Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay...

Tài liệu Luận án tiến sĩ Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay

.PDF
218
155
123

Mô tả:

0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Đức Sơn TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội - 2015 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Đức Sơn TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 62 21 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Người hướng dẫn khoa học: PGS. NGUYỄN XUÂN THÀNH Hà Nội - 2015 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những ý kiến, nhận định khoa học của các tác giả khác được ghi chú xuất xứ đầy đủ. Hà Nội, ngày tháng năm 2015 Tác giả luận án Nguyễn Đức Sơn 2 MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................... MỤC LỤC ................................................................................................. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................... MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 2 3 4 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM ................................................................................................ 1.1. Khái lược về tranh kỹ thuật số ............................................................ 1.2. Sự hình thành nghệ thuật đa phương tiện và tranh kỹ thuật số ........... Tiểu kết ....................................................................................................... 24 24 37 58 Chương 2: ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM .......................................................................................................... 2.1. Đặc điểm tranh kỹ thuật số ở Việt Nam .............................................. 2.2. Khuynh hướng sáng tác tranh kỹ thuật số ở Việt Nam ....................... 2.3. Đặc trưng tạo hình trong tranh kỹ thuật số ở Việt Nam ..................... Tiểu kết ....................................................................................................... 60 60 73 90 97 Chương 3: LUẬN BÀN VỀ PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠI TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................... 3.1. Một số vấn đề của tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay ................. 3.2. Phương thức biểu đạt tranh kỹ thuật số ở Việt Nam ........................... Tiểu kết ....................................................................................................... KẾT LUẬN ............................................................................................... 99 99 114 128 130 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ...................... 134 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 135 PHỤ LỤC .................................................................................................. 147 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ B. Bảng CNTT Công nghệ thông tin ĐPT đa phương tiện H. Hình KTS kỹ thuật số Nxb Nhà xuất bản PL. Phụ lục TP. HCM thành phố Hồ Chí Minh tr. trang TLTK Tài liệu tham khảo 4 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1: Tính chất của những dạng phương tiện trong nghệ thuật ĐPT ..... 149 Bảng 2: Bảng so sánh quy trình vẽ tranh KTS với vẽ tranh hội họa giá vẽ truyền thống ................................................................................................ 150 Bảng 3: Bảng hỏi nghiên cứu khảo sát (phỏng vấn trực tiếp, qua điện thoại hoặc email) ........................................................................................ 151 Bảng 4: Bảng hỏi nghiên cứu khảo sát (thông qua trang web khảo sát trên internet) .............................................................................................. 152 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới ngày nay đã và đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới với một nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức, hội nhập toàn cầu hoá. Các quốc gia trên thế giới đang có những bước chuyển nhanh và mạnh từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Chính bởi sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ thông tin (CNTT) đã ảnh hưởng một cách sâu rộng đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... của nhân loại. Hoà cùng với xu thế phát triển chung cuả thế giới, Việt Nam cũng đã và đang chuyển mình mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mọi lĩnh vực của đời sống: kinh tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật… đều có những bước phát triển đáng kể, cả về chất cũng như về lượng nhằm thích ứng với điều kiện phát triển mới của đất nước cũng như xu thế chung của toàn nhân loại khi bước vào thiên niên kỷ mới - kỷ nguyên kỹ thuật số (KTS). Trong lĩnh vực nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, ngày càng có nhiều nghệ sĩ ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sáng tạo và thực hành nghệ thuật. Điều này đã đem lại nhiều biến đổi về quan niệm cũng như trong hình thức thể hiện nghệ thuật. Một đội ngũ “hoạ sĩ số” [36, tr.161] cũng dần hình thành và phát triển ở Việt Nam hiện nay. Họ đã và đang góp phần xây dựng Việt Nam với một nền nghệ thuật phát triển cao tương xứng với một “nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [9]. Từ thực tế đó, một dạng thức nghệ thuật đã xuất hiện, hình thành và phát triển ở Việt Nam thông qua con đường giao lưu văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam với thế giới đương đại trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Đó chính là nghệ thuật kỹ thuật số (KTS). 6 Quá trình vận động nền nghệ thuật trong nước dẫn đến sự hình thành và phát triển của hình thức tranh KTS. Do đó ngày càng nhiều họa sĩ sử dụng máy vi tính với tư cách là một công cụ hỗ trợ sáng tác mỹ thuật, đa phương tiện (ĐPT), đa chức năng, thể hiện một cách hiệu quả những ý tưởng sáng tạo và quá trình “sản xuất sản phẩm thẩm mỹ” [30]. Việc khai thác triệt để khả năng ứng dụng máy vi tính trong lĩnh vực mỹ thuật giúp họa sĩ có thể tạo ra những tác phẩm nghệ thuật một cách nhanh chóng. Mặc dù vậy ở Việt Nam hiện nay, khi đề cập đến tranh KTS, rất nhiều người thậm chí là cả giới nghệ sĩ cũng đều nhìn nhận nó dưới góc độ kỹ thuật. Lý do chính là sự thiếu cập nhật thông tin đã gây ra những hiểu biết sai lệch về lĩnh vực này và tạo ra tâm lý “sùng mộ” một cách quá đáng hoặc dè dặt, e sợ, thậm chí “dị ứng” đối với tranh KTS… Về phương diện lý luận nghệ thuật, ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những tài liệu, bài viết và giáo trình có nội dung về đồ họa vi tính nhưng lại ít đề cập đến tranh KTS. Rất cần những công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành về các vấn đề của tranh KTS. Để từ đó có một cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về hình thức của dạng nghệ thuật này. Việc nghiên cứu và xem xét tranh KTS theo quan điểm: nghệ thuật học, mỹ thuật học, ký hiệu học nghệ thuật, cấu trúc văn bản nghệ thuật… nhằm đúc kết thành một công trình mang tính khoa học là rất cần thiết và cấp bách. Thực tế ở Việt Nam vẫn còn thiếu những nghiên cứu về lĩnh vực tạo hình trong các tác phẩm được thể hiện bằng cách ứng dụng các phương tiện KTS. Hơn nữa, tranh KTS phát triển ở Việt Nam hiện nay vẫn mang tính chất manh mún và bộc phát. Cần phải có những chiến lược phát triển dài lâu nhằm thúc đẩy cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển của nghệ thuật KTS trong xã hội một cách chuyên nghiệp và có định hướng. Đối với những họa sĩ vẽ tranh KTS cũng chưa thực sự tìm được những hướng đi vững chắc cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Đa số họ chỉ 7 dừng lại ở mức độ tìm kiếm và thể nghiệm các kỹ thuật vẽ KTS... Xuất phát từ tình hình thực tiễn nêu trên, tác giả luận án mạnh dạn chọn đề tài Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay. Thông qua đó, đề tài nghiên cứu muốn đề cập đến thực trạng, xu hướng phát triển và sự biến đổi của mỹ thuật Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Đồng thời cũng phân tích, tổng hợp và lý giải những vấn đề liên quan đến tranh KTS cũng như ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đề tài Trên thế giới, việc nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT đã và đang phát triển mạnh, trải rộng trên mọi khía cạnh của lĩnh vực này như: nghệ thuật KTS, nghệ thuật đồ họa, hoạt hình, nghệ thuật thực tế ảo, nghệ thuật nhiếp ảnh, điện ảnh, nghệ thuật truyền thông tương tác... Công trình nghiên cứu The digital computer as a creative medium (Máy vi tính KTS với tư cách là một phương tiện sáng tạo) [40] của tác giả A. Micheal Noll đề cập đến việc sử dụng máy vi tính trong thực hành nghệ thuật như là một phương tiện sáng tạo nghệ thuật. Ông cố gắng tìm hiểu những khả năng của máy tính được ứng dụng trong nghệ thuật như là một “môi trường nghệ thuật”, đồng thời cũng đưa ra một số dự đoán về sự phát triển của nghệ thuật trong tương lai. Tác giả Frank Dietrick trong nghiên cứu Visual Intelligence: The first Decade of Computer Art (1965 - 1975) (Thị giác thông minh: Thập niên đầu tiên của nghệ thuật máy tính (1965 – 1975)) [62] bàn nhiều về sự phát triển của nghệ thuật đồ họa vi tính trong những năm thập niên 60 của thế kỷ XX. Thông qua đó, tác giả cũng phần nào giới thiệu được những hoạt động nghệ thuật KTS của một số nghệ sĩ được cho là những người tiên phong trong thời kỳ đầu của nghệ thuật vẽ tranh KTS trên thế giới. Nổi bật trong hướng nghiên cứu lý luận nghệ thuật ĐPT là Media 8 Aesthetics - Aesthetics Theory (Lý thuyết thẩm mỹ - Thẩm mỹ của phương tiện) [69] của tác giả Herber T. Zettl tại Đại học bang San Francisco nghiên cứu về những ứng dụng thẩm mỹ trên các phương tiện truyền thông. Nghiên cứu đưa ra những lý thuyết quan trọng (lý thuyết công cụ) nhằm phân tích tính thẩm mỹ của các tác phẩm nghệ thuật ĐPT một cách phù hợp và đáng tin cậy. Qua đó, tác giả đã cho thấy các xu hướng về phong cách cũng như các kỹ thuật cụ thể trong quá trình sáng tạo tác phẩm thẩm mỹ. Đây chính là một công trình nghiên cứu về một lĩnh vực rộng lớn có liên quan đến những giới hạn thẩm mỹ của các hiệu ứng tăng cường cho máy vi tính trong sáng tác và thể hiện tác phẩm. Herbert W. Franke Leonardo trong nghiên cứu The New Visual Age: The Influence of Computer Graphics on Art and Society (Kỷ nguyên thị giác mới: Sự ảnh hưởng của đồ họa vi tính đến nghệ thuật và xã hội) [70] đề cập đến những ảnh hưởng của đồ họa vi tính trong nghệ thuật và xã hội vào thời điểm những năm thập niên 80 của thế kỷ XX. Đồng thời tác giả cũng đưa ra những lập luận về sự phát triển trong lĩnh vực CNTT đã và đang làm cho nghệ thuật KTS thâm nhập ngày càng sâu rộng hơn vào giới nghệ sĩ chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư trong xã hội. Công trình nghiên cứu Visual Literacy Theory (Lý thuyết văn hóa thị giác) [91] của Paul Messaris về hình ảnh thị giác trong nhiều lĩnh vực từ truyền thông có liên quan đến tâm lý học, giáo dục, thẩm mỹ và thậm chí cả trong nghiên cứu văn hóa. Qua đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc trình bày, thể hiện, bố cục tác phẩm thông qua hình ảnh đối với các học giả nghiên cứu về hình ảnh thị giác. Thông qua việc hướng dẫn người xem cách quan sát và thưởng ngoạn tác phẩm nghệ thuật; lý thuyết về hình ảnh thị giác có thể là một cơ sở giúp người xem hiểu rõ hơn về sức mạnh của hình ảnh, đặc biệt là khi chúng được sử dụng trong các phương tiện truyền thông đại 9 chúng và quảng cáo. Tài liệu này cũng đề cập đến việc sử dụng hình ảnh thị giác để làm giàu nhận thức của người xem... Trong lĩnh vực bản quyền tác phẩm. Bài viết Copyright Law in the Digital Age (Luật bản quyền trong kỷ nguyên KTS) [74] của Jordan M. Blanke bàn về thực trạng pháp luật nói chung về quyền tác giả đối với các công trình, tác phẩm nghệ thuật KTS hoặc tác phẩm được số hóa trên các phương tiện truyền thông khác nhau… Nghiên cứu của William Vaughan: History of Art in the Digital Age: Problems and Possibilities (Lịch sử nghệ thuật trong kỷ nguyên KTS: những vấn đề và khả năng) [98] nhằm mục đích cung cấp một tổng quan về sự tác động của máy vi tính trong việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Tài liệu này cũng ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hình ảnh, xem xét cả những tiềm năng của hình ảnh KTS làm nảy sinh những hình thức nghiên cứu và phân tích mới trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, cũng như những cơ hội mới nổi lên thông qua hệ thống mạng toàn cầu internet. Công trình nghiên cứu của Boden, M. Aesthetics and Interactive Art (Thẩm mỹ và nghệ thuật tương tác) [48] đưa ra và khẳng định tính mới trong nghệ thuật tương tác cũng như tầm quan trọng của nó đối với lịch sử nghệ thuật, bảo trợ và thực hành nghệ thuật. Qua đó là cơ sở để tiếp tục phát triển một số lý thuyết mở rộng trong nhiều lĩnh vực của nghệ thuật: từ hình thức nghệ thuật hội họa đến nghệ thuật tương tác. Bài báo khoa học của Daniel Palmer: Embodying Judgement: New Media and Art Criticism (Đánh giá tổng quan: Phương tiện truyền thông mới và phê bình nghệ thuật) [53] là một phần của một dự án lớn nhằm khám phá ra những tác động của các nghệ sĩ sử dụng công nghệ truyền thông (bao gồm cả video, nhiếp ảnh và các phương tiện truyền thông KTS) trong tiếp nhận nghệ thuật. 10 Bài viết nghiên cứu của Frieder Nake: Behind the Canvas: an Algorithmic Space Reflections on Digital Art (Phía sau khung tranh: Sự phản ánh không gian thuật toán trong nghệ thuật KTS) [63] bàn nhiều về không gian trong hình ảnh và không gian nghệ thuật. Tác giả đã chỉ ra và phân tích một số điểm tương đồng giữa nghệ thuật “readymade” của Duchamp và nghệ thuật KTS. Bằng cách nêu vấn đề, bài viết nghiên cứu của George Mallen On the relationship of computing to the arts and culture – an evolutionary perspective (Mối quan hệ giữa máy tính với nghệ thuật và văn hóa – một hướng tiến hóa) [66] đã đề cập nhiều đến vấn đề nghệ thuật trong kỷ nguyên KTS. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã làm rõ được mối quan hệ của máy tính với nghệ thuật và văn hóa trong thế giới hiện đại của nhân loại cũng như với thế giới bên ngoài. Tác giả lý giải và khẳng định việc tiếp cận, cập nhật những kiến thức và công nghệ phát triển nhanh chóng sẽ đem lại những thành tựu đáng kể cho nghệ thuật vi tính. Tháng 6 năm 1967, Sol LeWitt giới thiệu Paragraphs on Conceptual Art (Những đoạn văn về nghệ thuật ý niệm) trong Artforum. Bài viết này đã trở thành một văn bản lý thuyết có ảnh hưởng đến nghệ thuật của thế kỷ XX. Nó được coi như là một bản “tuyên ngôn” tồn tại gần một thập kỷ. Trong bối cảnh kỷ nguyên KTS, kể từ khi nghệ thuật máy tính mở đường cho sự xuất hiện và phát triển của nghệ thuật Ý niệm, Frieder Nake cũng muốn mượn phong cách đặt tiêu đề cũ của bản “tuyên ngôn” đầu tiên cho bài viết Paragraphs on Computer art, past and present (Những đoạn văn về nghệ thuật máy tính, quá khứ và hiện tại) [64] của ông. Kể từ khi triển lãm đầu tiên về nghệ thuật máy tính KTS năm 1965, bài viết là một tuyên ngôn của Nghệ thuật KTS. Bài viết của Frieder Nake cũng có thể được coi như là một bản tuyên ngôn thứ hai về nghệ thuật máy tính. 11 Bài viết Creating continuity between computer art history and contemporary art (Sự sáng tạo liên tục giữa lịch sử nghệ thuật máy tính và nghệ thuật đương đại) [49] của Bruce Wands tìm hiểu phương thức tạo ra sự liên tục giữa lịch sử nghệ thuật máy tính với các nghệ sĩ thế hệ mới, những người lao động nghệ thuật trên máy tính một cách tự nhiên nhằm tạo nên nền nghệ thuật KTS phát triển như hiện nay. Trong tài liệu nghiên cứu The Computer as a dynamic medium (Máy vi tính như là một phương tiện động) [88] của Nick Lambert đề cập đến không gian đại diện trong các màn hình máy tính. Tác giả chỉ ra rằng hình ảnh máy tính là kết quả của một quá trình hiển thị động. Hiển thị hình ảnh trong nghệ thuật máy tính rất linh hoạt trong không gian ảo của máy tính. Báo cáo khoa học Transitioning to a Digital World - Art History, Its Research Centers, and Digital Scholarship (Chuyển đổi sang một thế giới KTS - Lịch sử Nghệ thuật, Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Nghệ thuật, và học thuật KTS) [58] kết hợp các cuộc phỏng vấn với nghiên cứu các trang web của trung tâm nghiên cứu đã đưa ra một số chủ đề: vai trò của các trung tâm nghiên cứu lịch sử nghệ thuật trong việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật KTS; những thách thức trong giảng dạy lịch sử nghệ thuật, nghiên cứu và học thuật trong lĩnh vực KTS; truy cập các công cụ KTS, dịch vụ và các nguồn lực cần thiết cho những nghiên cứu; phương pháp sư phạm KTS trong lịch sử nghệ thuật; vai trò và giới hạn của xuất bản KTS và những đổi mới trong lĩnh vực này; vai trò của các tổ chức tài trợ nghệ thuật trong việc hỗ trợ hoạt động nghiên cứu lịch sử nghệ thuật KTS. Công trình nghiên cứu của Anna Bentkowska-Kafel, Trish Cashen và Hazel Gardiner: Digital Art History, A Subject in Transition, Computers and the History of Art (Lịch sử Nghệ thuật KTS, một chủ đề trong quá trình chuyển đổi, Máy tính và Lịch sử Nghệ thuật) [42] khẳng định rằng nghệ thuật 12 KTS không phải là một hoạt động độc lập rời rạc được tách ra từ các loại hình nghệ thuật khác. Mà nó chính là một phương pháp tiếp cận và có thể liên quan đến tất cả các phương thức liên kết với các dạng thực hành nghệ thuật khác. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, trong nước cũng đã có những bài viết về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT, tuy nhiên nhìn chung còn khá phổ quát và chưa chuyên sâu trong lĩnh vực mỹ thuật: Đầu tiên phải kể đến tài liệu của tác giả Đỗ Trung Tuấn Giới thiệu về Đa phương tiện (Introdution to Multimedia) [34] có bàn về ĐPT (Multimedia). Tài liệu chủ yếu giới thiệu khái quát về Multimedia, mô tả các dạng của Multimedia, trong đó đề cập đến các tình huống dùng Multimeida, những vấn đề liên quan đến bản quyền trong công nghiệp Multimedia. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ dừng lại ở những vấn đề cơ bản chung nhất của lĩnh vực Multimedia, chưa đề cập về nghệ thuật KTS cũng như những vấn đề liên quan đến việc ứng dụng ĐPT trong mỹ thuật. Tài liệu dịch của nhóm tác giả Cao Thụy và Cao Bình về Multimedia và thế giới ảo [2] giới thiệu khái quát về nghệ thuật truyền thông ĐPT và những kiến thức cơ bản về thế giới ảo trong công nghệ Games và những ứng dụng của Multimedia trong giáo dục. Tài liệu là cuốn cẩm nang cho người đọc tham khảo và bổ sung kiến thức chung về thực tế ảo trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thông ĐPT. Nhóm tác giả Mai Thanh Long và Nguyễn Thanh Tùng cũng có sách Ngành mỹ thuật ĐPT [19]. Tài liệu này đề cập và mô tả ngành mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam với mức độ nêu vấn đề, liệt kê và giải thích những kiến thức phổ thông trong lĩnh vực mỹ thuật ĐPT nhằm hướng nghiệp cho đối tượng là học sinh phổ thông. Ở luận văn Thạc sĩ [30] của tác giả luận án (bảo vệ năm 2009), chủ yếu tập trung vào nghiên cứu những đặc trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam 13 trong kỷ nguyên KTS. Tác giả tập trung làm rõ sự hình thành và phát triển của mỹ thuật ĐPT, những đặc trưng cơ bản của mỹ thuật ĐPT trên thế giới và ở Việt Nam... Ngoài ra, tác giả luận án cũng đóng góp và thực hiện một số bài viết nghiên cứu về nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam: bài tham luận Thiết kế đồ họa – Giảng dạy thiết kế đồ họa trong kỷ nguyên KTS [36] đề cập đến thiết kế đồ họa của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. Qua đó dự báo trước được xu hướng vận động cũng như sự phát triển của đồ họa Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Bài viết cũng đề xuất những kiến nghị cũng như những giải pháp nhằm định hướng cho các trường đào tạo thiết kế đồ họa điều chỉnh cách giảng dạy và học tập thiết kế đồ họa phù hợp với tình hình mới của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. Các bài tham luận Giảng dạy mỹ thuật truyền thông ĐPT ở Việt Nam trong Kỷ nguyên KTS [5], Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo thiết kế mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam hiện nay [38], Một số vấn đề về ứng dụng Công nghệ KTS trong Công nghệ dạy và học thiết kế ở Việt Nam hiện nay [6] nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề giảng dạy mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Thực trạng và giải pháp để phát triển đội ngũ họa sĩ mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam. Ứng dụng Công nghệ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là CNTT trong giảng dạy và học tập mỹ thuật ĐPT... Bài viết Đặc trưng mỹ thuật ĐPT đề cập đến những đặc trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam, những ưu điểm và hạn chế của những đặc trưng này trong xã hội nói chung cũng như trong nghệ thuật tạo hình nói riêng. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT đến nghệ thuật thị giác đề cập đến phần còn thiếu trong hoạt động lý luận phê bình nghệ thuật Việt Nam khi chưa có nhận định, đánh giá cũng như sự định hướng cần thiết cho sự phát triển của nghệ thuật thị giác ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Bài viết khẳng định vai trò, đồng thời phân tích làm rõ sự ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT trong dòng chảy chung của Mỹ thuật Việt Nam đương đại. Kỷ nguyên KTS đã tạo ra cho nền Nghệ thuật Việt Nam 14 những thời cơ thuận lợi để phát triển nghệ thuật ĐPT được các nghệ sĩ lĩnh hội và phát triển nó trở thành một trong những lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế, văn hóa, nghệ thuật hiện nay. Tuy nhiên sự phát triển nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam hiện nay vẫn còn manh mún, bộc phát, chưa có những chiến lược phát triển dài lâu. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT đến sự phát triển của nghệ thuật thị giác Việt Nam trong kỷ nguyên KTS cũng đề cập đến những giải pháp quản lý vĩ mô với những chiến lược đào tạo dài hạn, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ “họa sĩ số”. Bên cạnh đó cần phải có hành lang pháp lý bảo vệ, duy trì và phát triển nghệ thuật ĐPT nói riêng và nghệ thuật thị giác nói chung ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS... Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng trên thực tế rất cần có những công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành để luận giải và đúc kết những vấn đề về lý luận khoa học và thực tiễn của nghệ thuật KTS cụ thể là tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu tổng quát: đề tài nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ tạo hình tranh KTS trong lĩnh vực nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam. Qua đó, đề xuất những giải pháp trong hoạt động, nghiên cứu và thực hành nghệ thuật KTS, góp phần phát triển nền Mỹ thuật nói chung và nghệ thuật KTS nói riêng ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Mục tiêu cụ thể: luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nêu lên được những đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ cấu trúc nền tảng mỹ thuật, cơ sở tạo hình, cũng như bố cục và thủ pháp tạo hình tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ bản chất cũng như vai trò của họa sĩ trong quá trình sáng tác và thể hiện tranh KTS trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. 15 Bên cạnh đó, luận án cũng luận bàn về phương thức tạo hình tranh KTS ở Việt Nam trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của xã hội và góp phần xây dựng nền mỹ thuật Việt Nam phát triển. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích điều kiện văn hóa, xã hội, nghệ thuật Việt Nam, luận án dự đoán sự phát triển của tranh KTS ở Việt Nam trên cơ sở khoa học và khách quan. Tạo cơ sở tiền đề cho những nghiên cứu chuyên sâu hơn của các nhà nghiên cứu phê bình, lý luận nghệ thuật về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT nói chung và tranh KTS nói riêng ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: tranh KTS ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: tranh KTS ở Việt Nam (nghiên cứu trường hợp ứng dụng phương tiện KTS trong quá trình vẽ tranh). Giới hạn về thời gian: nghiên cứu từ năm 2000 đến nay (đầu thế kỷ XXI đến nay). Giới hạn về không gian: tập trung nghiên cứu ở hai trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam là Hà Nội và TP. HCM. Tài liệu nghiên cứu: tranh hội họa giá vẽ và tranh KTS ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận và Lịch sử mỹ thuật. Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở mỹ thuật học, thông qua nghiên cứu đa ngành, liên ngành như: văn hóa, lịch sử, khoa học, nghệ thuật, mỹ thuật… Quá trình nghiên cứu thông qua các phương pháp chủ yếu sau: Nghiên cứu văn bản, tài liệu: tham khảo, phân tích những công trình nghiên cứu, bài viết, bài tham luận, bài báo khoa học… trong và ngoài nước về tranh KTS từ đó đưa ra được tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đề tài cũng như cơ sở lý luận chung của luận án. Bên cạnh đó, luận án nghiên cứu những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật 16 của Nhà nước về vấn đề văn hóa nghệ thuật trong bối cảnh hiện nay làm cơ sở đánh giá và đề xuất giải pháp. Các tác giả, tác phẩm hội họa giá vẽ và tranh KTS ở Việt Nam cũng như trên thế giới được sử dụng để nghiên cứu, làm dẫn chứng và phân tích. Nghiên cứu thực tế và điền dã: Khảo sát các cơ sở đào tạo Mỹ thuật và nghệ thuật ĐPT có tầm ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật thị giác ở Việt Nam; xưởng vẽ; bảo tàng; phòng triển lãm; công ty, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật và nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam… Phân tích và tổng hợp: phân tích tranh KTS thành những những yếu tố cấu thành đơn giản hơn để nghiên cứu nhằm phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của chúng. Từ đó giúp hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái tổng thể phức tạp thông qua những yếu tố bộ phận. Bên cạnh đó, từ những kết quả phân tích được, sẽ tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra những đặc trưng tạo hình tranh KTS ở Việt Nam. Quy nạp và diễn giải: Những lý thuyết, kinh nghiệm, hiểu biết về ngôn ngữ tạo hình sẽ được khái quát và quy nạp thành những nguyên lý chung. Phát hiện ra các quy luật, rút ra từ những kết luận tổng quát nhằm đưa ra các giả thuyết. Ngoài ra, luận án dùng phương pháp diễn giải đi từ cái bản chất, nguyên lý đã được thừa nhận trong những tài liệu của các tác giả khác trong lĩnh vực nghiên cứu nhằm tìm ra các hiện tượng, biểu hiện, những cái trùng hợp cụ thể trong thực tiễn vận động của nghệ thuật KTS ở Việt Nam. Phương pháp lịch sử: sự xuất hiện của tranh KTS ở Việt Nam được biểu hiện trong toàn bộ tính cụ thể của nó và theo một trật tự thời gian nhất định. Nếu đi theo dấu vết của lịch sử nghệ thuật KTS sẽ có cái nhìn trung thực về tranh KTS ở Việt Nam. Từ đó sẽ phát hiện ra quy luật phát triển và những đặc điểm tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam. 17 Nghiên cứu khảo sát: Khảo sát thông qua phỏng vấn (Trực tiếp các tác giả hoặc thông qua điện thoại, hoặc email). Khảo sát trên internet (thông qua các website và diễn đàn nghệ thuật, sử dụng những đường dẫn liên kết người tham gia khảo sát đến trang web chứa các bảng câu hỏi khảo sát). Thể nghiệm: Việc vẽ tranh KTS nhằm nghiên cứu những thao tác của họa sĩ trong điều kiện sáng tác thực tế có thể giúp bổ sung thêm nhận thức về những phương thức vẽ tranh KTS một cách hoàn thiện hơn. Tác giả luận án cố gắng tham gia sáng tác tranh KTS (ứng dụng phương tiện KTS trong quá trình vẽ tranh) nhằm bổ sung thêm những nội dung mang tính thực tiễn cho đề tài nghiên cứu. 6. Giả thuyết nghiên cứu Ngày nay, khi họa sĩ sử dụng máy tính như là một phương tiện, công cụ để hỗ trợ sáng tác nghệ thuật, đã làm nảy sinh vấn đề rằng liệu tranh KTS có phải là nghệ thuật hay không? Giả thiết rằng nếu tranh KTS cũng được coi là một dạng nghệ thuật, vậy thì đặc trưng của nó là gì? Hơn thế nữa, CNTT hiện nay đang phát triển rất nhanh trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có nghệ thuật. Giả thiết rằng ở Việt Nam hiện nay có nhiều người vẽ tranh KTS, vậy tranh KTS ở Việt Nam có những khuynh hướng sáng tác và đặc trưng nào? Những phương thức vẽ nào có thể làm cho tranh KTS trở nên sống động hơn, hấp dẫn hơn, và có giá trị nghệ thuật cao? Cần có những định hướng và giải pháp nào nhằm phát triển tranh KTS ở Việt Nam? Thông qua nghiên cứu, đề tài luận án sẽ làm sáng tỏ những giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu nêu trên. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Đề tài nghiên cứu đưa ra cách nhìn nhận có hệ thống về đặc trưng tạo hình và phương thức vẽ tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài 18 nghiên cứu cũng đề xuất những giải pháp tích cực từ việc phân tích, tổng hợp trong thực tiễn nghệ thuật ở Việt Nam, góp phần dự báo và định hướng cho sự phát triển của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai. Đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo về lý thuyết và thực tiễn cho các đối tượng là nhà phê bình, lý luận nghệ thuật, nhà quản lý văn hóa nghệ thuật, họa sĩ, nhà thiết kế đang hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật KTS; làm tư liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu phê bình, lý luận và lịch sử mỹ thuật, nghiên cứu và giảng dạy môn cơ sở ngành nghệ thuật ĐPT trong các cơ sở đào tạo mỹ thuật ở Việt Nam. 8. Một số khái niệm công cụ Thuật ngữ Hội họa: Theo từ điển Encyclopædia Britannica, hội họa là sự biểu hiện ý tưởng và cảm xúc nhằm tạo ra giá trị thẩm mỹ nhất định thông qua ngôn ngữ thị giác trên mặt phẳng hai chiều. Các yếu tố của ngôn ngữ thị giác gồm: đường nét, hình dạng, màu sắc, kết cấu… Chúng được sử dụng bằng nhiều cách khác nhau nhằm tạo nên cảm giác về không gian, chuyển động và ánh sáng trên một bề mặt phẳng. Những yếu tố này được sắp xếp bố cục trên bề mặt tranh nhằm thể hiện các hiện tượng thực tế hoặc thiên nhiên, biểu đạt một câu chuyện hoặc có thể tạo ra một bố cục thị giác hoàn toàn trừu tượng. Họa sĩ sử dụng những phương tiện biểu đạt như màu bột, màu dầu, màu nước… và lựa chọn một hình thức thể hiện như: tranh tường, tranh giá vẽ, trang sách, màn ảnh hoặc bất kỳ của một hình thức hiện đại nào để vẽ. Mỗi nghệ sĩ sẽ có những chọn lựa riêng về phương tiện biểu đạt, hình thức cũng như kỹ thuật thể hiện nhằm tạo ra những hình ảnh thị giác độc đáo. Thuật ngữ Hội họa giá vẽ: Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, hội họa giá vẽ là loại tranh thường được tiến hành vẽ trên giá, do đấy thành tên gọi. Đó là loại hình hội hoạ thịnh hành từ thế kỷ XV ở Châu Âu sau khi thoát li quan hệ phụ thuộc với kiến trúc, bắt đầu bằng sự thể nghiệm những bố cục
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất