Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng d...

Tài liệu Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử việt nam giai đoạn 1919 – 1930 (2)

.DOC
37
135
103

Mô tả:

Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ Môn lịch sử ở trường phổ thông là môn học được sự quan tâm của toàn xã hội, vì nhân dân Việt Nam làm ra lịch sử bằng xương máu của mình, nên vô cùng yêu quý lịch sử dân tộc. Mỗi con người Việt Nam chỉ có thể phát triển mọi năng lực sẵn có trên nền tảng những tri thức về lịch sử và văn hoá dân tộc. Giáo dục lịch sử là quy luật của giáo dục và đào tạo con người ở Việt Nam, cũng như ở mọi quốc gia trên thế giới. Môn lịch sử là môn học có nhiều cơ hội nhất và khả năng lớn nhất trong nhiệm vụ “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”, giáo dục và rèn luyện đạo đức con người Việt Nam. Do đó, vấn đề bồi dưỡng kiến thức môn lịch sử là nhiệm vụ quan trọng của các trường Trung học phổ thông chuyên hiện nay nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức thi đại học, cao đẳng và các kì thi chọn học sinh giỏi. Cũng như các môn học khác, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi là mục tiêu kép, tức là vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện của học sinh trung học phổ thông, vừa phải phát triển năng khiếu về một môn học để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử. Đặc điểm của học sinh chuyên là những học sinh xuất sắc ở các trường trung học cơ sở của địa phương, nhiều em đã dự thi và đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi các cấp và trúng tuyển theo quy chế tuyển sinh vào các trường Trung học phổ thông chuyên. Do đó, phương pháp dạy, phương pháp học ở trường Trung học phổ thông chuyên phải tiên tiến nhất, phù hợp với đối tượng học sinh của trường. Dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là quá trình truyền thụ của giáo viên và tiếp thu kiến thức của học sinh. Cho nên, vai trò của người giáo viên lịch sử ở trường chuyên là phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều 1 khiển học sinh phát triển tư duy lịch sử, nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là những vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh chuyên cần có một khối lượng lớn tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới và giải quyết được các dạng bài tập lịch sử. Muốn đạt được điều trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà còn phải là sự chuyên sâu về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ thầy, cô giáo lịch sử dạy chuyên. Từ thực tiễn giảng dạy, nhóm giáo viên Lịch Sử trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ, tỉnh Hoà Bình đã tập hợp tài liệu và tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 đến 1930”. Đây là một giai đoạn có nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng là một trong những nội dung trọng tâm trong các kì thi Đại học, Cao đẳng và thi Học sinh giỏi quốc gia. Mục tiêu của chúng tôi nhằm chia sẻ với các thầy, cô giáo dạy lịch sử nói chung và các thầy, cô giáo đang dạy đội tuyển cũng như học sinh giỏi đang ôn luyện đội tuyển cấp Tỉnh, Khu vực và cấp Quốc gia môn lịch sử nói riêng về những kiến thức cơ bản và phương pháp ôn luyện về giai đoạn lịch sử quan trọng này. 2 Phần thứ hai NỘI DUNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC 1.2. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lí luận cơ bản Trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, quá trình nhận thức của học sinh đi từ tri giác tài liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh đối chiếu …để tìm ra dấu hiệu bản chất, tức là hình thành khái niệm, rút ra quy luật, bài học. Như vậy trong hoạt động nhận thức của học sinh, tư duy có vai trò quan trọng, nếu không có tư duy thì học sinh không nhận thức được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Khi nói tới bản chất của hoạt động độc lập, các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử đều thống nhất là nó đặt ra sự tìm kiếm, sáng tạo một điều mới, quan trọng và cần thiết đối với việc hình thành kiến thức, nhân cách và phát triển tư duy của hoc sinh. Các dạng câu hỏi và bài tập lịch sử mà giáo viên hướng dẫn cho học sinh giải trong quá trình dạy học là một trong những hình thức kích thích hoạt động nhận thức, phát huy trí sáng tạo của các em trong quá trình học tập. Những thành tựu của lý luận dạy học hiện đại khẳng định rằng: Học sinh dù ở bậc học nào cũng đóng vai trò chủ thể trong hoạt động dạy học, bằng nhiều con đường khác nhau, phải tự mình chiếm lĩnh tri thức, hình thành và phát triển năng lực tư duy, năng lực hành động qua những hoạt động tích cực, tự giáo dục của bản thân. Cách học đó phù hợp với mục đích giáo dục - đào tạo con người trong xã hội hiện nay đó là những con người có "bốn trụ cột của nền giáo dục" mà UNESCO nêu ra "Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình" Đó là những cơ sở để xây dựng những nguyên tắc dạy học lịch sử nói chung và thực hiện biên soạn hệ thống câu hỏi, bài tập cho việc luyện thi học sinh giỏi các cấp môn lịch sử nói riêng. 3 1.2.2. Xuất phát từ đặc trưng của việc dạy học lịch sử Dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường THPT là một quá trình. Đó là một quá trình nhận thức đặc thù trong đó giáo viên tổ chức, dẫn dắt học sinh có mục đích, có kế hoạch sư phạm để học sinh nắm vững những tri thức cơ sở về lịch sử quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, dần dần hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, nhân cách và đạo đức học sinh. Học sinh vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình dạy học, do đó nó cũng tuân thủ quy luật nhận thức nói chung, mặt khác nó cũng mang những nét đặc thù, riêng biệt có sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của người thầy. Người thầy phải cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học, để trên cơ sở ấy tiến hành việc giáo dục tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức và bồi dưỡng khả năng nhận thức và hành động cho học sinh. Do đó, việc xây dựng biện pháp sư phạm nhằm kích thích hứng thú học tập, tự học, tự nghiên cứu và phát huy tính tích độc lập, sáng tạo trong tư duy của học sinh. 1.2.3. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh trung học Hoạt động học tập của học sinh THPT có thay đổi quan trọng về chất. Hoạt động tư duy của các em tích cực, độc lập hơn. Các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Các em thích khái quát hóa, thích tìm hiểu những qui luật và những nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn; tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Những đặc điểm này tạo điều kiện cho học sinh THPT nói chung và học sinh chuyên nói riêng có thể thực hiện các thao tác tư duy lô gic, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và xã hội...Tuy nhiên, hiện nay số học sinh THPT đạt mức độ 4 tư duy như trên chưa nhiều. Thiếu sót cơ bản trong tư duy của các em là thiếu tính độc lập. Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên để phát triển trí tuệ của học sinh trước khi bước vào các trường chuyên nghiệp 1.2.4. Đặc điểm nhận thức của học sinh chuyên và yêu cầu của việc học tập lịch sử ở trường THPT chuyên Mục tiêu đào tạo của trường chuyên là mục tiêu kép, nhiệm vụ trường chuyên vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện để hoàn thiện cho học sinh nền học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp vừa phải thực hiện sự tác động đúng hướng để phát triển năng khiếu của các em về một môn học. Riêng về năng khiếu một môn học, khi mới tuyển vào học trường chuyên thì học sinh mới chỉ là những em có kết quả học tập xuất sắc ở THCS, có khả năng tiềm ẩn một năng khiếu (chứ chưa chắc đã có năng khiếu) Trong quá trình học ở trường chuyên, nhà trường phải tiếp tục phát triển để đi tới khẳng định năng khiếu. Trên cơ sở đó mà phát triển năng khiếu của các em, giúp các em khi tốt nghiệp trường chuyên phải là những học sinh có năng khiếu phát triển. Mục tiêu lâu dài sau của trường chuyên là các em phải tự đào tạo thành những tài năng ở bậc đại học và sau đại học. Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là sự tiếp thu tri thức. Tri thức lại hết sức phong phú và đang tăng lên với tốc độ vô cùng nhanh chóng mà trường chuyên cũng không sao truyền thụ hết được.Trong khi đó khả năng hiểu biết và sự mong muốn của con người trong cả cuộc đời là vô cùng. Cho nên, dạy học ở trường chuyên phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của học sinh năng khiếu, cần thiết phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá trình tự chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập. Muốn đạt được điều này, vai trò của người thầy là rất lớn, 5 phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều khiển học sinh phát triển tư duy lịch sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là những đề tài tổng hợp, sâu rộng. Nếu không có vốn tri thức phong phú, không có một khối lượng lớn những tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, không có lòng ham muốn hiểu biết, ham muốn học hỏi, tự học, tự tìm tòi và phải biết suy nghĩ, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu kiến thức mới thì học sinh không thể nào giải quyết đựơc các vấn đề được đặt ra như các bài tập lịch sử. Sự nỗ lực trên của các em bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lí, ý thức, thái độ tình cảm. Nhưng khi đã giải quyết được vấn đề đặt ra học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi, hứng thú, say mê hơn với bộ môn; đồng thời có niềm tin vào bản thân và ý chí vươn lên mãi mãi trong cuộc sống. Tóm lại, yêu cầu học tập các bộ môn nói chung ở trường chuyên là rất cao trong đó có bộ môn lịch sử nhằm đào tạo những nhân tài tương lai cho đất nước. Nắm bắt đựơc yêu cầu này, người giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường chuyên phải căn cứ vào mục tiêu đào tạo, đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh chuyên để vạch kế hoạch sư phạm thích hợp, trong đó phải lựa chọn phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học tối ưu nhất góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường chuyên và đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục- đào tạo. 1.2.5. Cơ sở đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập của học sinh. Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã nêu rõ “Đổi mới hình thức, 6 phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học”. Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Cụ thể của xu hướng giáo dục định hướng năng lực là: Thứ nhất, đối với giáo viên: Được thể hiện qua 4 nhóm năng lực bao gồm: Năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực chẩn đoán và tư vấn, năng lực phát triển nghề nghiệp và phát triển trường học. Thứ hai, đối với học sinh giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Các thành phần năng lực năng lực của học sinh phù hợp với bốốn trụ cốốt giáo dục theo UNESCO. Ta co th ê hi êu theo mố hinh nh ư sau: Các thành phần năng lực Các trụ cột giáo dục của UNESO Năng lực chuyên môn Học để biết Năng lực phương pháp Học để làm Năng lực xã hội Học để cùng chung sống Năng lực cá thể Học để tự khẳng định Về năng lực chuyên môn (Professional competency): Là năng lực học tập của học sinh. Thể hiện nắm vững các khái niệm, phạm trù, quy luật, mối quan 7 hệ…Các kỹ năng để cần thiết kỹ năng khi xử lý một tình huống, một vấn đề cụ thể; khả năng vận dụng, đánh giá nội dung của tri thức. Về năng lực phương pháp (Methodical competency): Là khả năng giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề trong quá trình học tập. Được tiếp nhận qua việc giải quyết vấn đề với những nội dung và tình huống khác nhau. Thể hiện qua các kĩ năng thu thâp, xử lý, đánh giá, trình bày thông tin, phân tích, tổng hợp, so sánh thông tin. Về năng lực xã hội (Social competency): Là khả năng đạt được mục đích phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Nó được tiếp nhận qua việc học giao tiếp. Thể hiện qua việc liên hệ các vấn đề tri thức với cuộc sống. Năng lực cá thể (Induvidual competency): Là khả năng xác định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá nhân, phát triển năng khiếu. Nó được tiếp nhận qua việc thể hiện tư duy và hành động. Thể hiện qua việc nhận xét, đánh giá các vấn đề tri thức. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Vì vậy, người giáo viên không thể vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức. Trong nhiều năm gần đây, loại đề thi học sinh giỏi chủ yếu là đề tự luận, trong cấu trúc đề thường có khoảng 40% đến 50% số điểm cho khả năng nhận biết, phần còn lại dành cho đánh giá khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức. Nhận xét về loại đề thi bằng câu hỏi tự tự luận, cố Giáo sư Phan Ngọc Liên đã nhấn mạnh ưu thế loại đề này “đo được trình độ học sinh về lập luận, đòi hỏi các em phải lập kế hoạch và tổ chức việc trình bày ý kiến của mình có kết quả”(1). Như vậy, các đề thi Học sinh giỏi của nhiều năm trước đây đã thể hiện việc đánh giá theo năng lực người học. 2. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ CHUYÊN SÂU TRONG GIAI ĐOẠN 1() Phương pháp dạy học lịch sử, tập II, Phan Ngọc Liên (chủ biên), NXBSP, tr 230 8 LỊCH SỬ VIỆT NAM 1919 – 1930 2.1. Mục tiêu - Trình bày được những nét chính của tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ nhất có ảnh hưởng tới Việt Nam (các nước tư bản thắng trận họp tại Véc-xai phân chia lại thế giới; bước phát triển mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế). - Trình bày được Nội dung Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương, cùng với các chính sách về chính trị, văn hóa và giáo dục. - Tóm tắt được sự biến đổi về mặt kinh tế và xã hội Việt Nam; phân tích được địa vị kinh tế, thái độ chính trị và khả năng cách mạng của mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa; rút ra được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam lúc đó. - Trình bày được điều kiện lịch sử và các hoạt động tiêu biểu của phong trào yêu nước: Hoạt động của người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài (Trung Quốc và Pháp), những hoạt động của tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của công nhân. - Nêu được những hoạt động và phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam. - Trình bày được sự ra đời, hoạt động và vai trò của các tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng đảng, Việt Nam Quốc dân đảng. - Phân tích được nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của khởi nghĩa Yên Bái. 9 - Trình bày được sự phát triển của phong trào công nhân sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. - Trình bày được nguyên nhân và sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản năm 1929. - Trình bày được hoàn cảnh lịch sử và nội dung Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân tích được ý nghĩa sự ra đời của Đảng. - Phân tích được nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặc biệt làm rõ tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. - Phân tích được vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến đầu năm 1930. - Phân biệt được các khái niệm: lý luận cách mạng giải phóng dân tộc; cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng thổ địa (trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Luận cương lĩnh chính trị tháng 10/1930); tự phát, tự giác (trong phong trào công nhân), lực lượng, động lực cách mạng. 2.2. Các vấn đề cơ bản 1- Bối cảnh lịch sử sau Chiến tranh thế giới thứ nhất ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. - Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai cùng với các chính sách về chính trị, văn hóa và giáo dục của thực dân Pháp ở Đông Dương đã tác động đến kinh tế Việt Nam làm cho nền kinh tế, xã hội Việt Nam có những chuyển biến mới. - Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (1917) và làn sóng cách mạng thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoàn cảnh thế giới đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt 10 Nam, ảnh hưởng to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. - Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hoạt động trong phong trào cách mạng thế giới là sự chuẩn bị toàn diện về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. 2- Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925 - Phong trào yêu nước 1919 – 1925 của tư sản, tiểu tư sản: Dưới ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử mới, phong trào dân tộc dân chủ có bước phát triển mới với sự tham gia của giai cấp tư sản và tiểu tư sản với hình thức đấu tranh phong phú, sôi nổi, nhất là ở thành thị. - Phong trào công nhân từ 1919 – 1925: Sau Chiến tranh phong trào công nhân còn nổ ra lẻ tẻ, tự phát. Từ năm 1920, phong trào công nhân từng bước có chuyển biến, nhất là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (8/1925), đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam, mở đấu thời kì đi vào đấu tranh tự giác. 3- Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930 - Các tổ chức cách mạng Việt Nam ra đời và hoạt động: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925 – 1929); Tân Việt Cách mạng Đảng (1925 – 1929); Việt Nam quốc dân Đảng (1927 – 2/1930). - Phong trào dân tộc dân chủ 1925 – 1930: được đánh dấu bằng sự phát triển của Phong trào công nhân. Dưới tác động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, từ năm 1925 – 1929 phong trào này chuyển dần sang tự giác, đến năm 1930 thì hoàn toàn tự giác. Đầu năm 1930, Việt Nam quốc dân Đảng quyết định khởi nghĩa Yên Bái. 11 4 - Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - Từ năm 1911 – 1917, Nguyễn Tất Thành đi đến nhiều châu lục, 1917 Người trở lại nước Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp. - Từ năm 1919 – 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp: tham dự Hội nghị Véc-xai, đọc Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, gia nhập Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, viết nhiều sách, báo tuyên truyền về Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, các sách báo này được bí mật chuyển về nước. - Tháng 6/1923, sang Liên Xô: Dự nhiều Hội nghị Quốc tế, dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V. - Tháng 11/1924, về Quảng Châu (Trung Quốc), thành lập nhóm Cộng sản đoàn, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. - Tháng 1/1930, đến Hương Cảng (Trung Quốc) chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - Ba tổ chức cộng sản ra đời năm 1929, sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân Việt Nam, là bước chuẩn bị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930), đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam. - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. 2.3 Các vấn đề chuyên sâu 1- Hoàn cảnh, điều kiện mới của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất 12 - Đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước có khuynh hướng tư sản phát triển mạnh mẽ, bị thực dân và phong kiến đàn áp rồi đi đến thất bại, đến những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, những cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ, nổi bật nhất là vụ bạo động do Việt Nam Quang phục hội tổ chức, nhưng cuối cùng bị dập tắt. Cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắt “như trong đêm tối không có đường ra”. - Đúng vào thời điểm đó, nhiều sự kiện của lịch sử thế giới và những chuyển biến về kinh tế, xã hội trong nước đã tác động đến phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam. 2 – Diễn biến, đặc điểm của phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam 1919 – 1930 - Phong trào diễn ra liên tục, sôi nổi, hình thức phong phú, đa dạng với sự tham gia của đông đảo các giai cấp, các tầng lớp nhân dân. - Phong trào dân tộc dân chủ 1919 – 1925, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc tiếp thu tư tưởng cách mạng mới, thúc đẩy quá trình nhen nhóm thành lập những tổ chức cách mạng sơ khai, làm xuất hiện những phần tử yêu nước. Những phần tử này đại diện cho tầng lớp mới đang kiên trì con đường cứu nước, cứu dân, hấp thu những tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại. - Phong trào dân tộc dân chủ 1925 – 1930, phong trào có bước tiến về chất, thể hiện ở việc hình thành các tổ chức cách mạng, các chính đảng đại diện cho hai khuynh hướng tư tưởng khác nhau: tư sản và vô sản. 3 – Hai khuynh hướng cách mạng tư sản và vô sản ở Việt Nam - Từ năm 1925, ở Việt Nam xuất hiện những tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt là những tổ chức yêu nước, tuy chưa phải là đảng cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chủ trương hành động đã thể hiện rõ lập trường của giai cấp công nhân. Sự phù hợp của con đường cách mạng theo khuynh hướng vô sản thể hiện ở việc những người yêu nước và nhân dân Việt Nam tiếp thu lý luận giải 13 phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là lý luận ra đời trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vận dụng cụ thể vào điều kiện Việt Nam nhằm giải quyết khủng hoảng về đường lối của cách mạng nước ta kéo dài từ cuối thế kỉ XIX. Sự phù hợp của khuynh hướng cách mạng vô sản đã gây được ảnh hưởng lớn trong quần chúng công nông và các lực lượng yêu nước khác ở Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, chính trị cho việc thành lập Đảng và hình thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Cùng với sự ra đời của những tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Năm 1927, Việt Nam quốc dân Đảng theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản ra đời. Nhưng do bị chi phối bởi các giai cấp và xã hội, Việt Nam quốc dân Đảng không đề ra được đường lối cách mạng độc lập, rõ ràng, thể hiện sự bất cập, non yếu. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của khuynh hướng cách mạng dân tộc tư sản. Hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. 4 – Một số vấn đề xung quanh việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - Do đặc điểm kinh tế, xã hội chi phối, nên các điều kiện để thành lập chính đảng cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc diễn ra khó khăn và phức tạp hơn châu Âu và Bắc Mỹ. - Ở châu Âu, Đảng cộng sản ra đời là do kết hợp của Chủ nghĩa Mác Lê-nin và phong trào công nhân. Ở Việt Nam, chính sách khai thác thuộc địa làm cho trình độ dân trí phát triển thấp, quyền tự do bị bóp nghẹt, quá trình phân hoá diễn ra chậm, giai cấp công nhân nhỏ bé, do đó chủ nghĩa Mác – lênin phải thông qua bộ phận tích cực trong phong trào dân chủ để rồi truyền bá vào công nhân, làm chuyển biến tư tưởng của những phần tử tích cực nhất 14 trong phong trào yêu nước, khiến họ đứng sang lập trường của giai cấp coogn nhân. - Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam. Các yếu tố này kết hợp khăng khít với nhau, không thể tách bạch nhân tố nào là quan trọng nhất hay đứng hàng đầu. 5 – Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong thời kì lịch sử từ năm 1920 đến năm 1930. - Xác định một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam + Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, diễn ra nhiều phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến (phong trào Cần vương, phong trào đấu tranh tự vệ của nông dân), phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Cuộc vận động Duy tân....) đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn. + Từ năm 1911 đến năm 1920, quá trình khảo sát và lựa chọn đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản. Việc tìm thấy con đường cách mạng vô sản đã giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước cho nhân dân Việt Nam. - Truyền bá lý luận cách mạng, chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam + Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng và truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam. + Nội dung lí luận đó được trình bày qua những bài viết cho các báo: Người cùng khổ (Le Paria) của Hội Liên hiệp thuộc địa; Nhân đạo của Đảng 15 cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng liên đoàn Lao động Pháp; Sự thật của Đảng cộng sản Liên Xô; Tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản; tuần báo Thanh niên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Những tham luận của Người đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt qua tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường Kách mệnh. + Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời, là sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng, đồng thời đặt cơ sở để hình thành cương lĩnh chính trị của Đảng sau này. - Đào tạo cán bộ cách mạng, chuẩn bị về tổ chức cho thành lập Đảng + Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người tìm hiểu tổ chức Tâm tâm xã, chọn một số thanh niên tích cực thành lập Cộng sản đoàn (2-1925). Tháng 6-1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội. Đây là một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến lên thành lập Đảng Cộng sản, một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng. + Mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo một đội ngũ cán bộ, đa số là thanh niên, học sinh, trí thức yêu nước. Họ "học làm cách mạng, học hoạt động bí mật", rồi bí mật về nước hoạt động, tuyên truyền lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân. Một số sang học trường Đại học Phương Đông Matxcơva (Liên Xô), hoặc vào trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). - Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam + Chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng tháng 1-1930 tại 16 Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). + Với uy tín tuyệt đối, Nguyễn Ái Quốc đã đưa Hội nghị đến thành công, thống nhất được các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. - Soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, bao gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua. + Đó là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo. Độc lập, tự do là tư tưởng chủ yếu của Cương lĩnh. + Với việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng cách mạng có hệ thống tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc có vai trò quyết định trong việc chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. - Xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, tranh thủ được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc và phong trào giải phóng dân tộc đối với cách mạng Việt Nam. 3. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG ÔN TẬP 3. 1. Một số vấn đề chung 3. 1.1. Mức độ của đề thi học sinh giỏi môn lịch sử Mục đích của các kỳ thi chọn học sinh giỏi địa phương và học sinh giỏi quốc gia môn lịch sử là tuyển chọn những học sinh xuất sắc nhất để tiếp tục đào tạo và phải phát triển năng khiếu về môn học cho các em sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài năng thực sự trong một lĩnh vực khoa học lịch sử, nên các đề thi chọn học sinh giỏi có tính phân loại rất cao. Các đề thi học sinh giỏi ở cơ sở thường dành khoảng 30% đến 40% (có nhiều địa phương dưới 30%) số điểm cho khả năng nhận biết, phần còn lại 17 dành cho đánh giá khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức. Như vậy, nếu chỉ dừng ở mức độ học thuộc bài, học sinh không thể đáp ứng được yêu cầu của sự phân loại và lựa chọn. Đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia môn lịch sử còn khó hơn rất nhiều, nếu chỉ học thuộc bài thì chắc chắn không thể đáp ứng. Đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, Khu vực đều phải hướng tới đề thi cấp Quốc gia Về kĩ năng, đề thi học sinh giỏi đòi hỏi nhiều kỹ năng cao hơn như so sánh, phân loại, giải thích, đánh giá, phân tích tổng hợp. 3. 1.2. Cấu trúc đề thi chọn học sinh giỏi Về đề thi, phân tích các đề thi trong nhiều năm cho thấy: Việc thi chọn học sinh giỏi môn lịch sử hiện nay là viết bài tự luận. Câu hỏi trong đề thi thường dựa trên cơ sở câu hỏi hoặc bài tập đã nêu trong sách giáo khoa, hoặc sách giáo viên, nhưng được làm mới bằng cách sửa chữa và bổ sung thêm, theo hướng mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi nội dung cần hỏi. Với thang điểm 20, các đề thi học sinh giỏi hiện nay thường có 7 câu. Nội dung đề thi hoàn toàn nằm trong chương trình Trung học phổ thông, chương trình 12 thường chiếm trên 70%, bao gồm Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam. Sự phân bố tỷ lệ điểm giữa phần lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới là 70% và 30%. Theo đề xuất của các nhà giáo dục Lịch sử, đối với câu hỏi của đề thi học sinh giỏi có thể sử dụng đề thi mở - một biện pháp đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá. Với dạng đề thi có những câu hỏi “mở”, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của học sinh. Học sinh có điều kiện phát biểu nhận thức của mình về một nhận định, đánh giá, một sự kiện hoặc một quá trình lịch sử, khuyến khích khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề. Trong mỗi câu hỏi thường có hai vế: vế 1 thường là kiến thức cơ bản, vế 2 thường là câu hỏi thông hiểu hoặc vận dụng. Ví dụ, câu 1 trong đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2011: Nêu các khuynh hướng chính trị và những biểu 18 hiện của nó trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu năm 1930. Từ kết cục của mỗi khuynh hướng, hãy rút ra kết luận về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Vế 1 của câu này là Nêu các khuynh hướng chính trị và những biểu hiện của nó trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu năm 1930. Phần kiến thức cơ bản này phải tổng hợp các sự kiện từ nhiều bài học lịch sử được trình bày trong sách giáo khoa lớp 11 (chương trình chuẩn và chương trình nâng cao) và một số bài trong sách giáo khoa lớp 12 (chương trình chuẩn và chương trình nâng cao). Vế 2 của câu này: Từ kết cục của mỗi khuynh hướng, hãy rút ra kết luận về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Đây là yêu cầu vận dụng nâng cao, đòi hỏi học sinh sau khi nêu được những biểu hiện của các khuynh hướng chính trị trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu năm 1930, học sinh phải khẳng định được trong thời gian này, ở nước ta có hai khuynh hướng chính trị xuất hiện và cùng tác động đến phong trào cách mạng, song kết cục là sự thất bại của khuynh hướng dân chủ tư sản và khuynh hướng vô sản ngày càng thắng thế, đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1 – 1930). Từ kết cục của các khuynh hướng nói trên, nên con đường cứu nước tất yếu để giành thắng lợi cho dân tộc ta là con đường cách mạng vô sản. Một số điểm đáng lưu ý: 1. Đặc điểm của đề thi là không tập trung vào một bài, một chương, một phần hay một khóa trình lịch sử mà rải ra trong toàn bộ chương trình. Vì thế, thí sinh không thể học tủ, học lệch. 2. Yêu cầu về kỹ năng của mỗi câu hỏi trong đề thi cũng khác nhau, biểu hiện ở những từ dùng để hỏi khác nhau: nêu, trình bày, tóm tắt, khái quát, 19 so sánh, nhận xét, phân tích, đánh giá, phát biểu ý kiến, lập bảng, vẽ sơ đồ, biểu đồ... Phải chú ý đáp ứng mỗi yêu cầu cụ thể đó. 3. Thí sinh có cách làm khác, nhưng đúng thì bài làm vẫn được cho đủ điểm. Cách làm ở đây chủ yếu là ở kết cấu và cách thể hiện, trình tự sắp xếp các ý trong một câu, có thể chia tách một ý lớn, hoặc gộp nhiều ý nhỏ... 4. Khi làm bài, trong mọi câu hỏi, thí sinh hoàn toàn có thể theo chương trình nâng cao, hoặc chương trình chuyên (gồm kiến thức của các chuyên đề dành cho lớp chuyên), có thể sử dụng cả những kiến thức ngoài chương trình phổ thông, không có trong đáp án, được khai thác từ các tài liệu tham khảo, nhưng đúng. Trong trường hợp này bài làm có thể được thưởng thêm điểm, nhưng không vượt quá tổng số điểm của toàn bài. Đây là một hình thức khuyến khích học sinh đọc thêm tài liệu tham khảo, khai thác những kênh thông tin khác nhau, làm cho bài viết phong phú và sinh động hơn. Trên đây là cấu trúc đề thi học sinh giỏi trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2014. Cấu trúc này có thể được điều chỉnh qua các kỳ thi về sau. Các địa phương có thể căn cứ vào cấu trúc đề thi quốc gia để điều chỉnh cấu trúc cho phù hợp với đặc điểm của học sinh địa phương mình. 3. 1.3 Phương pháp và kỹ năng ôn tập 3.1.3.1. Nội dung chương trình ôn tập Nội dung ôn tập trước hết là kiến thức cơ bản có trong sách giáo khoa trung học phổ thông. Đây là nền tảng để xây dựng chương trình ôn tập. Tuy nhiên, căn cứ vào mục tiêu đối với học sinh giỏi, cần xác định kiến thức và kỹ năng mà học sinh đã biết để bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần có thêm. Người thầy phải bồi dưỡng những những kiến thức và kỹ năng theo chiều sâu hoặc kiến thức mới, tránh lặp lại máy móc những nội dung kiến thức 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan