Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấ...

Tài liệu Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở việt nam cho đến năm 2020

.PDF
317
99
87

Mô tả:

TTCP VKHTT THANH TRA CHÍNH PHỦ Viện khoa học thanh tra 17 Cao Bá Quát Báo cáo tổng kết Đề tài độc lập cấp nhà nước: LUẬN CỨ KHOA HỌC CHO VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM CHO ĐẾN NĂM 2020 TS. Mai Quốc Bình Phó Tổng Thanh tra – Thanh tra Chính phủ 6754 10/3/2008 Hà Nội, 7 – 2007 DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN 1. TS. Mai Quốc Bình – Phó Tổng Thanh tra, TTCP 2. TS. Lê Tiến Hào – Phó Tổng Thanh tra, TTCP 3. TS. Nguyễn Văn Thanh - Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, TTCP. 4. ThS. Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, TTCP 5. GS.TS Trần Ngọc Đường – Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. 6. GS.TSKH Đào Trí Úc - Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật. 7. PGS.TS Phạm Sỹ Liêm – Phó chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam. 8. Thiếu tướng. PGS.TS Lê Văn Cương - Viện Chiến lược và khoa học Công an. 9. TS. Nguyễn Văn Luật - Viện trưởng Viện khoa học Xét xử, TANDTC 10. TS. Nguyễn Văn Thuỵ - Nguyên vụ trưởng, Ban trung ương 6(2). 11. TS. Ngô Văn Điểm – Phó trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng. 12. TS. Nguyễn Văn Lạng – Phó Chánh Thanh tra, Bộ Tài nguyên môi trường. 13. ThS. Trần Đại Thắng - Viện khoa học Kiểm sát, VKSNDTC 14. Phan An Sa – Chánh Thanh tra Bộ Văn hoá Thông tin. 15. Trần Quang Trung – Chánh Thanh tra Bộ Y tế. 16. ThS. Trần Huy Trường - Trưởng phòng Thanh tra, Bộ Tài chính. 17. Trần Đức Lượng - Vụ trưởng Vụ II, Thanh tra Chính phủ. 18. Cao Văn Thống - Phó vụ trưởng Uỷ ban kiểm tra trung ương. 19. Lê Văn Lân – Vụ trưởng, Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng. BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT WTO : Tổ chức Thương mại thế giới QSH : Quyền sở hữu GTGT : Giá trị gia tăng TNHH : Trách nhiệm hữu hạn BCH : Ban Chấp hành CAND : Công an nhân dân VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân TAND : Toà án nhân dân CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa HĐND : Hội đồng nhân dân UBND : Uỷ ban nhân dân UBTVQH : Uỷ ban thường vụ Quốc hội NDT : Nhân dân tệ TTDVMSC : Trung tâm dịch vụ mua sắm công MSCTT : Mua sắm công tập trung MỤC LỤC Nội dung MỞ ĐẦU Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG I. Quan niệm và các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng 1.1 Quan niệm về tham nhũng 1.2 Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng. II. Nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng 2.1 Nguồn gốc của tham nhũng 2.2 Nguyên nhân của tham nhũng III. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành IV. Tham nhũng nhìn từ góc độ văn hoá 4.1 Văn hoá và sự cần thiết tiếp cận vấn đề tham nhũng từ góc độ văn hoá 4.2 Đặc trưng, nguồn gốc và hậu quả của tham nhũng – nhìn từ góc độ văn hoá 4.3 Vấn đề phòng, chống tham nhũng – nhìn từ góc độ văn hoá V. Một số nét về lịch sử pháp luật chống tham nhũng ở nước ta 5.1 Quan niệm và kinh nghiệm chống tham nhũng trước Cách mạng tháng Tám 5.2 Quan niệm và kinh nghiệm chống tham nhũng thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám đến nay VI. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng 6.1 Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chủ tịch về tham nhũng 6.2 Quan điểm của Hồ Chủ tịch về chống tham nhũng Chương II THỰC TRẠNG, HẬU QUẢ VÀ NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM I. Thực trạng tham nhũng 1.1 Khái quát chung về thực trạng tham nhũng và những khó khăn trong việc đánh giá thực trạng tham nhũng hiện nay 1.2 Đánh giá chung tình hình tham nhũng 1.3 Tình hình tham nhũng trong một số lĩnh vực cụ thể 1.4 Đối tượng tham nhũng II. Các hậu quả của tham nhũng 2.1 Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân. 2.2 Tham nhũng cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước. 2.3 Tham nhũng làm thay đổi, xâm phạm, thậm chí đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, làm vẩn đục mối quan hệ xã hội và những giá trị đạo đức tốt đẹp có tính truyền thống của dân tộc. 2.4 Tình trạng tham nhũng của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước làm hoạt động công vụ trở thành hoạt động vụ lợi, tha hoá. 2.5 Tham nhũng xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trang 12 16 16 16 18 19 19 20 21 23 23 24 25 26 26 27 30 30 33 39 39 39 43 52 61 62 62 62 63 63 63 III. Những nguyên nhân chủ yếu của tệ tham nhũng hiện nay 3.1. Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. 3.2. Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ . 3.3 Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin – cho” vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo kẽ hở cho sự sách nhiễu, vòi vĩnh, ăn hối lộ 3.4. Những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường 3.5 Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu. 3.6. Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu. 3.7. Do ảnh hưởng của một số tập quán văn hóa cũ không lành mạnh 3.8 Việc huy động lực lượng đông đảo nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn chưa được quan tâm đúng mức. 3.9. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa tạo ra một sự chuyển biến tích cực trong ý thức của xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Chương III TÌNH HÌNH CÔNG TÁC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM I. Về những kết quả đã đạt được trong công tác đấu tranh chống tham nhũng 1.1. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng 1.2. Công tác phòng ngừa phát hiện và xử lý tham nhũng của các cơ quan nhà nước 1.3 Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng vào đấu tranh chống tham nhũng II. Về những hạn chế, nhược điểm trong công tác phòng, chống tham, nhũng 2.1. Việc ban hành chủ trương, chính sách, giải pháp về phòng, chống tham nhũng còn chậm và thiếu những quy định chưa chặt chẽ, tính khả thi chưa cao. 2.2. Hạn chế trong việc thực hiện chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng. 2.3 Thiếu cơ chế để bảo đảm an toàn và động viên nhân dân cũng như các cơ quan thông tin đại chúng, nhà báo tích cực tham gia phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng. 2.4 Quá trình điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm về tham nhũng thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các tội phạm khác. 2.5 Việc phối kết hợp kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng còn chưa có hiệu quả. III. Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức phòng, chống tham nhũng 64 64 65 66 66 68 69 70 71 72 72 73 73 77 91 93 93 94 99 101 102 104 Chương IV YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VỚI NHIỆM VỤ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG I/ Những tiêu chuẩn cơ bản của một nhà nước pháp quyền 1.1 Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa lập hiến 1.2 Pháp luật giữ vị trí chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong xã hội, Nhà nước cũng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật 1.3 Bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư pháp. 1.4 Pháp luật phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải bảo đảm tính công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời. 1.5 Tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền con người. II. Những yêu cầu đặt ra đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và vấn đề đấu tranh chống tham nhũng 2.1 Những yêu cầu chung 2.2 Các yêu cầu và nguyên tắc của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta – cơ sở của việc xác định giải pháp phòng, chống tham nhũng 2.3 Giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là điều kiện cần thiết để phòng, chống tham nhũng trong một nhà nước pháp quyền. 2.4 Giám sát của xã hội dân sự đối với các hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức là một yếu tố quan trọng góp phần đấu tranh chống tham nhũng Chương V MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LỊCH SỬ NƯỚC TA VÀ TRÊN THẾ GIỚI I. Sơ lược lịch sử về chống tham nhũng ở nước ta 1.1 Pháp luật chống tham nhũng thời kỳ phong kiến 1.2 Pháp luật chống tham nhũng từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 II. Quan niệm về tham nhũng và chủ trương phòng, chống tham nhũng của các nước trên thế giới 2.1 Quan niệm về tham nhũng 2.2 Tình hình phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới III. Những giải pháp phòng, chống tham nhũng chủ yếu ở các nước 3.1 Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng 3.2 Các biện pháp phát hiện tham nhũng 3.3 Các biện pháp xử lý tham nhũng IV. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chống tham nhũng 4.1 Khái quát mô hình tổ chức của các cơ quan chống tham nhũng trên thế giới 4.2 Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chống tham nhũng theo các mô hình khác nhau V. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng 5.1 Những quy định chung 5.2 Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng 5.3 Hình sự hoá và thực thi pháp luật: 5.4 Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi phê chuẩn Công ước VI. Kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế trong đấu tranh chống tham nhũng 108 109 109 110 111 112 113 115 115 118 128 133 137 137 137 147 150 150 152 157 157 165 168 170 170 170 177 177 178 180 181 181 6.1 Liên Hợp quốc 6.2 Tổ chức về phát triển và hợp tác kinh tế (OECD) 6.3 INTERPOL 6.4 Ngân hàng thế giới (WB). 6.5 Tổ chức minh bạch quốc tế (TI). 6.6 Tổ chức toàn cầu của Nghị viện chống tham nhũng (GOPAC) VII. Nội dung cơ bản của chiến lược phòng, chống tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới. 7.1 Các đánh giá về bối cảnh xây dựng và thực hiện chiến lược 7.2 Các giải pháp phòng, chống tham nhũng 7.3 Tổ chức thực hiện chiến lược Chương VI CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG I. Các giải pháp nâng cao năng lực, phẩm chất, trách nhiệm của cán bộ, công chức, tăng cường kiểm soát hoạt động công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng. 1.1 Về công tác cán bộ 1.2 Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức. 1.3 Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động công quyền 1.4 Xây dựng và bảo đảm thực hiện qui tắc ứng xử của cán bộ công chức: 1.5 Tăng cường minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, đề cao tính tự giác và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội 1.6 Xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức hoặc ngành lĩnh vực, địa phương mà mình phụ trách 1.7 Cải cách chế độ tiền lương nhằm phòng ngừa tham nhũng. 1.8 Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ của các cơ quan nhà nước và các cán bộ công chức nhà nước. II. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tham nhũng 2.1 Về quản lý và sử dụng đất đai 2.2 Công tác quản lý đầu tư xây dựng và hoạt động mua sắm công. 2.3 Đẩy mạnh cải cách nền tài chính công, kiểm soát tốt hơn nữa công tác thu chi, ngân sách 2.4 Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; tăng cường quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp 2.5 Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm phòng ngừa tham nhũng III. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng 3.1 Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan có chức năng phát hiện và xử lý tham nhũng. 3.2 Sửa đổi quy định của pháp luật nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh đối tượng tham nhũng. 3.3 Sửa đổi, bổ sung chính sách hình sự và các biện pháp phát hiện tham nhũng 182 182 184 184 184 185 186 186 187 194 198 200 200 202 203 207 209 211 211 214 214 214 215 218 221 221 227 227 229 229 3.4 Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thanh tra, điều tra, kiểm sát, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng IV. Các giải pháp nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của xã hội tham gia tích cực vào đấu tranh chống tham nhũng. 4.1 Các giải pháp nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của xã hội tham gia tích cực vào đấu tranh chống tham nhũng 4.2 Phát huy vai trò của xã hội công dân trong đấu tranh chống tham nhũng V. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng Chương VII ĐỊNH HƯỚNG, YÊU CẦU, NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM I. Sự cần thiết của việc xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng của Việt Nam II. Những yêu cầu của Chiến lược phòng, chống tham nhũng của Việt Nam đến năm 2020 III. Cơ cấu và những nội dung cơ bản của chiến lược phòng, chống tham nhũng của Việt Nam đến năm 2020 Danh mục tài liệu tham khảo 232 233 233 235 237 238 238 243 245 253 BÀI TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài: Đánh giá một cách toàn diện thực trạng tham nhũng và cơ chế phòng, chống tham nhũng hiện nay, từ đó dự báo về tình hình tham nhũng trong thời gian tới và đưa ra những luận cứ khoa học cho hình thành Chiến lược chống tham nhũng ở Việt Nam đến năm 2020. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của Đề tài và sự cần thiết phải nghiên cứu Đề tài: Phòng, chống tham nhũng luôn là vấn đề được quan tâm tại nhiều nước trên thế giới và hiện nay đang trở thành vấn đề có tính chất quốc tế. Tại nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế có các công trình nghiên cứu hoặc đánh giá về vấn đề này. Tuy nhiên ở mỗi nước đều có những điều kiện về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa khác nhau nên định hướng và kết quả nghiên cứu các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng cũng khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng ở các nước là khác nhau và cần có sự nghiên cứu, vận dụng một cách có lựa chọn. Thanh tra Chính phủ, Ban chỉ đạo TW 6 (lần 2), Ban Nội chính TW Đảng, Bộ Tài chính đã có những nghiên cứu, đánh giá bước đầu về thực trạng, nguyên nhân tham nhũng và đưa ra một số kiến nghị về đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng. Ngoài ra, từ trước đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về chống tham nhũng, những thường nghiên cứu tham nhũng ở từng phương diện cụ thể hay từng lĩnh vực cụ thể và chủ yếu nghiên cứu tham nhũng với tính chất là một tội phạm hình sự. Chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện cơ sở khoa học vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng, đặc biệt là nghiên cứu tham nhũng như một hiện tượng chính trị - văn hoá - xã hội để tìm ra các giải pháp có tính chất tổng thể nhằm phòng ngừa và chống tham nhũng có hiệu quả. Trong khi đó, Công ước chống tham nhũng của LHQ mà Tổng Thanh tra thay mặt Chính Phủ ký ngày 9-12-2003 yêu cầu các quốc gia thành viên phải xây dựng Chính sách quốc gia/Chiến lược chống tham nhũng. Để chuẩn bị tích cực cho việc phê chuẩn Công ước, Thủ tướng yêu cầu Thanh tra Chính phủ khẩn trương nghiên cứu nhằm góp phần cùng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng Chiến lược tổng thể về phòng, chống tham nhũng bao gồm những giải pháp cấp bách trước mắt và những giải pháp cơ bản có tính chất chiến lược. Đặc biệt, việc nghiên cứu đề tài này gắn bó chặt chẽ và có tác dụng tương tác, hỗ trợ cho việc soạn thảo Luật chống tham nhũng mà Quốc hội và Chính phủ đã giao cho Thanh tra Chính phủ chủ trì trong năm 2005. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật được sử dụng: Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng lớn và rất phức tạp cho nên cần sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, cụ thể như sau: 1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Xem xét tham nhũng với tư cách là một hiện tượng xã hội lịch sử, đặc biệt khi nghiên cứu về bản chất, nguyên nhân và nguồn gốc của nó; quan hệ của tệ tham nhũng với việc thực hiện quyền lực và quá trình phát triển của bộ máy nhà nước; đấu tranh chống tham nhũng như là một yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu các biện pháp phòng, chống tham nhũng trên quan điểm lịch sử cụ thể để đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng như dự báo trước những nguy cơ và chiều hướng phát triển của tệ tham nhũng trong những năm tiếp theo. 2. Phương pháp hệ thống cấu trúc: Đặt vấn đề phòng, chống tham nhũng trong tổng thể quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước và cải các hành chính cũng như quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. 3. Phương pháp so sánh: Nghiên cứu các biện pháp, giải pháp phòng chống tham nhũng trong lịch sử Việt nam và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tìm ra những vấn đề có tính quy luật, những điểm chung có thể áp dụng trong điều kiện Việt Nam. 4. Phương pháp điều tra xã hội học: Cần thiết phải đánh giá nhận thức và phản ứng của xã hội đối với tệ tham nhũng, từ đó xem xét các khả năng và yếu tố nhằm thức đẩy sự tham gia của xã hội vào đấu tranh phòng chống tham nhũng. 5. Phương pháp mô hình hoá: Đề tài hướng tới việc tìm ra các giải pháp cụ thể cho đấu tranh phòng chống tham nhũng cho nên cần mô tả sự hình thành, phát triển tệ tham nhũng nói chung và các biện pháp tác động nhằm ngăn ngừa tham nhũng, đồng thời mô tả một số hành vi tham nhũng điển hình và sự tham tham gia của các yếu tố có liên quan. Trên cơ sở đó nêu ra các hướng tác động nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới loại trừ tham nhũng. Để đạt mục tiêu nghiên cứu đó, Đề tài đã thực hiện các công việc chính sau: thu thập thông tin tài liệu trong nước và nước ngoài về chống tham nhũng; tiến hành điều tra xã hội học, khảo sát thực tế trong nước và ngoài nước; phân tích tài liệu, số liệu điều tra khảo sát; tổ chức hội thảo khoa học. Về phương pháp nghiên cứu, Đề tài đã kết hợp khảo sát thu thập tài liệu hiện có với điều tra phỏng vấn, thực hiện phân tích – tổng hợp, so sánh, kết hợp logic và lịch sử, …Các kết quả nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài đã được kế thừa và quá trình nghiên cứu luôn xuất phát từ tình hình thực tiễn cũng như xu hướng phát triển và biến động của tình hình. LỜI MỞ ĐẦU Trong hơn 70 năm xây dựng và đấu tranh cách mạng, nước ta đã giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hơn 20 năm qua đã và đang từng bước đưa đất nước ta vững chắc đi lên, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, vị trí và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Những thành tựu quan trọng đó minh chứng đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quyết tâm của Nhà nước và nhân dân ta trong việc xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh. Tuy nhiên, chúng ta đang gặp nhiều trở ngại, trong đó tệ nạn tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn nhất vì nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ ta. Nhận thức rõ tác hại nguy hiểm của tệ nạn tham nhũng, Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị và nêu nhiệm vụ phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước, trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nêu rõ: “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”1. Nghị quyết Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta”2. Thể chế hoá quyết tâm, chủ trương của Đảng, ngày 29/11/2005, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh chống tham nhũng. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Luật phòng, chống tham nhũng của Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều hoạt động thiết thực như ban hành chương trình hành động, hoàn thiện thể chế, huy động và kiện toàn lực lượng, tổ chức bộ máy để phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng. 1 2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, 2002, Tr 76. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 45,46 12 Với những nỗ lực to lớn của Đảng và Nhà nước, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tham nhũng của Việt Nam thời gian vừa qua đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những kết quả bước đầu. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, đầy cam go và phức tạp, đòi hỏi phải tập trung rất cao sự chỉ đạo, điều hành cũng như nỗ lực thực hiện của cả hệ thống chính trị; gắn liền với hiệu quả xây dựng thể chế, cải cách bộ máy nhà nước và nền hành chính, cải cách tư pháp; liên quan đến việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức .v.v… Để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, trước hết, cần phải nhận diện đúng bản chất, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu và lộ trình cụ thể để đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn này. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên cơ sở khoa học và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh ở từng giai đoạn giai đoạn cụ thể. Cho đến nay, mặc dù đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về tham nhũng và các vấn đề liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách độc lập, toàn diện về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng, chỉ ra đầy đủ, có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung và việc xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng nói riêng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ những luận cứ khoa học phục vụ cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam là yêu cầu khách quan và cấp thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Thanh tra Chính phủ đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020” dưới hình thức Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước theo Quyết định số 562/QĐ-BKHCN ngày 30 tháng 3 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ). Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề thuộc về thể chế chính trị và tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như các yếu tố về kinh tế xã hội. Mục tiêu chính của đề tài là nhằm nghiên cứu một cách toàn diện thực trạng tham nhũng ở Việt Nam, những nguyên nhân chủ yếu của tham nhũng, những biểu hiện mới của tham nhũng 13 trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường để từ đó đề ra các giải pháp có tính chất chiến lược, lâu dài để đấu tranh với tệ nạn này; góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của nhà nước và xã hội theo những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Qua hơn hai năm thực hiện, nhiều nội dung nghiên cứu của đề tài đã được triển khai tích cực và có kết quả. Các chuyên đề nghiên cứu đã được thực hiện với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học, những người làm công tác quản lý cũng như những cán bộ, công chức trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Kết quả nghiên cứu của các chuyên đề cũng được tổng thuật và đưa ra thảo luận trong các nhóm chuyên gia để đánh giá cho ý kiến tiếp tục hoàn chỉnh. Để đề tài phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn, Ban Chủ nhiệm đề tài đã tổ chức việc khảo sát tại một số địa phương để đánh giá về nhận thức về tham nhũng của các tầng lớp nhân dân hiện nay. Ngoài ra, Ban chủ nhiệm Đề tài cũng đã tiến hành chuyến khảo sát nghiên cứu tại Ba Lan và Cộng hoà Liên bang Đức về kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng và tập hợp nghiên cứu nhiều tài liệu về phòng, chống tham nhũng ở các nước và các tổ chức quốc tế. Việc triển khai nghiên cứu đề tài được thực hiện trong bối cảnh tham nhũng đang trở thành một trong những quốc nạn lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta, đấu tranh chống tham nhũng đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân, là trách nhiệm quan trọng của bộ máy nhà nước. Trước tình hình đó, thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội, Chính phủ giao, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan soạn thảo Luật phòng, chống tham nhũng (đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005). Bên cạnh đó, sau khi Việt Nam ký kết Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, để chuẩn bị cho việc phê chuẩn Công ước, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan tiến hành rà soát hệ thống pháp luật, đánh giá những thuận lợi, khó khăn của Việt Nam khi tham gia Công ước. Quá trình nghiên cứu đề tài đã gắn bó chặt chẽ với quá trình xây dựng Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành, quá trình xây dựng và triển khai thực hiện Nghị quyết TW 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hầu hết các nội dung nghiên cứu của đề tài đã được thảo luận trong khi soạn thảo Luật 14 phòng, chống tham nhũng và xây dựng Nghị quyết TW 3. Không ít những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu đề tài đã được tiếp thu trực tiếp vào nội dung của đạo luật và Nghị quyết (vấn đề công khai minh bạch hoạt động của cơ quan tổ chức đơn vị, vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức...). Bên cạnh đó, quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật và Nghị quyết của Đảng trong thời gian qua cũng phát hiện ra nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ và những yêu cầu đó đã cơ bản được giải quyết trong đề tài. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài vừa một ý nghĩa thực tiễn to lớn, vừa là sự tổng kết và hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng để từ đó hình thành cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong Báo cáo Tổng thuật gồm: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về tham nhũng và công tác đấu tranh chống tham nhũng Chương II: Thực trạng, hậu quả và nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam Chương III: Tình hình công tác đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam Chương IV: Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng Chương V: Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trên thế giới Chương VI: Các giải pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng và việc xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam 15 Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG I. Quan niệm và các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng 1.1 Quan niệm về tham nhũng Tham nhũng là khái niệm được sử dụng rất quen thuộc từ lâu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của”3. Trong khi đó, theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng được định nghĩa đơn giản, trong một phạm vi hẹp, đó là "sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng” v.v… Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau như vậy nhưng nhìn chung, có hai loại khái niệm phổ biến nhất về tham nhũng như sau: - Khái niệm tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người khác thuộc khu vực nhà nước (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội…) mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức; thậm chí, chủ thể của hành vi tham nhũng cũng có thể là người thuộc khu vực tư nhân. - Khái niệm tham nhũng theo nghĩa hẹp và đã được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng), thì "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi"4. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà nước (các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước). Việc giới hạn này là nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng xảy ra phổ biến nhất, bảo đảm tính trọng tâm, trọng điểm, góp phần nâng cao hiệu quả trong đấu tranh chống tham nhũng. Mặt khác, việc giới hạn như vậy cũng thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu…, là các biện pháp chỉ áp dụng đối với với cán bộ, công chức thuộc khu vực nhà nước. 3 4 Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ Học – NXB Đà Nẵng 2004. Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng 16 Đối với khu vực ngoài nhà nước, khi có vụ việc xảy ra thì pháp luật cũng đã có những sự điều chỉnh nhất định… Bên cạnh đó, cũng có trường hợp người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài nhà nước câu kết, móc nối với những người thoái hoá, biến chất trong khu vực nhà nước hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những người này để trục lợi; nhưng trong những trường hợp đó, họ đã trở thành đồng phạm khi những người có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xác định rõ ràng và có quan niệm đúng đắn về tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm tính hiệu quả trong đấu tranh phòng và chống lại tệ nạn này. Trong điều kiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta còn nhiều cam go, phức tạp thì sự thống nhất trong quan niệm về tham nhũng là rất cần thiết. Khái niệm về tham nhũng theo quy định hiện hành của Pháp luật Việt Nam là tương đối phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng như phù hợp với tình hình và đặc điểm của cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu đan xen, nhất là trong quá trình sản xuất kinh doanh, các quan niệm về “khu vực công” và “khu vực tư” càng ngày trở nên khó phân biệt. Thêm vào đó, việc chuyển giao các công việc trước kia thuộc về nhà nước cho các khu vực phi nhà nước đã khiến cho quan niệm về công tư lại càng trở nên khó xác định. Xét cho cùng, tham nhũng là sử dụng quyền lực “công” để phục vụ lợi ích “tư” nhưng khái niệm “công” cần được mở rộng hơn trước. Nếu như trước kia “của công” đồng nghĩa với “Nhà nước” thì hiện nay nó gần đồng nghĩa với khái niệm “của chung” (tức là không chỉ nhà nước mà ngay trong các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay bất cứ một nhóm người nào đó). Mặt khác, nhận thức được tác hại của tham nhũng trong "khu vực tư", ngày càng nhiều ý kiến cũng đồng tình với việc Chính phủ cần mở rộng việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng sang khu vực này. Qua khảo sát cho thấy khi được hỏi thì 43,14% cán bộ, công chức, 38,74% hưu trí, 46,42% học sinh, sinh viên, nhóm 34,51% các nghề nghiệp khác cho rằng cần phải đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong cả khu vực ngoài nhà nước (các doanh nghiệp dân doanh, các tổ chức xã hội)5. Chính vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu đưa ra những cơ chế phù hợp với yêu cầu mới của 5 Kết quả điều tra xã hội học do Viện Khoa học Thanh tra thực hiện trong khuôn khổ đề tài "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng cho đến năm 2020" 17 cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Có thể hiện nay, vấn đề này còn chưa gay gắt nhưng chắc chắn trong một vài năm tới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, vấn đề chống tham nhũng trong các khu vực ngoài nhà nước sẽ trở nên bức thiết. Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã ký kết và đang trong quá trình phê chuẩn cũng nhấn mạnh vấn đề này. 1.2 Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng Như đã trình bày, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm, khái niệm khác nhau về tham nhũng. Tương ứng với mỗi loại khái niệm về tham nhũng là các đặc trưng khác nhau về tham nhũng. Tuy các khái niệm có phạm vi và mức độ khác nhau, nhưng về cơ bản, các khái niệm này đều thống nhất với nhau về ba đặc trưng (yếu tố) không thể thiếu được của tham nhũng, đó là: vị trí công tác, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; sự lợi dụng vị trí đó; có mục đích vụ lợi (cho mình hoặc cho người khác). Phân tích khái niệm “tham nhũng” theo quy định của pháp luật Việt Nam, có thể thấy tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau: - Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn. Đặc điểm của tham nhũng là người có hành vi này phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3 Điều 1 của Luật phòng, chống tham nhũng). Nhìn chung, những đối tượng này có những đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối tượng khác, như họ thường là những người có quá trình công tác và cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng. - Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao. “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Trong hành vi tham nhũng thì người thực hiện hành vi tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi 18 ích cho mình hoặc cho gia đình mình hoặc cho người khác. Đây cũng là một yếu tố rất cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn đã có hành vi vi phạm với mục đích vụ lợi nhưng không dựa trên sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì cũng không phải hành vi tham nhũng mà có thể phạm tội khác (chẳng hạn như trộm cắp...). - Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi Hành vi tham nhũng là hành vi chủ ý, có mục đích. Mục đích của hành vi tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Như vậy, chủ thể của hành vi tham nhũng không nhất thiết phải đã đạt được lợi ích mà lợi ích này có thể sẽ có trong tương lai. Liên quan đến yếu tố vụ lợi, một trong những điểm yếu của pháp luật Việt Nam hiện nay là trong đa số các trường hợp, việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, trên cơ sở đó quyết định hình phạt chỉ nhằm vào những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được. Điều đó chỉ phù hợp với nền kinh tế hiện vật trước đây. Trong cơ chế thị trường, lợi ích vật chất chạy rất “vòng vèo”, vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ (trong các tội danh quy định trong Bộ luật hình sự thì việc xác định giá trị tài sản tham nhũng chủ yếu được tính ra tiền để xác định mức độ nguy hiểm và quyết định hình phạt). Ngoài ra, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt (chẳng hạn việc dùng tài sản của nhà nước để phô trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để dễ bề kiếm chác sau này thì mục đích của hành vi này vừa là lợi ích vật chất vừa là lợi ích tinh thần...) II. Nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng 2.1 Nguồn gốc của tham nhũng Nghiên cứu khái niệm và đặc trưng của tham nhũng cho thấy, vấn đề quyền lực và lợi ích cá nhân là những dấu hiệu rất cơ bản của tham nhũng. Tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân. Qua nghiên cứu về tham nhũng của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng qua các thời kỳ lịch sử, có thể nhận thấy: - Tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy Nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực công cộng khác. 19 - Cùng với sự phát triển của các hình thái Nhà nước thì kinh tế thị trường và sự can thiệp của Nhà nước là những tiền đề khách quan quan trọng làm cho nạn tham nhũng phát triển. - Vấn đề lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi yếu tố lợi ích kết hợp với sự tha hoá, biến chất, xuống cấp về đạo đức của những người có chức vụ, quyền hạn thì khả năng xảy ra tham nhũng là rất cao. Như vậy, tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Chừng nào còn Nhà nước và các hình thức quyền lực chính trị bị tha hoá bởi thói tham lam, ích kỷ thì còn có thể xảy ra tham nhũng - có thể coi tham nhũng là căn bệnh bẩm sinh của quyền lực. Nhận thức đó không đồng nghĩa với việc coi tham nhũng là điều đương nhiên phải chấp nhận trong bộ máy nhà nước mà là để chúng ta có một ý thức rõ ràng về nguy cơ tiềm tàng của nó trong hoạt động của bộ máy nhà nước và có các giải pháp ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tệ nạn này 2.2 Nguyên nhân của tham nhũng Tham nhũng do nhiều nguyên nhân, trong đó, có một số nguyên nhân cơ bản như sau: - Thứ nhất, nguyên nhân về quản lý nhà nước. Hệ thống quản lý nhà nước lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi, hiện tượng tham nhũng, tiêu cực và vi phạm pháp luật có điều kiện phát triển. Quản lý yếu kém, lỏng lẻo thường thể hiện ở các mặt: hệ thống pháp luật lạc hậu, thiếu đồng bộ, không hoàn thiện; bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ công chức yếu kém về năng lực, đạo đức; chế độ đãi ngộ không thỏa đáng trong khi vấn đề trách nhiệm giải trình cũng như kiểm tra, giám sát, đánh giá không rõ ràng; cơ chế phòng ngừa và xử lý tham nhũng thiếu hoàn thiện... - Thứ hai, nguyên nhân về kinh tế. Nền kinh tế kém phát triển, đang phát triển hoặc trong quá trình chuyển đổi vừa là nguyên nhân những cũng là điều kiện, môi trường để phát sinh tham nhũng. Các nguyên nhân cụ thể bao gồm: cơ chế quản lý kinh tế yếu kém; nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế; khu vực kinh tế do nhà nước nắm giữ chiếm tỷ trọng quá lớn và bất hợp lý về cơ cấu trong tổng thể nền kinh tế quốc dân trong khi việc cổ phần hoá, tư nhân hoá tiến hành chậm, có nhiều tiêu cực; hoạt động bảo hộ, trợ cấp, cấp phép của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động kinh doanh, thương mại được thực hiện một cách sai trái, thiếu minh bạch; sự cấu kết giữa công chức, doanh nghiệp nhà 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan