HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TIẾN THẠO
VĂN HÓA GIA ĐÌNH
Ở THÀNH PHỐ BẢO LỘC - LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
Chuyên ngành
: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 06 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ XUÂN KIÊU
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Xuân Kiêu, các số
liệu đưa ra trong luận văn có chứng cứ rõ ràng. Những kết
luận mới về khoa học của luận văn chưa hề được công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Trần Tiến Thạo
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH
LÂM ĐỒNG
9
1.1. Một số vấn đề lý luận về văn hóa gia đình
9
1.2. Khái quát chung về thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng
23
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO
LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
31
2.1. Thực trạng văn hóa sản sinh và nuôi dạy con người trong các gia
đình ở thành phố Bảo Lộc
31
2.2. Thực trạng văn hóa vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất
của các gia đình ở thành phố Bảo Lộc
42
2.3. Thực trạng văn hóa tinh thần và tiêu dùng các sản phẩm tinh thần
của các gia đình ở thành phố Bảo Lộc
54
Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ BẢO
LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP,
KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
3.1. Đánh giá về văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng
72
72
3.2. Những nhân tố tác động văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc,
tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới
80
3.3. Những giải pháp, kiến nghị đề xuất
89
KẾT LUẬN
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CB, CNVC
:
Cán bộ, Công nhân viên chức
CLB
:
Câu lạc bộ
ĐBDTTS
: Đồng bào dân tộc thiểu số
GS
:
Giáo sư
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
KHKT
:
Khoa học kỹ thuật
KHHGĐ
: Kế hoạch hóa gia đình
PGS
:
Phó giáo sư
PTTH
:
Phổ thông trung học
SKSS
: Sức khỏe sinh sản
TDĐKXDĐSVH
: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
THCS
:
Trung học cơ sở
TS
:
Tiến sĩ
UBMTTQVN
:
Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
UBND
:
Ủy ban nhân dân
UNESCO
:
Tổ chức văn hóa và khoa học giáo dục
của Liên hợp quốc
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
Trang
Biểu đồ 2.1: Khảo sát về sự quan tâm coi trọng con trai hay con gái
trong gia đình
34
Biểu đồ 2.2: Khảo sát về sự coi trọng giáo dục con cái trong gia đình
39
Biểu đồ 2.3: Khảo sát mức chi phí của gia đình
51
Biểu đồ 2.4: Khảo sát về hôn nhân trong gia đình
55
Biểu đồ 2.5: Khảo sát việc sử dụng thời gian rỗi của các gia đình
67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là nền tảng của xã hội. Sự ổn định và phát triển của xã hội phụ
thuộc rất lớn vào gia đình. Một xã hội phát triển phồn vinh chỉ có thể xây
dựng trên nền tảng của gia đình ấm no, hạnh phúc. Là thiết chế xã hội cơ bản,
gia đình không chỉ là môi trường quan trọng nhất để hình thành nuôi dưỡng
và giáo dục nhân cách con người mà gia đình còn là nơi bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó xây dựng văn
hóa gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống dân tộc. Con người là chủ thể của văn hoá và cũng là sản
phẩm của văn hóa. Cá thể người chỉ trở thành con người nhờ có quá trình
nhập thân văn hóa, mà trước hết diễn ra trong môi trường gia đình. Chính gia
đình là một thiết chế văn hoá góp phần tạo dựng nên nền tảng của xã hội. Xã
hội càng phát triển, càng phản ánh sự đa dạng phong phú trong cuộc sống gia
đình. Gia đình càng hoàn thiện, càng ổn định và có nền tảng văn hoá sẽ góp
phần xây dựng lối sống tốt đẹp cho xã hội. Khi gia đình và xã hội không gắn
kết, đồng phát triển sẽ tạo nên sự trì trệ, xáo trộn và mất ổn định xã hội.
Trong các văn kiện của Đảng, vấn đề gia đình chiếm vị trí quan trọng
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã
hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh
tế mới, con người mới". Các Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X của
Đảng Cộng sản Việt Nam đều đề cập đến vị trí, vai trò của gia đình trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đến Đại hội XI của Đảng, vị trí, vai
trò của gia đình được xác định cụ thể và rõ ràng hơn: Phát huy giá trị truyền
thống của gia đình Việt Nam, thích ứng với những giá trị của quá trình CNH,
HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ
ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
2
Từ những trình bày trên đây cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của
gia đình nói chung, văn hóa gia đình nói riêng trong việc tạo ra môi trường
lành mạnh, nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở nước ta, trong quá trình đổi mới, với truyền thống giàu lòng nhân ái,
thủy chung, trọng tình nghĩa, giá trị của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình và
vai trò của gia đình trong quan hệ nhà - làng - nước vẫn được chú trọng. Hiện
nay, nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những đức tính,
phẩm chất tốt đẹp của đạo đức gia đình, văn hóa gia đình truyền thống. Cùng
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của mỗi gia đình được nâng lên, là điều kiện thuận lợi cho việc phát
huy các giá trị của văn hóa gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh đó,văn hóa gia đình ở nước ta hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề. Sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của các sản phẩm
phi văn hóa, của lối sống thực dụng phương Tây… đang làm băng hoại văn
hóa, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ các gia đình. Những quan
hệ thiêng liêng trong gia đình như cha mẹ và con cái, vợ chồng, anh em với
những chuẩn mực đạo đức cơ bản là tình nghĩa, thủy chung, hiếu thảo, hòa
thuận đang có nguy cơ bị xâm hại, lấn át bởi sức mạnh của đồng tiền. Nhiều
biểu hiện tiêu cực về đạo đức gia đình đã và đang phát sinh, ảnh hưởng không
nhỏ tới đạo đức cá nhân và văn hóa gia đình trên địa bàn cả nước nói chung ở
thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
Thành phố Bảo Lộc là một thành phố mới được thành lập của tỉnh Lâm
Đồng, thuộc đô thị miền núi của khu vực nam Tây Nguyên, nằm trên cao
nguyên Di Linh, là trung tâm kinh tế khu vực phía nam của tỉnh. Là một thành
phố đô thị loại 3, thành phố Bảo Lộc có tính chất đặc thù riêng, hoàn toàn
khác so với nhiều thành phố trong cả nước. Đó là thành phố miền núi thuộc
cao nguyên vừa có thành thị và nông thôn, với 11 đơn vị hành chính, gồm 6
phường và 5 xã; là địa bàn cư trú của hơn 20 dân tộc anh em sinh sống. Với 4
tôn giáo chính gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, trong đó tín đồ
các tôn giáo chiếm tỷ lệ hơn 50% dân số toàn thành phố hiện nay [47].
3
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và đô thị hóa, văn hóa gia đình ở
thành phố Bảo Lộc đang có những biến đổi mạnh mẽ, đan xen cả yếu tố tích
cực và tiêu cực. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành
phố Bảo Lộc, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị thiết thực
nhằm xây dựng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững ở đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài“Văn hóa gia đình ở
thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào
tạo thạc sĩ Văn hoá học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, ở nước ta, xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình. Liên quan đến đề tài, có thể kể đến
nhiều hướng nghiên cứu, cụ thể như sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về gia đình nói chung
- Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam (1990), của tập thể tác
giả Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội nhân văn Quốc gia. Trong công trình này, các tác giả đã
nghiên cứu về vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội nhưng mới chỉ đặt vấn
đề và gợi ý là chủ yếu.
- Những nghiên cứu xã hội về gia đình Việt Nam (1991), do tập thể tác
giả của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc
gia phối hợp với Khoa xã hội học Trường đại học Gothenburg (Thụy Điển) đã
tiến hành khảo sát ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước về đặc điểm của gia đình
Việt Nam trước những năm 1990.
- Văn minh Phương Đông và gia đình Việt Nam truyền thống (1994),
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do quỹ Toyota
Founddation tài trợ, đã có những khảo sát và nghiên cứu, đánh giá bước đầu
về gia đình truyền thống ở Việt Nam qua một số mốc lịch sử của Việt Nam.
- Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa (1998) của tác giả Lê
Ngọc Văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã tập trung trình
4
bày về chức năng xã hội hóa để làm rõ sự biến đổi chức năng của gia đình
Việt Nam truyền thống khi xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông nghiệp
sang xã hội công nghiệp.
- Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của GS.
Lê Thi (kết quả cuộc điều tra về gia đình Việt Nam có quy mô lớn nhất từ
trước tới nay), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này tác giả đã trình
một cách tổng thể về gia đình Việt Nam. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi,
đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách
thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới
các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các
gia đình đang có sự gia tăng.
- Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam (2012) của tác giả Lê Ngọc
Văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này trình bày hệ thống về
những vấn đề gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam trong hơn hai thập
niên vừa qua và gợi ý cho những nghiên cứu tiếp tục về chủ đề gia đình trong
thời gian tới.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về văn hóa gia đình
- Văn hóa gia đình và sự phát triển xã hội (1994) của nhiều tác giả, do
nhà văn Lê Minh chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em
(2001) của PGS.TS Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
- Văn hóa gia đình (2007) của GS. Vũ Ngọc Khánh, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
- Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị (2003) của TS. Lê Quý
Đức và Ths. Vũ Thy Huệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận và
thực tiễn về gia đình, văn hóa gia đình, xây dựng văn hóa gia đình, sự biến đổi
của gia đình và văn hóa gia đình trong bối cảnh mới, những vấn đề của gia đình
Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn hóa gia
đình đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.
5
Thứ ba, các đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu gia đình, xây dựng
gia đình văn hóa, văn hóa gia đình dưới góc độ triết học, chủ nghĩa xã hội
khoa học và văn hóa học, có thể kể đến một số công trình sau:
- Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay
(2001), Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của
Nghiêm Sỹ Liêm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Trong luận án này, tác giả đã làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến gia
đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
- Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt
Nam hiện nay (2003), Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học, của Dương Thị Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh). Trong luận án này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ Việt
Nam được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, tạo bình đẳng thực sự để chị
em vừa có cơ hội thể hiện, cống hiến năng lực của mình.
- Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em của nước ta hiện nay
(2004), Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
của Phạm Thị Xuân (Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Tác giả đã đề cập và khẳng định trẻ em là thành phần quan trọng cấu
thành gia đình. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình là những người gần
gũi mật thiết thường xuyên ở bên cạnh trẻ em, việc chăm sóc con trẻ không
chỉ là trách nhiệm mà còn là “bản năng” của họ.
- Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh
Bạc Liêu hiện nay (2006), luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã
hội khoa học của Lê Cẩm Lệ. Tác giả cũng đề cập tới vai trò quan trọng của người
phụ nữ trên cơ sở thực hiện chức năng của gia đình trong tỉnh Bạc Liêu.
- Văn hóa gia đình và vấn đề xây dựng gia đình văn hóa ở thủ đô Hà Nội
(2003), Luận văn thạc sỹ văn hóa học của Đỗ Xuân Đán (Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội). Tác giả phân tích thực trạng trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước
đồng thời khảo sát về cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở Hà Nội.
- Văn hóa gia đình và xây dựng văn hóa gia đình trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
(2009), Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Nguyệt (Học viện Chính trị
6
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trong luận văn này, tác giả đã đánh giá
thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa và văn hóa gia đình ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Văn hóa gia đình ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay (2012),
Luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Thanh Thủy (Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh). Luận văn này nghiên cứu các phương diện lý luận về
văn hóa gia đình, tập trung khảo sát văn hóa gia đình được thể hiện ở các hệ
giá trị của gia đình.
- Văn hóa gia đình trong việc giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường
tiểu học (tỉnh Hưng Yên), Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa học của Lê
Thị Hiền. Tác giả đã đề cập đến vai trò của gia đình, văn hóa gia đình trong
việc hình thành nhân cách cho trẻ, góp phần tạo ra môi trường phát triển lành
mạnh, toàn diện cho trẻ.
Như vậy, có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên
cứu về văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn nghiên cứu, khảo sát về văn hóa
gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay, đề xuất những giải
pháp, kiến nghị để phát huy các giá trị văn hóa gia đình ở Bảo Lộc trong thời
gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống lại những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, luận
văn nghiên cứu thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng trong thời gian vừa qua và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình, vai trò của văn
hóa gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh
Lâm Đồng hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc,
tỉnh Lâm Đồng.
7
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: từ năm 2005 đến nay.
- Về không gian: thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có vấn đề xây dựng văn hóa gia đình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành
như: văn hoá học, lịch sử, nhân học, xã hội học và các phương pháp nghiên
cứu cơ bản khác: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử,
thống kê … để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành công sẽ có những đóng góp sau:
- Đánh giá thực trạng văn hóa gia đình ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xây dựng văn hóa gia đình của địa phương thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các
luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu về văn hóa gia đình.
Làm cơ sở cho các cơ quan chức năng của thành phố Bảo Lộc trong
quá trình thực hiện công tác gia đình và xây dựng văn hóa gia đình ở thành
phố Bảo Lộc.
8
Làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác tuyên truyền vận động cho
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH VÀ KHÁI
QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH
1.1.1. Quan niệm về văn hóa gia đình
1.1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hoá ngay từ những bước
đi lịch sử đầu tiên của mình. Văn hoá xuất hiện cùng với con người. Tuy
không phải ngay lúc đó đã có một khái niệm văn hoá nhưng có thể nói rằng từ
văn hoá xuất hiện khá sớm trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc trên thế giới
ngay từ thời cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp.
Ở phương Đông, từ văn hoá mà chúng ta đang sử dụng có cội nguồn từ
tiếng Hán. Trong ngôn ngữ Hán, hai từ văn và hoá xuất hiện khá sớm, như hai
từ đơn có nghĩa riêng biệt. Văn có nghĩa là vẻ đẹp, hoá có nghĩa là biến đổi,
biến hoá. Văn hoá gộp lại theo nghĩa gốc là làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ.
Ở phương Tây, dựa theo sự nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người
Đức W.Vunđơ, từ văn hoá bắt nguồn từ một động từ tiếng Latinh “colere” sau
chuyển thành cultural, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, từ cultural
chuyển nghĩa từ trồng trọt cây cối chuyển sang vun trồng tinh thần, trí tuệ.
Nhờ có quá trình gieo trồng tinh thần này mà loài người mới tạo ra được sự
khác biệt về bản chất với muôn loài. Cũng chính nhờ có văn hoá mà từng
cộng đồng dân tộc có thể tự nhận thức về mình và mới có thể tự phân biệt
mình với người khác. Sau này, trong ngôn ngữ hiện đại, Culture trong tiếng
Anh, Pháp, Kutur tiếng Đức, Kultura tiếng Nga đều chỉ văn hoá.
Trong khoa học xã hội và nhân văn, từ văn hoá được đưa vào trong
khoa học sớm nhất là ở Đức bởi Pu-phen-dooc, nhà nghiên cứu pháp luật
người Đức năm 1774 và đến năm 1783, được ghi vào từ điển với nghĩa văn
hoá là toàn bộ những gì do hoạt động xã hội của con người tạo ra, văn hoá là
cái đối lập với trạng thái tự nhiên.
10
Đầu thế kỷ XX, các ngành khoa học nghiên cứu về văn hoá nở rộ trên
thế giới, có rất nhiều ngành khoa học cùng lấy thuật ngữ văn hoá làm đối
tượng nghiên cứu như Dân tộc học, Sử học, Xã hội học, Nhân học…, mỗi nhà
nghiên cứu thường nhấn mạnh một khía cạnh đặc sắc của văn hóa, phù hợp
với cách tiếp cận của họ. Kết quả là ra đời hàng nghìn định nghĩa về văn hóa,
trong đó, nhà văn hóa học người Nga, A.X.Ka-rơ-min đã tổng hợp và phân ra
14 nhóm định nghĩa văn hóa như sau: [34, tr.6].
Định nghĩa mang tính chất miêu tả thiên về liệt kê các yếu tố riêng lẻ
và các biểu hiện của văn hóa, như: phong tục, tín ngưỡng, các dạng hoạt
động: nghệ thuật, giáo dục, khoa học, thể dục thể thao.
Định nghĩa mang tính chất nhân loại học;
Xuất phát từ chỗ cho rằng văn hóa là một tổng thể các sản phẩm do
hoạt động người tạo ra, thế giới vật thể, đối lập với thiên nhiên, là những thứ
do con người sáng tạo ra (thiên nhiên thứ hai).
Định nghĩa mang tính chất giá trị;
Giải thích văn hóa như là tổng thể các giá trị tinh thần và vật chất, do
con người sáng tạo ra.
Định nghĩa mang tính chất chuẩn mực;
Xác nhận rằng nội dung của văn hóa tạo ra các chuẩn mực và quy tắc,
để điều tiết đời sống mọi người.
Định nghĩa mang tính chất thích nghi;
Văn hóa được giải thích như là phương thức đáp ứng các nhu cầu, như
một dạng hoạt động đặc biệt, là cái vốn có ở con người, bằng cách truyền đạt
kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Định nghĩa mang tính chất lịch sử;
Nhấn mạnh rằng văn hóa là sản phẩm của lịch sử xã hội và phát triển
bằng cách truyền đạt kinh nghiệm mà con người thâu lượm được từ thế hệ này
đến thế hệ khác.
Định nghĩa mang tính chất chức năng;
11
Xác định văn hóa thông qua các chức năng, văn hóa thực hiện các chức
năng trong xã hội, các chức năng ấy tạo nên sự thống nhất và mối tương liên
giữa chúng trong văn hóa.
Định nghĩa mang tính chất ký hiệu học;
Xem xét văn hóa như là hệ thống ký hiệu, được xã hội sử dụng.
Định nghĩa mang tính chất biểu tượng;
Nhấn vào sự quan tâm đến việc sử dụng các biểu tượng trong văn hóa.
Định nghĩa mang tính chất thông diễn học;
Liên quan đến văn hóa như một đa số văn bản, chúng được thông giải
và được suy ngẫm bởi mọi người.
Định nghĩa mang tính chất tinh thần;
Xác định văn hóa như là đời sống tinh thần của xã hội, như là dòng tư
tưởng và các sản phẩm khác của sáng tạo tinh thần, chúng được tích lũy trong
ký ức xã hội.
Định nghĩa mang tính chất tâm lý học;
Chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa với tâm lý học ứng xử (hành vi) của
mọi người và nhận thấy trong văn hóa có những đặc điểm quy ước về mặt xã
hội của tâm lý người.
Định nghĩa mang tính chất học tập;
Xem xét văn hóa như là cái mà con người học được (chứ không phải là
di truyền sinh học).
Định nghĩa mang tính chất xã hội học;
Văn hóa được quan niệm như là nhân tố tổ chức đời sống xã hội, như là
tổng thể các ý tưởng, các nguyên tắc, các định chế xã hội, bảo đảm duy trì
hoạt động tập thể của mọi người.
Trong toàn bộ các dạng định nghĩa vừa kể trên đây, mỗi dạng đều có
nội dung hợp lý, chỉ ra những (nét) đặc điểm ít hay nhiều quan trọng của
văn hóa.
Luận văn tìm hiểu về văn hóa của một nhóm xã hội đặc thù là gia đình,
trên một địa bàn cụ thể là thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng. Với cách tiếp cận
12
này, văn hóa mang ý nghĩa của nhân tố có khả năng gắn kết các thành viên
của gia đình thông qua việc chia sẻ các giá trị, thực hiện các chuẩn mực, các
hoạt động chung, thực hiện các chức năng của gia đình, qua đó hình thành nên
văn hóa gia đình.
1.1.1.2. Quan niệm về gia đình
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, “gia đình” là một trong những phạm
trù sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại; và từ “gia đình” có lẽ được sử dụng
nhiều nhất trong ngôn ngữ hàng ngày và trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã
hội cũng như trong các nghiên cứu về gia đình, song hiếm khi “gia đình”
được định nghĩa một cách rõ ràng. Ngày nay, chúng ta vừa biết nhiều hơn lại
vừa biết ít hơn về gia đình, bởi sự biến đổi và tính đa dạng của gia đình.
Trong thực tế không có một loại gia đình đồng nhất cũng như không có một
hình thức gia đình giống nhau ở mọi nơi và mọi thời điểm. Gia đình không
chỉ khác nhau giữa các quốc gia và các nền văn hóa mà thậm chí còn không
giống nhau từ gia đình này đến gia đình khác trong một nền văn hóa.
Xác định gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của mỗi người,
trong nhận thức xã hội, đồng thời còn là cơ sở để xây dựng những chính sách,
chương trình phù hợp với gia đình. Trong các nghiên cứu, gia đình không chỉ là
chủ thể nghiên cứu mà còn là một đơn vị cơ bản để thu hút thông tin, phân tích
số liệu. Vì thế việc xác định khái niệm gia đình là hết sức cần thiết cho việc tiến
hành những nghiên cứu về gia đình, định hướng các vấn đề nghiên cứu.
Cho dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về gia đình đã được triển
khai, song “gia đình là gì” vẫn còn đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Cho
đến nay gia đình được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Và thuật ngữ
gia đình vẫn là “một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng
của nhà xã hội học” [36, tr.34]. Khó khăn trong việc xác định khái niệm gia
đình do nhiều nguyên nhân. Trước hết bởi gia đình là một thuật ngữ hết sức
quen thuộc với tất cả mọi người. Gia đình là nơi mỗi người sinh ra và lớn lên
khi nhắc tới khái niệm gia đình ai cũng có thể có ngay những hình dung về
nó. Chính sự quen thuộc này khiến nhiều người tưởng hiểu rất rõ về gia đình
13
lại cảm thấy rất mơ hồ khi được yêu cầu cung cấp những tiêu chí để nhận diện
gia đình. Thứ hai, gia đình là một nhóm xã hội đặc thù, khác với các nhóm xã
hội khác, gia đình hội tụ trong đó tất cả các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa
và cả kinh tế. Sự phức tạp trong chính đặc điểm của gia đình khiến việc định
nghĩa gia đình trở nên khó khăn. Thứ ba, gia đình luôn biến đổi cùng với sự biến
đổi của xã hội, của nền văn hóa mà gia đình tồn tại trong đó. Không dễ dàng để
xác định một khái niệm gia đình đúng với tất cả các dạng gia đình khác nhau về
mặt văn hóa, lịch sử. Thực tế lịch sử phát triển của loài người đã cho thấy, gia
đình đã tồn tại với rất nhiều kiểu loại, từ gia đình cùng dòng máu, tới gia đình cặp
đôi, gia đình một vợ, một chồng… khác biệt trong bản chất của nó. Cho đến nay,
gia đình đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Từ điển tiếng Việt do tác giả Văn Tân chủ biên - Nhà xuất bản khoa
học xã hội phát hành - định nghĩa “ Gia đình là đơn vị xã hội thành lập trên cơ
sở cùng dòng máu, bắt đầu có từ thời đại thị tộc mẫu hệ; trong thời đại phong
kiến, thường có cha mẹ, con cháu, có khi có cả chắt nữa, trong thời đại tư bản
thường chỉ có vợ chồng và con cái” [71, tr.17].
Từ điển tiếng Việt, 1996 do tác giả Hoàng Phê chủ biên - Nhà xuất bản
Đà Nẵng định nghĩa gia đình là: “Tập hợp người cùng sống chung thành một
đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng
máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [71, tr.17].
Theo cách tiếp cận vĩ mô, gia đình được định nghĩa với tư cách là một
thiết chế xã hội, một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã
hội nhất định, trước hết là chức năng tái sinh sản ra con người. Trong cuốn từ
điển xã hội học của G.Endweeit và G. Trommsdorff, các tác giả đưa ra định
nghĩa gia đình như sau: Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt vì nó biểu
hiện một cấu trúc vai trò nhất định (bố, mẹ, con gái, con trai, cháu, em,…),
với nó thì sự tách biệt về giới tính và thế hệ là tiêu chí của cơ cấu gia đình
(bằng một hay đa thế hệ, nam, nữ) và qua nó sẽ chuyển hóa một quan hệ hợp
tác và đoàn kết rất đặc biệt mà ở tất cả các xã hội đều tổ chức theo nghi lễ sự
thành lập của nó [80, tr.27]. Ngoài ra, xã hội cũng trao cho nhóm xã hội này
14
những chức năng rất đặc biệt. Theo định nghĩa này, gia đình được xác định là
một nhóm có cấu trúc và đảm nhận chức năng trong xã hội.
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong
Luật Hôn nhân và gia đình, năm 2000 (điều 8): “Gia đình là một tập hợp
những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với
nhau theo quy định của luật này” [49, tr.12].
Bên cạnh sự quy định của pháp luật, trong cuộc sống gia đình duy trì
phương thức ứng xử, tình nghĩa giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái lòng biết ơn, sự
quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, sự hy sinh vì người thân của gia đình.
Gia đình là một cộng đồng người mang tính huyết thống (thân tộc)
khác với cộng đồng làng xã, (phường bản) mang tính địa lý hành chính. Gia
đình cũng khác với cộng đồng người (mang đặc trưng chung về nguồn gốc
xuất hiện…). Nó cũng khác cộng đồng dân tộc hình thành trên quan hệ chính
trị, kinh tế, xã hội.
Như vậy, có nhiều định nghĩa về gia đình với các cách tiếp cận khác
nhau. Dưới góc độ văn hóa học, khái niệm gia đình trong luận văn chỉ một
cộng đồng người (nhóm xã hội) có quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt
vật chất và tinh thần mang tính đặc thù dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên, các quan hệ pháp
lý hay luật tục khác.
Định nghĩa này đã nêu bật được đặc trưng quan trọng và chức năng của
gia đình trong việc sinh sản, giáo dục con người. Đồng thời nhấn mạnh vai trò
của việc xã hội hóa con người, biến con người tự nhiên thành con người xã hội,
duy trì sự sống và chuyển giao các giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác
qua những giá trị chuẩn mực trong quan hệ ứng xử cơ bản của gia đình.
1.1.1.3. Quan niệm về văn hóa gia đình
Văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu
về gia đình. Nghiên cứu văn hóa gia đình giúp chúng ta có cơ sở khoa học để
hiểu đúng đắn bản chất và truyền thống của gia đình Việt Nam, trên cơ sở đó,
15
xác định những giải pháp để phát huy vai trò to lớn của gia đình trong sự phát
triển chung của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, các công trình nghiên cứu về
văn hóa gia đình “Chưa đưa ra được một định nghĩa đầy đủ và một cách giải
thích thuyết phục về khái niệm văn hóa gia đình. Điều này đã gây ra khó khăn
cho việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của văn hóa gia đình” [80,
tr.47]. Một số nhà nghiên cứu định nghĩa văn hóa gia đình bằng việc liệt kê
các yếu tố được coi là thuộc về văn hóa gia đình, một số tác giả khác xác định
văn hóa gia đình là các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của đời sống gia đình mà
mỗi thành viên trong gia đình phải chấp nhận tuân theo.
Nếu coi văn hóa là gồm tất cả những gì làm cho cộng đồng này phân
biệt với cộng đồng khác, thì văn hóa gia đình, một bộ phận của văn hóa nói
chung cũng “bao gồm tất cả những gì làm cho gia đình của một cộng đồng, xã
hội này, dân tộc này, khu vực này khác với gia đình của các cộng đồng, xã
hội, dân tộc, khu vực khác” [80, tr.52]. Nghiên cứu văn hóa gia đình là tìm
hiểu những dấu ấn để lại trong đời sống vật chất, tinh thần của gia đình được
biểu hiện thông qua các mối quan hệ, cấu trúc, chức năng, sinh hoạt, đời sống
tâm linh… của gia đình. Đó là những dấu ấn “được duy trì qua lịch sử, trở
thành truyền thống, ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý, chi phối hành vi, cách ứng
xử giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình với xã hội, tiếp nối từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Những dấu ấn để lại trong đời sống gia đình ở các
cộng đồng, quốc gia, dân tộc không giống nhau, tạo nên tính đa dạng của văn
hóa gia đình” [80, tr.53]. Xuất phát từ quan niệm như vậy, tác giả Lê Ngọc
Văn đưa ra định nghĩa về văn hóa gia đình:
Văn hóa gia đình là hệ thống các giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù
điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối
quan hệ giữa gia đình và xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái
gia đình đặc trưng cho cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các
khu vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài
của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh
tế, môi trường tự nhiên và xã hội [57, tr.54].
- Xem thêm -