được nhân dân trong vùng rất kính trọng yêu mến
vì tính hiền lành, trung thực, hay giúp người.
Năm 1883, tại làng Chùa, Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan làm lễ
thành hôn. Để mừng lễ thành hôn của con gái, ông bà Hoàng Đường đã dựng
một ngôi nhà tranh ba gian trong vườn cho đôi vợ chồng trẻ. Làm bằng tre gỗ
trong vườn, lợp tranh. Gian nhà ngoài là nơi nghỉ của ông Sắc, hai gian trong là
nơi nghỉ, nơi dệt vải của bà Loan. Trong căn nhà đơn sơ nhưng với bàn tay
khéo léo, đảm đang của người phụ nữ nên lúc nào cũng tươm tất, sạch sẽ và ấm
cúng. Những năm tháng tuổi thơ của ba chị em Nguyễn Sinh Cung được cha
mẹ nuôi dưỡng trong ngôi nhà nhỏ bé này. Tại đây, một chiếc võng mắc bên
cạnh giường nằm và khung dệt vải của mẹ, biết bao nhiêu bài hát, bài vè, điệu
ru con mang nặng tình non nước và đạo lý làm người đã đi sâu vào tâm hồn
non trẻ của ba chị em cậu. Từ ngày lấy nhau, bà ngày đêm tần tảo giúp đỡ
chồng ăn học, ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan sống với nhau rất
12
đỗi hòa thuận, đầm ấm. Đêm đêm dưới ánh sáng đèn dầu lạc, ông Sắc đọc sách,
bà Loan kéo sợi dệt vải với cảnh:
“Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”.
Năm 1884, bà Hoàng Thị Loan đã hạ sinh cô con gái đầu lòng tên là
Nguyễn Thị Thanh. Năm 1888, sinh con trai thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm.
Năm 1890, sinh người con trai thứ ba là Nguyễn Sinh Cung. Năm 1900, sinh
con út là Nguyễn Sinh Nhuận.
Từ mái tranh nghèo, bà Loan lo toan việc ruộng vườn và làm thêm ngề
dệt vải, chăm sóc các con để chồng an tâm học hành. Từ nơi tổ ấm đó, chị em
Nguyễn Sinh Cung lớn lên đều chịu ảnh hưởng đức tính giàu lòng vị tha, cần
mẫn, chung thủy của người mẹ. Những tình cảm đó đã nảy nở lên tình yêu Tổ
quốc, để rồi sau đó cả ba chị em đều hy sinh tình nhà vì đất nước, vì dân tộc.
Do hoàn cảnh khó khăn, bà phải gửi con gái về quê ngoại, cùng hai con
trai vào Huế đỡ đần chồng. Bà Hoàng Thị Loan miệt mài bên khung cửi để
kiếm thêm tiền vừa nuôi con, vừa giúp đỡ chồng.
Cuộc sống thường xuyên bị túng thiếu, vất vả hàng ngày, năm 1900 sau
khi sinh con trai út là Nguyễn Sinh Nhuận, bà Loan đã mắc bệnh hiểm nghèo.
Ngày 10 – 2 – 1901, bà qua đời tại Huế, trong lúc tuổi đời còn rất trẻ. Thi hài
của bà được mai táng tại chân núi Ba Tầng thuộc dãy Ngự Bình bên dòng sông
Hương thơ mộng. Năm 1922, hài cốt của bà được cô con gái lớn là Nguyễn Thị
Thanh đưa về an táng tại vườn nhà mình ở làng Kim Liên. Năm 1942, hài cốt
của bà được an táng tại ngọn núi Động Tranh, trong dãy Đại Huệ. Năm 1984,
khu mộ của bà Hoàng Thị Loan được xây dựng khang trang, đẹp đẽ.
1.2.3 Nguyễn Thị Thanh – chị gái của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Thanh cô con gái đầu lòng của cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà
Hoàng Thị Loan, Cô có biệt hiệu là Bạch Liên, được nhân dân tôn sùng là Bạch
Liên nữ sĩ.
13
Sinh ra trong một gia đình nho học, gốc nông dân, có truyền thống tốt đẹp
về lòng yêu nước. Cô Thanh đã tiếp thu những truyền thống tốt đẹp ấy từ gia
đình bên nội và bên ngoại, nên cô hiểu biết rất nhiều. Tuy không theo học ở
trường chữ Hán nhưng cô có trình độ Hán học rất khá. cô còn am hiểu về y học
dân gian nên Cô đã vận dụng sự hiểu biết của mình để trị bệnh cho nhân dân.
Năm cô lên 11 tuổi, bà Hoàng Thị Loan đưa hai con trai vào Huế, để cô
lại với bà ngoại. Lúc này, dì An đã về nhà chồng, bà ngoại đã ngoài 60 tuổi,
mọi việc sinh hoạt thường ngày trong nhà cô đều giúp bà lo liệu.
Năm 1901, sau khi mẹ qua đời, cha cô đưa hai em trai trở lại làng Hoàng
Trù, cô phải nuôi nấng chăm sóc các em. Cô rất xinh đẹp, thông minh và đảm
đang nên có nhiều chàng trai đem lòng yêu thương và hỏi cưới làm vợ. Các
chàng trai đó đều là con nhà giàu có, có học hành, nhưng cô đều từ chối.
Năm 1906, ông Nguyễn Sinh Sắc đem hai con vào Huế để nhận chức. Từ
nay, một mình cô ở lại quê nhà và bắt đầu tham gia các hoạt động cứu nước. Cô
đã tham gia hoạt động cách mạng yêu nước trong phong trào của Phan Bội
Châu. Ngoài ra cô còn tham gia tích cực trong tổ chức chống Pháp của Đội
Quyên, Đội Phấn.
Cuối năm 1910, trong một chuyến đi liên lạc với nghĩa quân Đội Quyên,
Đội Phấn, cô bị bọn thực dân Pháp bắt ngay giữa đường, cô đã nhanh chóng thủ
tiêu các tài liệu bí mật mang theo trong người. Thực dân Pháp bắt cô nhốt vào
nhà tù và dùng mọi thủ đoạn dã man để tra tấn cô để chúng khai thác nguồn tài
liệu bí mật của nghĩa quân. Nhưng với lòng yêu nước và chí trung kiên đã giúp
cô vượt qua tất cả.
Trong tập hồ sơ theo dõi hoạt động cứu nước của cô Thanh do Tòa khâm
sứ Trung Kỳ lập mang ký hiệu A.11667 có đoạn viết : ‘‘ Trong một bản thông
báo đề ngày 8 tháng 3 năm 1911 do quan bảo hộ ở Bộ Lại nói :…Liên là con
gái Nguyễn Sinh Huy, tên Liên được các nhà nho gọi là Bạch Liên cô. Các
quan lại ở Nghệ An đều biết rõ, nhưng không dám bắt, mà cũng không dám nói
14
đến. Bị tình nghi có quan hệ với Đội Quyên và Ấm Võ, bị bắt và trả tự do vào
đầu năm 1911’’.
Sau khi thoát khỏi nhà tù thực dân Pháp, cô mở một quán cơm kề thành
phố Vinh, nhằm khai thác bí mật của thực dân Pháp và lấy vũ khí tiếp tế cho
nghĩa quân Đội Quyên, Đội Phấn. Đầu năm 1918, cô bị bắt vì tội lấy trộm súng.
Ngày 4 – 6 – 1918 tại thành phố Vinh, thực dân Pháp đã chỉ thị cho Nam Triều
mở phiên tòa số 80, xử cô với án đánh 100 trượng và tù khổ sai 9 năm, đày
cách quê hương 3.000 dặm. Thực thi bản án, ngày 2 – 12 – 1918, chúng giam
cô tại nhà lao tỉnh Quãng Ngãi. Tại đây, cô được Phạm Bá Phổ (Án sát Quãng
Ngãi lúc bấy giờ) rất ưu ái và đưa về nhà riêng dạy học cho con của ông là
Phạm Bá Nguyên. Phạm Bá Nguyên lớn lên chịu sự ảnh hưởng của cô nên
cũng có tư tưởng tiến bộ.
Tháng 1 – 1926, cô đã gửi đến cho toàn quyền Đông Dương và Khâm sứ
Trung Kỳ một lá thư nói rõ thái độ chính trị của mình và đòi ân xá cho vua
Thành Thái và vua Duy Tân đang bị chúng giam giữ.
Đầu năm 1926, cô cùng với em trai là Nguyễn Sinh Khiêm lên hoạt động
ở vùng Sơn Quả, Cổ Bi, ở nhà ông Hồ Văn Hiến và bị bọn mật thám theo dõi.
Khoảng thời gian này, chính quyền thực dân và phong kiến Nam Triều ở Huế
quản lý cô và ông Khiêm chặt chẽ hơn.
Năm 1930, với lòng dũng cảm và yêu thương quê hương tha thiết, cô đã
tìm cách thiết phục, căn ngăn Phạm Bá Phổ về làng Sen để trấn áp những người
cách mạng và ra lệnh "đốt sạch, phá sạch" làng Sen quê hương yêu mếm của
cô.
Năm 1938, cô chuyển về Phú Lễ, cô làm tất cả các công việc để giúp dân
như: bắt mạch, bốc thuốc, mở lớp dạy chữ Hán. Sau đó, cô về lại Nam Đàn làm
nghề bắt mạch. bốc thuốc trị bệnh cho dân.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cô được chuyển về Kim Liên, được
Đảng và Nhà nước chăm sóc chu đáo. Cô đã qua đời tại Kim Liên năm 1954.
15
Cuộc đời cô Nguyễn Thị Thanh là một tấm gương sáng về lòng yêu nước,
thương dân, thông minh và hiếu học. Cô là một người phụ nữ dũng cảm, hy
sinh cả tuổi thanh xuân của mình để hiến dâng cho sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc. Là một người chị xứng đáng của Hồ Chí Minh.
1.2.4 Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Sinh Khiêm sinh năm 1888, là con trai thứ hai của cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan. Nguyễn Sinh Khiêm vốn thông minh
và hiếu học, ông biết cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Lúc nhỏ, được
cha dạy học, sau đó được học với thầy Vương Thúc Quý. Năm 1906, ông cùng
em trai là Nguyễn Tất Thành vào học tại trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba ở
Huế, sau đó ông được tuyển vào Trường Quốc học Huế.
Khi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vào Bình Khê nhậm chức Tri huyện,
Sinh Khiêm trở về quê sống với chị gái, bắt đầu tham gia vào các hoạt động
yêu nước. Ở quê nhà ông dạy chữ Quốc ngữ cho các em nhỏ trong vùng, khi
liên lạc với Đội Quyên, Đội Phấn ông mở lớp dạy võ, do Đội Phấn đảm nhiệm.
Năm 1912, khi ông nghe tin Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut đi
qua Vinh, ông đã thay mặt cho nhân dân làng Sen đưa bản yêu sách đòi nhà
nước bảo hộ phải nới rộng quyền tự do, giảm bớt sưu thuế, mở mang việc học
hành cho dân bản xứ.
Năm 1913, ông tham gia Hội đồng lý dịch làng Sen, ông đã tìm cách rút
ruộng đất chia cho nhân dân, đồng thời ông đã lập nên một bản hương ước về
cải cách cúng tế, bỏ bớt lễ lạt…để nhân dân đỡ gánh nặng bỡi những tục lệ
khắc nghiệt lâu đời của chế độ phong kiến.
Năm 1914, chính quyền thống trị phát hiện ông có liên quan đến các
phong trào yêu nước, chúng đã triệu tập ông xuống Vinh để hăm dọa, mua
chuộc ông nhằm bắt Đội Quyên và Đội Phấn, mọi việc đã bị bại lộ, ông đã bị
bắt giam, ngày 25 – 9 – 1914, chính quyền đã kết án ông 3 năm tù khổ sai. Khi
vào tù, ông tìm mọi cách vượt ngục nhưng không thành, ông lại bị tăng án lên 9
16
năm tù. Sau 5 năm tù ở Nha Trang, ngày 17 – 3 – 1920 , ông được chuyển ra
Huế giam lỏng. Ở đây, ông làm thuốc trị bệnh cho nhân dân, mở lớp dạy chữ
Hán cho các em nhỏ. Khi ông gặp chị gái là Nguyễn Thị Thanh, ông đã tham
gia vào hoạt động trong tổ chức yêu nước của nhóm trí thức tiến bộ ở Huế.
Đầu năm 1940, ông được chính quyền thực dân trả về làng Kim Liên. Tại
quê nhà ông đã tổ chức diễn vở tuồng ‘‘Trưng Nữ Vương ’’, nhằm thúc đẩy và
khơi dậy lòng yêu nước trong quần chúng nhân dân và tập hợp những người có
nghĩa khí. Trong cuộc họp bí mật, ông đã bị mật thám vây bắt và tại phiên tòa
ngày 27 – 8 – 1940, ông bị kết án 2 tháng tù và phạt 20 đồng bạc, ông bị giam
tại nhà lao Vinh. Đến ngày 16 – 8 – 1941, ông được thả về.
Cách mạng tháng Tám – 1945 thành công, ông vẫn chiếc mũ calô, khoác
súng gỗ, hăng hái trong đoàn người biểu dương lực lượng cách mạng. Cuối
năm 1946, ông ra Hà Nội thăm em trai của mình lúc đó là Chủ tịch kính yêu
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, ông tham gia hoạt động trong Hội Phụ lão cứu quốc ở quê nhà – làng
Kim Liên. Ngày 23 – 8 – 1950, ông đã qua đời tại Kim Liên.
1.2.5 Bà ngoại của Hồ Chí Minh.
Cụ Nguyễn Thị Kép – bà ngoại của Hồ Chí Minh là con của nhà nho
Nguyễn Văn Giáp ở làng Kẻ Sía. Khi cụ Hoàng Đường chọn ông Nguyễn Sinh
Sắc làm con rể của mình thì cụ Kép chưa đồng ý vì không môn đăng hộ đối.
Nhưng khi ông Nguyễn Sinh Sắc cưới con gái của cụ, khi bà Hoàng Thị Loan
sinh các con, cụ rất mực thương yêu và đùm bọc các cháu của mình. Cụ là
người rất gần gũi với Nguyễn Sinh Cung, là người dạy cho cậu bé Cung những
bài học vỡ lòng về lòng yêu nước thương dân.
Sau khi con gái của cụ là bà Hoàng Thị Loan qua đời, gánh nặng gia đình
đè nặng lên vai cụ Kép, nhưng cụ vẫn tận tình động viên cho con rể vào kinh
thi Hội.
17
Trong thời gian con rể ra kinh thi Hội, một mình cụ chẳng ngại tuổi già
mà trông nom bốn đứa cháu, đứa nhỏ nhất vẫn còn ẵm bòng. Do thiếu sữa nên
bé Nguyễn Sinh Nhuận đã bệnh và mất.
Cụ rất mực thương yêu, chiều chuộng các cháu trong nhà. Với Sinh Cung,
chẳng khi cụ quở mắng, cụ không để cho các cháu chơi lêu lổng. Khi ông Sắc
đi Huế ít lâu sau, cụ gửi cháu sang làng Hữu Biệt để học chữ Hán với thầy đồ
Hoàng Phan Quỳnh. Chính cụ là người gần gũi với Sinh Cung, kể cho Sinh
Cung nghe những câu chuyện về lòng yêu nước thương dân, về sự đau đớn,
khắc khoải khi đất nước còn lầm than – như tiếng cuốc kêu suốt cả mùa hè, mỗi
tiếng kêu của nó là một giọt máu nhỏ từ trong tim ra. Những câu chuyện đầy
tính nhân văn ấy đã thấm đượm trong tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung, nó đã
nuôi dưỡng và hun đúc lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước trong cậu bé
Cung từ thưở ấu thơ. Vì tuổi cao, sức yếu lại bệnh nặng, cụ đã qua đời ngày 6 –
4 – 1904 năm Giáp Thìn.
Gia đình luôn là nơi hình thành những nét cảm tính, những nét lý tính,
những nét nhân cánh đầu tiên của một con người. Câu nói: "Cha nào con nấy"
đã xác định tầm quan trọng của giáo dục gia đình. Những dấu ấn gia đình trong
tâm hồn thời niên thiếu, nếu về sau có bị phủ lấp bởi bụi bặm thời gian đi nữa,
nó vẫn trường tồn như một lớp trầm tích của trái đất. Nó không hẳn một mình
quyết định tương lai của một con người nhưng nó vẫn luôn dõi theo ta, nó trở
thành một trong những điều kiện phát triển tinh thần của ta, và của bất cứ ai.
Với Hồ Chí Minh thì: gia đình cần cù, gương mẫu, quê hương trí tuệ, anh hùng
là tảng đán nền của nhân cách, tính tình, tư tưởng.
1.3 Quãng đời niên thiếu của Hồ Chí Minh 1890 – 1911.
1.3.1 Thời thơ ấu của Hồ Chí Minh .
Tuổi thơ của Nguyễn Sinh Cung không chỉ trải qua những năm tháng đẹp
đẽ của gia đình mà còn hòa mình vào cuộc sống của quê hương, ở trường học
lúc bấy giờ.
18
Nguyễn Sinh Cung sinh ra và lớn lên được sự giáo dục, dạy dỗ trực tiếp
của ba thế hệ: ông bà, cha mẹ, anh chị. Đó là những người có học vấn, trực tiếp
lao động, có nếp sống văn hóa tốt đẹp. Các thế hệ gia đình Nguyễn Sinh Cung
lấy việc dạy học, làm ruộng, vệt vải làm nguồn thu nhập chính, sống bằng lao
động như bất kỳ một người dân bình thường khác.
Từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung được sống trong một gia đình có lối sống văn
hóa đặc sắc: yêu nước, nhân ái, sống có nghĩa, có tình, luôn luôn phấn đấu trở
thành những người có ích cho dân, cho nước.
Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung luôn được giáo dục lòng nhân ái. Qua
tấm gương của mình, bà Hoàng Thị Loan đã dạy con biết cách cư xử, sống vì
mọi người trong tình làng, nghĩa nước, biểu hiện của đạo lý: “thương người
như thể thương thân”. Đặc biệt, việc ông Sắc không tổ chức ăn mừng khi thi
đỗ, từ chối nghi lễ đón tiếp vinh quy, lại lấy một phần quỹ làng khao thưởng
cho mình khi đậu Phó bảng để cấp cho các gia đình nghèo khổ là biểu hiện của
tấm lòng thương dân cao cả, một giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống nhân
dân.
Nguyễn Sinh Cung đã sớm tiếp nhận những đức tính, truyền thống tốt đẹp
đó trong quá trình hình thành tư tưởng nhân ái của mình.
Thêm vào đó, Nguyễn Sinh Cung còn được nuôi dưỡng tâm hồn bằng
nguồn văn hóa dân gian đậm đà, sâu lắng của bà ngoại, mẹ, và dì An. Cậu Cung
đều thuộc rất nhiều những bài ca, câu vè, điệu hát ru nặng tình non nước. Lúc
nhỏ cậu bé Cung hay thường đọc các câu ca dao như :
“Quê ta ngọt mía Nam Đàn
Bùi khoai chợ Rỗ, thơm cam Xã Đoài
Ai về nhớ nhớ chăng ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”.
“Làng Chùa mến cảnh vui hay
Trên chùa, dưới giếng đã hay địa hình”.
19
Những sinh hoạt văn hóa như lẩy Kiều, kể chuyện cổ tích, hát phường
vải đã hằn in vào tâm hồn, nuôi dưỡng tuổi thơ Nguyễn Sinh Cung những tư
tưởng, tình cảm tốt đẹp đối với những người lao động, một quê hương biết mấy
yêu thương. Những tình cảm đó đã được vun trồng ngay từ thưở thiếu thời,
theo năm tháng, thấm vào mỗi suy nghĩ và hành động cách mạng của cậu Cung,
ngày càng được bồi dưỡng và nâng cao, làm cơ sở bền vững cho tư tưởng quý
trọng và nâng niu vốn văn hóa, văn nghệ dân tộc – nguồn mạch quý giá không
bao giờ cạn kiệt.
Như vậy, từ môi trường gia đình, bằng tấm gương của người ruột thịt,
Nguyễn Sinh Cung không chỉ được giáo dục những tri thức về cuộc sống, cảm
nhận thiên nhiên để thêm yêu làng, yêu nước, yêu truyền thống lịch sử dân tộc,
mà còn được dạy bảo rất chu đáo cách đối nhân xử thế, nhân cách làm người.
Nhân cách nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đó.
1.3.2 Thời niên thiếu của Hồ Chí Minh.
Ngoài Nghệ An quê hương của Bác, cố đô Huế là nơi Bác đã sống lâu
nhất gần khoảng mười năm.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh trai theo cha mẹ vào Huế để ông
Sắc ôn luyện đi thi. Vừa học, ông vừa dạy kèm cho hai con. Vì thế, người thầy
đầu tiên và có ảnh hưởng quan trọng đến Nguyễn Tất Thành chính là cha của
Người.
Ngôi nhà đầu tiên của Hồ Chí Minh khi đến Huế nằm trong Thành nội.
Nhà văn Thanh Tịnh miêu tả ngôi nhà của Hồ Chí Minh.
“Ăn nhờ ở đậu lân la
Mới thuê được một gian nhà hướng Nam
Xế hiên một gốc mai vàng
Trước sân bông bụt một hàng dậu thưa
Bên này nhà chú thợ cưa
Bên kia nhà một biên Thừa Bộ Binh
20
- Xem thêm -