Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy...

Tài liệu Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000

.PDF
30
1134
75

Mô tả:

Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thứ nhất, việc lựa chọn chuyên đề Quan hệ quốc tế nói chung và Quan hệ quốc tế trong thời kì lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1919 đến năm 2000, xuất phát từ việc thực hiện đúng tinh thần, đường lối Đổi mới của Đảng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, quan hệ đối ngoại của nước ta ngày càng mở rộng theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đầu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Do đó, việc hiểu biết về lịch sử quan hệ quốc tế là điều vô cùng cần thiết, quan trọng. Thứ hai, xuất phát từ vị trí ảnh hưởng của chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000 đối với chương trình dạy học tại các lớp chuyên Sử Nội dung chuyên đề, nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế trong giai đoạn từ năm 1919 đến năm 2000; về mối quan hệ giữa các quốc gia, những biến động lớn trong quan hệ quốc tế hiện nay.... Nội dung chuyên đề đảm bảo chuẩn kiến chức và chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học, vừa đảm bảo những tri thức về lịch sử, vừa gợi mở những suy nghĩ về hiện tại và tương lai; vừa mang tính lí thuyết, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với sự hội nhập quốc tế của đất nước. Hệ thống các câu hỏi liên quan mật thiết với kiến thức cơ bản, mang tính thực tế cao và được trả lời một cách khoa học, logic... Mặt khác, chuyên đề này càng có ý nghĩa quan trọng hơn, quyết định đến chất lượng thi HSGQG môn Lịch sử: hàng năm nội dung liên quan tới Quan hệ quốc tế được vận dụng nhiều trong các đề thi HSGQG như năm 2005, 2006, 2009, 2010, 2011, 2013. Tuy nhiên, trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 (chương trình nâng cao) các nhà nghiên cứu, biên soạn không đưa phần Quan hệ quốc tế từ năm 1919 – 1945 vào chương trình dạy thành một bài, một chương hoặc chuyên đề cụ thể mà nội dung Quan hệ quốc tế nằm xen lẫn trong các mục nhỏ, các bài, ở các chương: chương VIII; IX; X. Còn SGK Lịch sử lớp 12 được cấu trúc rõ ràng thành hai chương riêng biệt (chương I và chương V). 1 Vì vậy, trong quá trình học ở lớp 11 học sinh chưa có khái niệm mang tính hệ thống về lịch sử quan hệ quốc tế xuyên suốt, phạm vi kiến thức rộng, nhiều sự kiện chồng chéo có liên quan mật thiết với nhau... Do đó, khi giảng dạy ở lớp chuyên Sử và bồi dưỡng HSG QG giáo viên chúng tôi vẫn phải tổng hợp kiến thức của chương trình nâng cao (Phần 2: Lịch sử thế giới hiện đại – Phần từ năm 1917 đến 1945) thành chuyên đề: Quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 1945. Điều này, giúp học sinh nhận thức đầy đủ sâu sắc mang tính logic để kết nối các kiến thức lịch sử, đi sâu vào nội dung mối quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (trong chương trình Lịch sử lớp 12). Thứ ba, thực tiễn đã xác nhận rằng, trong nhiều năm qua, việc lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho HSGQG khi giảng dạy chuyên đề cụ thể theo từng chương, từng giai đoạn lịch sử, từng nội dung kiến thức đã được khối các trường THPT chuyên khu vực Duyên hải, Đồng bằng Bắc Bộ đưa ra trao đổi, thảo luận và đem lại tính hiệu quả cao. Phát huy tinh thần trên, để công tác tổ chức Hội thảo thành công và thực sự là một sân chơi bổ ích, giao lưu học tập lẫn nhau. Trong Hội thảo lần thứ VIII các trường THPT chuyên khu vực Duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ, chúng tôi chọn đề tài: “Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000” 2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Việc chọn đề tài trên là cầu nối mang tính khoa học và tính hệ thống các nội dung lịch sử Quan hệ quốc tế trong chương trình nâng cao lớp 11 (từ năm 1919 đến năm 1945) với nội dung Quan hệ quốc tế trong chương trình nâng cao lớp 12 (từ năm 1945 đến năm 2000). Từ đó, giúp học sinh chuyên có kiến thức sâu sắc và nhận thức đầy đủ hơn về các giai đoạn lịch sử Quan hệ quốc tế; biết tổng hợp, phân tích, đánh giá và liên hệ so sánh... Các nội dung trong đề tài này cung cấp cho học sinh một số thông tin cập nhật về nội dung và phương pháp ôn tập, các giải pháp mang hiệu quả, tính thực tiễn, tính khả thi cao trong hoạt động giáo dục và đào tạo, có khả năng áp dụng ở nhiều đối tượng, nhiều nơi...đã được kiểm chứng qua thực tiễn giảng dạy, ôn tập và bồi dưỡng HSGQG nhiều năm của nhóm giáo viên dạy Sử trường THPT chuyên Bắc Ninh. Từ những mục đích trên, nội dung chuyên đề: “Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000” tập trung vào các chủ đề sau: Phần I. Lựa chọn nội dung ôn tập phần Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000 2 I. Nội dung cơ bản của Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000 II. Một số chủ đề chuyên sâu về Quan hệ quốc tế 1919 – 2000 Phần II. Phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực cho HSGQG khi ôn tập chuyên đề Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000 B. PHẦN NỘI DUNG PHẦN I. LỰA CHỌN NỘI DUNG ÔN TẬP PHẦN QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000. VẤN ĐỀ I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 – 2000 NỘI DUNG 1: QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919 – 1939) Phần nội dung kiến thức Quan hệ quốc tế (1919 – 1939) nằm trong chương trình nâng cao của bộ môn Lịch sử lớp 11, nhưng chưa được đưa vào thành một chương, một bài cụ thể. Do đó, một số kiến thức đã được học ở chương VII, VIII, IX, chúng tôi không đi sâu vào nội dung chi tiết đầy đủ mà chỉ khái quát, tổng hợp, xây dựng dàn ý để hướng học sinh làm rõ nét nổi bật trong quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1918 – 1939). I. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919 – 1929) 1. Bối cảnh lịch sử. - Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra thời kì mới trong quan hệ quốc tế, làm thay đổi cục diện tình hình thế giới, đặc biệt là châu Âu: Hai nước tư bản lâu đời Anh, Pháp đều thắng trận nhưng nền kinh tế đều bị suy yếu và trở thành con nợ của Mĩ. Italia – một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh trong nước và khủng hoảng trầm trọng. Ba nước đế quốc rộng lớn như Nga, Đức, Áo – Hung lần lượt sụp đổ, bị tàn phá nặng nề....Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu. - Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra những chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. CNTB không còn là hệ thống duy nhất thống trị thế giới. Sự tồn tại của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã trở thành thách thức to lớn đối với nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các Hội nghị hòa bình được triệu tập. 3 2. Nội dung * Hội nghị Véc-xai (1919 – 1920) - Ngày 18 – 1 – 1919,27 nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình tại Véc-xai (Pháp). Hội nghị diễn ra hết sức gay go quyết liệt vì các cường quốc thắng trận đều có tham vọng riêng....Sau gần nửa năm tranh cãi với 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì sự bất dồng gay gắt về quyền lợi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị được kí kết. - Những vấn đề cơ bản được các nước tham dự HN nhất trí là: + Thông qua Hòa Ước Véc-xai với Đức (28 – 6 – 1919)– đây là văn kiện quan trọng quyết định số phận của nước Đức. + Các Hòa ước khác được kí kết với Áo (10 – 9 – 1919), Hòa ước với Hungari (4 – 6 – 1920), Hòa ươc với Thổ Nhĩ Kì (11 – 8 – 1920)...Những văn bản này chính thức xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc + Thống nhất việc thành lập Hội Quốc Liên (10/1/1920) với 44 nước tham gia, nhằm khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình và an ninh thế giới Như vậy, những hòa ước trên hợp thành hệ thống Hòa ước Véc-xai. Đây là văn bản chính thức xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc, đem lại những lợi ích cho các nước thắng trận, nhất là Anh, Pháp. Tuy nhiên, nó nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước thắng trận với bại trận (nhất là Đức), giữa các nước thắng trận với thắng trận. Tham vọng lãnh đạo thế giới của Mĩ chưa được thực hiện, vì thế các nước thắng trận phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại Hội nghị Oa-sinh-tơn. * Hội nghị Oasinhtơn (1921 – 1922) - Ngày 12 – 11 – 1921, Hội nghị Oa-sinh-tơn khai mạc với sự tham gia của 9 nước, trong đó quyền quyết định thuộc về Mĩ. Hội nghị thông qua các Hiệp ước: Hiệp ước 4 nước Anh – Pháp – Mĩ – Nhật được gọi “HƯ không xâm lược ở Thái Bình Dương”; Hiệp ước 9 nước công nhận “nguyên tắc hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc”; Hiệp ước 5 nước “hạn chế vũ trang và hải quân”. - Những thỏa thuận thông qua các Hiệp ước trên Mĩ đã giải quyết được quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở châu Á – Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. 3. Hệ quả - Những thỏa thuận của các cường quốc thắng trận tại Hội nghị hòa bình ở Vécxai (1919 – 1920) và Hội nghị Oa-sinh-tơn (1921 – 1922), đã tạo ra khuôn khổ trật tự thế giới mới, thường được gọi là trật tự Hệ thống Vecsxai – Oasinhtơn. 4 - Với hệ thống V – O, trật tự thế giới mới được thiết lập phản ánh so sánh lực lượng mới giữa các nước tư bản. Các nước thắng trận, trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật Bản, giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp đặt, nô dịch đối với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Đồng thời, ngay giữa các nước tư bản thắng lợi cũng nảy sinh sự bất đồng do mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước đế thỏa mãn với hệ thống V – O với những nước không thỏa mãn. Chính vì vậy, quan hệ hòa bình giữa các nước tư bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh.. - Để duy trì trật tự thế giới mới, một tổ chức quốc tế được thành lập, Hội Quốc Liên – một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên với sự tham gia của 44 nước thành viên, nhưng không đủ sức mạnh nên bị các nước ĐQ chi phối và trở thành công cụ của chúng, nên TTTG dễ bị tan vỡ Như vậy, sự phân chia TG theo hệ thống V – O đã chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa giữa đế quốc với đế quốc (nhất là quyền lợi thuộc địa), hòa bình được lặp lại giữa các nước nhưng chỉ là tạm thời và mỏng manh với diễn biến phức tạp, chồng chéo, tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh thế giới mới. II. Các nước tư bản chủ nghĩa trong những năm 1919 – 1939 1. Những nét chung về chủ nghĩa tư bản trong những năm 1919 – 1939 Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản trải qua bước phát triển thăng trầm khác nhau: - Trong những năm 1918 – 1923, phần lớn các nước tư bản (trừ Mĩ) đều lâm vào khủng hoảng kinh tế, chính trị, biểu hiện ở sự suy sụp về kinh tế, cao trào cách mạng bùng lên mạnh mẽ ở châu Âu cũng như nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. - Trong những năm 1924 – 1929, các nước bước vào thời kì ổn định về chính trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế...... nhưng sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các nước tư bản. - Trong những năm 1929 – 1933, khủng hoảng bùng nổ đầu tiên ở Mĩ sau đó lan rộng các nước TBCN kéo dài đến năm 1933. Đây là, cuộc khủng hoảng kéo dài nhất, gây hậu quả nghiêm trọng nhất, đã tàn phá nặng nề nều kinh tế ở các nước TBCN, hàng trăm triệu công nhân thất nghiệp, đói khổ.... Để thoát khỏi khủng hoảng, chính phủ các nước TBCN đã lựa chọn những con đường khác nhau ...... Điều này, dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: khối phát xít ( Đ – Y – N) và khối dân chủ (A – P – M), đó là dấu hiệu của cuộc chiến tranh thế giới mới khó có thể tránh khỏi. Quan hệ quốc tế trở lên căng thẳng, phức tạp, chồng chéo.... 5 - Trong những năm 1933 – 1939, chủ nghĩa phát xít hình thành (điển hình ở Đức, Italia, Nhật Bản). Về bản chất, chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản đông nhất, sô vanh nhất, đế quốc nhất của tư bản tài chính. Do đó, chủ nghĩa phát xít đều có âm mưu dùng vũ lực và chiến tranh để chia lại thị trường thế giới..... 2. Chủ nghĩa phát xít hình thành và thái độ trong quan hệ quốc tế. (Phần này, nằm trong các bài 25, 26, 28 chương VIII – lớp 11 NC. Do đó, khi giảng dạy và ôn tập, cần làm rõ điểm giống và khác nhau của chủ nghĩa phát xít và thái độ của chúng trong quan hệ quốc tế) * Điểm giống nhau. - Về kinh tế: các nước đi theo con đường phát xít đều nghèo tài nguyên, ít thuộc địa hoặc thị trường tiêu thụ hẹp, bị tổn thất nặng nề sau khủng hoảng kinh tế. - Về bản chất: các nước đều thực hiện nền chuyên chính khủng bố công khai của các phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc nhất của tư bản tài chính... - Mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc tế: giới cầm quyền ở các nước đều bất mãn với hệ thống V – O, đều có mưa đồ dùng vũ lực và chiến tranh để chia lại thế giới... * Khác nhau Nội CNPX Đức CNPX Iatalia CNPX Nhật dung Quá - Sau khủng hoảng kinh tế - Năm 1929 các tập đoàn - khác với Đức quá trình xác Đảng Quốc xã đã đưa Hitle lên tài chính đã đưa trình phát xít hóa cầm quyền (1/1933) và ráo riết Mutxônili lập lên nắm diễn ra thông qua sự thiết lập nền chuyên chính độc quyền và xác lập chế độ chuyển đổi từ chế độ tài công khai: thay thế nền dân độc tài phát xít. Tháng dân chủ đại nghị chủ đại nghị bằng chế độ PX 10/1929 chúng tổ chức sang chế độ chuyên - Tăng cường các hoạt động cuộc tấn công vào thành chế độc tài phát xít,. chuẩn bị chiến tranh. Tháng Rooma, lật đổ chế độc - Quá trình này diễn 10/1933 rút chân khỏi Hội dân chủ đại nghị. ra thông qua việc Quốc Liên. Năm 1935 ban - Thực hiện các chính quân phiệt hóa bộ hành lệnh tổng động viên và sách thủ tiêu các quyền máy nhà nước và triển khai các hoạt động quân tự do, dân chủ, phát xít tiến hành chiến tranh sự ở châu Âu. hóa bộ máy chính xâm lược thuộc địa. - Năm 1936 thành lập liên quyền, đề cao vai trò của - Năm 1936 Nhật minh chính trị - quân sự và kí Mutxonili... mới hoàn thành quá HU “chống QTCS”  Quá trình phát xít hóa diễn - Năm 1936 tham gia trình phát xít hóa liên minh chống QTCS. ra nhanh chóng Tiềm lực Đức là nước lớn, có tiềm lực Quá trình phát xít hóa Nhật là quốc gia có về kinh tế, quân sự và trình của Y được sự giúp đỡ tiềm lực tương đối 6 độ khoa học, kĩ thuật cao. Vì hiệu quả của Đức. Đây mạnh vây, CNPX Đức thể hiện rõ là “chủ nghĩa đế quốc tính hiếu chiến của những kẻ nghèo khổ” III. Sự sụp đổ của Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn và con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai (1919 – 1939) 1. Bối cảnh quốc tế - Cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929 – 1933, gây hậu quả nặng nề về kinh tế chính trị đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của CNTB, mâu thuẫn xã hội trong các nước tư bản phát triển gay gắt, phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao - Để cứu vãn tình thế và giải quyết hậu quả của khủng hoảng, trong thế giới tư bản hình thành hai xu hướng tìm kiếm con đường phát triển khác nhau: + Các nước có ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyện liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị (điển hình là Đức, Ý, Nhật). Chúng thực hiện chế độ độc tài phát xít, hình thành khối liên minh phát xít Đức – Ý – Nhật (gọi phe Trục) Giai cấp tư sản phản động ở các quốc gia này chủ trương dùng vũ lực phát động chiến tranh phân chia lại thị trường thuộc địa. + Các nước Anh, Pháp, Mĩ có nhiều thuộc địa, có thị trường rộng lớn chủ trương tiếp tục duy trì chế độ đại nghị, duy trì nguyên hệ thống V – O. Điều này, dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: khối phát xít ( Đ – Y – N) và khối dân chủ (A – P – M). Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ trật tự Hệ thống V – O. Quan hệ quốc tế trở lên căng thẳng, phức tạp, chồng chéo, dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, đó là dấu hiệu của cuộc chiến tranh thế giới mới khó có thể tránh khỏi. 2. Quan hệ quốc tế và con đường dẫn tới chiến tranh - Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự ra đời của CNPX càng khoét sâu mâu thuẫn trong khối đế quốc về thuộc địa và thị trường, ba nước Đức, Italia, Nhật Bản đi theo đường lối gây chiến tranh chia lại thế giới. Đức và Nhật rút chân khỏi Hội Quốc Liên (1933) cùng với Italia liên kết thành khối liên minh phát xít (1937) được mệnh danh là “Trục Béclin – Rôma – Tôkiô” thường gọi tắt là phe trục. Khối liên minh này vừa chống Quốc tế cộng sản (Liên Xô), vừa muốn gây chiến tranh chia lại thế giới. - Từ năm 1931 – 1937, khối phát xít vừa chống Cộng sản, vừa mở rộng bành trướng xâm lược thị trường TG: Nhật xâm lược Trung Quốc, khiêu khích biên giới Trung – 7 Xô. Phát xít Italia xâm lược Ê-ti-ô-pia (1935), cùng với Đức giúp đảng phát xít của Phrancô gây nội chiến ở Tây Ban Nha, lật đổ chính quyền cộng hòa. Phát xít Đức với tham vọng thành lập nước “Đại Đức” mở rộng lãnh thổ ở Châu Âu ... - Trước các cuộc xâm lược của liên minh phát xít, các cường quốc tư bản dân chủ và Liên Xô lại không có một đường lối hành động chung. + Hoa kì là nước giầu mạnh nhất, nhưng lại theo « chủ nghĩa biệt lập » ở Tây bán cầu, không tham gia Hội Quốc liên và không can thiệp vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ (Hành động này gián tiếp tiếp tay cho CNPX hoành hành và thu lợi nhuận băng việc buôn bán vũ khí) + Liên Xô coi CNPX là kẻ thù nguy hiểm nhất, nên chủ trương hợp tác với các nước TB chống phát xít và chiến tranh. + Anh, Pháp đều có mục tiêu chung là muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và hệ thống thuộc địa của mình. Họ lo sợ sự bành trướng của CNPX nhưng vẫn thù ghét CNCS. Vì thế, giới cầm quyền A – P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít. Ngược lại, Anh, Pháp chủ trương thực hiện chính sách nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa bình và tiêu diệt Liên Xô. Đỉnh cao của chính sách dung dưỡng và nhượng bộ là Hội nghị Muy-ních (28/9/1938). Hội nghị Muy-ních bàn về vấn đề quan hệ giữa nước Đức phát xít với Tiệp Khắc (nhưng Tiệp Khắc và Liên Xô không được mời tham dự). Tại Hội nghị Anh, Pháp thỏa thuận trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức, đổi lại Đức cam kết chấm dứt mọi cuộc thôn tính Châu Âu và sẽ tấn công Liên Xô. Như vậy, HN Muy-ních về thực chất là một âm mưu của các nước TB phương Tây nhằm thành lập Mặt trận thống nhất CNĐQ chống lại Liên Xô. Chính thái độ nhượng bộ của Anh – Pháp đã không cứu vãn được hòa bình, mà tạo điều kiện cho phe phát xít thực hiện được mục tiêu gây chiến tranh xâm lược. Vì vậy, Anh – Pháp – Mĩ phải chịu một phần trách nhiệm về sự bùng nổ CTTG2. - Sau HN Muy-ních, tháng 3/1939 Đức đưa quân thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc, chuẩn bị tấn công Ba Lan. Ngày 23/8/1939, Đức kí với Liên Xô « Hiệp ước Xô – Đức không xâm lược nhau ». Đức đã thể hiện rõ mưu đồ bành trướng của mình phản bội lại Hiệp định Muy-ních, thôn tính châu Âu sau đó mới dốc toàn bộ lực lượng đánh Liên Xô. - Ngày 1 – 9 – 1939 Đức tấn công BaLan, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. * Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai 8 - Trật tự thế giới được hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất (TT Vécxai – Oasinhtơn) chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ổn không thể dung hòa về quyền lợi kinh tế, lãnh thổ, về thuộc địa giữa các nước ĐQ. - Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) gây hậu quả nặng nề cho các nước TB, quyền lợi về kinh tế, thuộc địa không được giải quyết đã hình thành ở châu Âu hai khối đế quốc đối địch nhau giữa khối dân chủ (A – P – M) và khối phát xít (Đ – Y – N). Điều này càng làm mâu thuẫn giữa các nước thêm sâu sắc. - Quan hệ quốc tế ngày càng căng thẳng, phức tạp, chồng chéo giữa hai khối đế quốc đối địch nhau : khối ĐQ Anh- Pháp – Mĩ và khối phát xít (Đức – Ý – Nhật). Nhưng cả hai đều mâu thuẫn với Liên Xô (khối XHCN). Trong đó, phe phát xít vừa mở rộng bành trướng xâm lược đòi chia lại thị trường, vừa chống Cộng sản (Liên Xô). Còn Anh – Pháp – Mĩ đều có mục tiêu chung là muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và hệ thống thuộc địa của mình. Họ lo sợ sự bành trướng của CNPX nhưng vẫn thù ghét CNCS. Vì thế, giới cầm quyền A – P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít. Ngược lại, Anh, Pháp chủ trương thực hiện chính sách nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa bình và tiêu diệt Liên Xô. Đỉnh cao của chính sách dung dưỡng thỏa hiệp là HN Muy – ních (9/1938) giữa Anh – Pháp với Đức..... Như vậy, thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh là phe phát xít (đại diện Đức – Ý – Nhật) với bản chất hiếu chiến chúng thể hiện rõ tham vọng điên cuồng của mình trong việc bành trướng thế lực. Ngược lại, thái độ của Anh – Pháp – Mĩ trong việc từ chối liên minh với Liên Xô, thực hiện chính sách dung dưỡng, thỏa hiệp đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây ra chiến tranh thế giới. NỘI DUNG 2 : QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 – 1945) Phần này được đề cập trong chương X: Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945, nhưng không thành mục riêng, vì vậy chúng tôi thường khái quát làm nổi bật nét đặc trưng cơ bản trong mối quan hệ quốc tế giữa các nước tham gia Chiến tranh. 1. Bối cảnh quốc tế. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939 – 1945) là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới, diễn ra quyết liệt ở nhiều mặt trận : mặt trận châu Âu ; mặt trận Bắc Phi và mặt trận châu Á – Thái Bình Dương. Trước thảm họa chiến tranh các quốc gia đã phối hợp với nhau, nhất là các nước 9 đế quốc Anh, Pháp, Mĩ và Liên Xô từ quan hệ thù địch chuyển thành quan hệ đồng minh chống phát xít. 2. Những biểu hiện chính - Ngày 1 – 1 – 1942 tại Oasinhton 26 nước (đứng đầu A – M – LX) đã kí vào bản tuyên bố “Cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế voài chiến tranh chống phát xít” đồng thời hợp tác chặt chẽ với nhau. Từ đó, hình thành khối Đồng minh chống phát xít. Đây là nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít và tạo cơ sở cho việc hình thành tổ chức Liên Hợp Quốc sau này. - Từ năm 1942 đến 1945, các nước đồng minh lớn như A – M – LX tổ chức nhiều HN quốc tế quan trọng như + Hội nghị Têhêran (Iran) tháng 11 /1943 nhằm thảo luận nhiều vấn đề quan trọng về việc phối hợp hành động chống Đức cho đến thắng lợi cuối cùng và việc mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu... + HN Ianta (Liên Xô) tháng 2 – 1945 thông qua những quyết định quan trọng : thống nhất mục tiêu chung là phải tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít ở châu Âu và châu Á...đi đến việc kết thúc cuộc chiến tranh chống phát xít, tạo nền tảng thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. + HN Xanphranxixco (Mĩ) tháng 6/1945 thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc và thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc nhằm duy trì hòa bình, an ninh thế giới. + HN Pốtxđam (Đức) tháng 7 – 1945 tập trung giải quyết vấn đề Đức – Nhật và kết thúc chiến tranh thế giới. 3. Nhận xét - Sự liên kết của các nước Đồng minh đã tạo nên nhiều thắng lợi lớn có tính chất quyết định, làm xoay chuyển cuộc diện chiến tranh: từ chiến tranh phi nghĩa sang chiến tranh chính nghĩa, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. - Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng thẳng, phức tạp trong quan hệ quốc tế giữa các cường quốc tư bản phương Tây xoay quan vấn đề thuộc địa. Tạo nên sự chuyển biến căn bản của tình hình thế giới : Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ngày càng lớn mạnh ; các nước phát xít bị tiêu diệt ; Anh, Pháp đều bị suy kiệt và lệ thuộc vào Mĩ. Riêng nước Mĩ ngày càng phát triển về mọi mặt và trở thành cường quốc số 1 thế giới. Một thời kì mới trong quan hệ quốc tế mới hình thành 10 NỘI DUNG 3: QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY (1945 – 2000) Phần nội dung này được đề cập chi tiết trong chương I (bài 1) và chương V (bài 10) – SGK lớp 12 – ban Nâng cao. Vì vậy, nội dung kiến thức cơ bản chúng tôi không đi vào chi tiết mà chỉ định hướng, các vấn đề dạy và ôn tập, bồi dưỡng cho HSG. I. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949). 1. Hội nghị Ianta (2 – 1945) và những thỏa thuận của ba cường quốc. * Hoàn cảnh * Những quyết định quan trọng * Hệ quả 2. Sự thành lập Liên Hợp Quốc * Hoàn cảnh và sự thành lập * Mục đích của LHQ * Nguyên tắc hoạt động * Các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc * Hoạt động và vai trò của Liên Hợp Quốc 3. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập * Về địa lí – chính trị * Về kinh tế * Quan hệ quốc tế II. Mâu thuẫn Đông – Tây và sự khởi nguồn của Chiến tranh lạnh * Nguồn gốc của mâu thuẫn Đông – Tây * Những biểu hiện mâu thuẫn Đông – Tây và khởi nguồn Chiến tranh lạnh * Các cuộc chiến tranh Cục bộ * Hệ quả III. Xu thế hòa hoãn Đông – Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt * Xu thế hòa hoãn Đông – Tây * Nguyên nhân của việc chấm dứt Chiến tranh lạnh 11 * Tác động của sự kiện chấm dứt Chiến tranh lạnh. IV. Xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh * Những thay đổi to lớn và phức tạp của thế giới (1991 – 2000) * Liên hệ với công cuộc đổi mới của Đảng ta hiện nay (thời cơ và thách thức) VẤN ĐỀ II. MỘT SỐ CHỦ ĐỀ CHUYÊN SÂU VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ 1919 – 2000 CHỦ ĐỂ 1: Trật tự thế giới theo Hệ thống Vecxai – Oasinhton và trật tự thế giới hai cực Ianta: Điểm giống và khác nhau. 1. Những điểm giống nhau cơ bản - Đều được thiết lập sau những cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong lịch sử nhân loại. - Đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi ích cao nhất của họ. - Đều có các tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát và duy trì trật tự thế giới (Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc). 2. Những điểm khác nhau cơ bản - Giữa hai trật tự thế giới có sự khác biệt, đối lập về hệ tư tưởng và vai trò đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. + TT thế giới V- O không có sự hiện diện của Liên Xô, không có sự khác biệt hay đối lập về hệ tư tưởng, về mục tiêu và chiến lược, không có vai trò tích cực đố i với phong trào cách mạng thế giới, trật tự V – O chỉ vì quyền lợi của các nước tư bản lớn. + TT thế giới hai cực Ianta có sự đối lập giữa hai hệ tư tưởng, giữa mục tiêu và chiến lược của hai cường quốc Mĩ và Liên Xô, giữa hai hệ thống xã hội: TBCN và XHCN. Trong đó, Liên Xô (đứng đầu hệ thống XHCN) chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ (đứng đầu hệ thống TBCN) ra sức chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.. Do đó, TT hai cực Ianta có tác động tích cực đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, là nhân tố hàng đầu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa sau thế kỉ XX. - Về cơ cấu tổ chức và duy trì hòa bình cũng như việc kí kết các hòa ước với các nước bại trận hoàn toàn khác nhau. Trật tự hai cực Ianta thể hiện sự tiến bộ và tích cực hơn hẳn. 12 + Trật tự theo hệ thống Vecxai – Oasinhtơn trừng trị các nước chiến bại quá nặng nề. Còn trật tự hai cực Ianta trừng trị các nước chiến bại thoả đáng và không quá nặng nề. + Liên Hợp Quốc với vai trò là tổ chức đa phương toàn cầu mang tính toàn diện và tiến bộ hơn hẳn so với Hội Quốc Liên (Hội Quốc Liên là tổ chức của các nước lớn, Liên Hợp Quốc là tổ chức mà tất cả các nước đều có quyền tham gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu + Trong trật tự hai cực Ianta diễn ra cuộc đối đầu gay gắt và kéo dài hơn 40 năm giữa Liên Xô và Mỹ làm cho tình hình thế giới luôn căng thẳng đưa thế giới đến bên bờ vực của cuộc chiến tranh. - Sự sụp đổ của trật tự thế giới dẫn tới hệ quả khác nhau + Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn sụp đổ dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai + Trật tự hai cực Ianta sụp đổ dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và kết thúc thời kì chiến tranh lạnh. Thế giới chuyển sang xu thế hòa dịu, đối thoại và hợp tác cùng phát triển. CHỦ ĐỀ 2. Quan hệ quốc tế giữa nước Nga Xô viêt/ Liên Xô - các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản phương Tây - Mĩ (1919 – 1991) 1. Giai đoạn từ 1919 – 1939 * Bối cảnh lịch sử - Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử Nga: một chế độ xã hội mới được thiết lập với mục đích cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lợt người, xây dựng xã hội tự do, hạnh phúc và công bằng cho mọi người. Làm phá vỡ trận tuyến của chủ nghĩa tư bản, làm cho nó không còn là hệ thống hoàn chỉnh bao trùm thế giới. Sự xuất hiện nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới đã tạo ra một chế độ xã hội đối lập với hệ thống TBCN. - Thực tiễn của Cách mạng tháng Mười Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc. Do đó, các nước tư bản phương Tây luôn có mưu đồ tiêu diệt nước Nga Xô viết, chống cộng sản và đẩy lùi ảnh hưởng của nó vào phong trào cách mạng thế giới. Quan hệ quốc tế giữa nước Nga Xô viết/ Liên Xô với các nước TBCN (Mĩ) là quan hệ đối lập. * Biểu hiện 13 - Trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, các nước đế quốc tập trung lực lượng, phối hợp hành động với mưu đồ tiêu diệt nước Nga Xô viết. Cuối tháng 11 – 1917 đại diện các nước đế quốc (trong đó 4 nước giữ vai trò chủ yếu: Anh, Mĩ, Pháp, Nhật) họp tại Pari để bàn biện pháp thực hiện mưu đồ đó. Đến tháng 12 – 1917 các nước đại diện tư bản thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết, thỏa thuận về việc ủng hộ các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước Nga thành các khu vực ảnh hưởng của từng nước. Theo đó, Anh nắm quyền kiểm soát các vùng Capscado, Ác-mê-nia, Grudia và vùng Sông Đông; Pháp chiếm Bet-xa-ra-bia, Crum và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu vực Xibia, vùng Viễn Đông... - Từ khi chiến tranh thế giới kết thúc, các nước đế quốc tăng cường can thiệp và giúp đỡ các thế lực phản cách mạng ở Nga, tình hình nước Nga cực kì khó khăn: quân đội 14 nước đế quốc cấu kết với bọn phản cách mạng trong nước mở cuộc tấn công vũ trang kéo dài trong 3 năm – từ năm 1918 đến cuối năm 1920. Trải qua cuộc chiến đấu gian khổ, tháng 11 – 1920 Hồng quân đánh tan đội quan phản cách mạng, chấm dứt chiến sự, nhà nước Xô viết được bảo vệ và giữ vững. - Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lê-nin, Đại hội lần thứ nhất của các xô viết toàn Liên bang (20 – 12 – 1922) đã tuyên bố thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô). Trong quan hệ quốc tế, Liên Xô trung thành với nguyên tắc ngoại giao cùng tồn tại hòa bình. + Chính phủ Xô viết phản đối gay gắt tính chất nô dịch của các hòa ước, nhất là Hòa ước Véc-xai. Lê-nin cho rằng “Đấy không phải là hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận”. Năm 1922 lần đầu tiên được mời tới tham dự chính thức Hội nghị quốc tế Giê-nô-va, đoàn đại biểu của Liên Xô đã đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung sống hòa bình và tiến hành giải trừ quân bị, nước Nga sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. + Chính quyền Xô viết từng bước thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng ở Châu Á như I-ran, Thổ Nhĩ Kì, Mông Cổ, Trung Quốc ...và các nước châu Âu như Ê-xtô-nia, Lít-va, Phần Lan, Ba Lan.... + Mặc dù tồn tại trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản, Liên Xô đã kiên trì và bền bỉ đấu tranh trong quan hệ quốc tế nhằm phá vỡ chính sách bao vây, cô lập về kinh tế và ngoại giao của các nước đế quốc. 14 Bằng những biện pháp đấu tranh kiên quyết và mềm dẻo, trong vòng 4 năm (1922 – 1925) LX đã được các cường quốc tư bản như Đức, Anh, Italia, Pháp, Nhật lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1925, Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với hơn 20 quốc gia trên thế giới. Năm 1933, Mĩ thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Điều này, là thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết , khẳng định uy tín ngày càng cao của Liên Xô trên trường quốc tế. - Bước vào thập niên 30, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, ở châu Âu hình thành hai khối đế quốc đối lập: phe phát xít (Đức – Italia – Nhật) và phe dân chủ (Anh – Pháp – Mĩ). Mặc dù hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt về vấn đề thị trường thuộc địa.. nhưng đều thống nhất trong mục tiêu chung là chống Cộng sản và Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước XHCN. Vì vậy, trước nguy cơ chiến tranh, Liên Xô đề nghị liên kết với Anh, Pháp chống phát xít nhưng bị các nước từ chối. Hoa kì là nước giầu mạnh nhất, nhưng lại theo « chủ nghĩa biệt lập » ở Tây bán cầu, không tham gia Hội Quốc liên và không can thiệp vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ (Hành động này gián tiếp tiếp tay cho CNPX hoành hành và thu lợi nhuận băng việc buôn bán vũ khí). Anh, Pháp đều có mục tiêu chung là muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và hệ thống thuộc địa của mình, giới cầm quyền A – P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít, chủ trương thực hiện chính sách nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa bình và tiêu diệt Liên Xô. * Nhận xét - Quan hệ quốc tế giữa Liên Xô với các nước tư bản phương Tây có bước thăng trầm khác nhau. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản vẫn luôn thực hiện mưu đồ tiêu diệt Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và đàn áp phong trào cách mạng thế giới. Quan hệ giữa hai nước trong thời gian này chứa đựng nhiều mâu thuẫn. - Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp, căng thẳng và chồng chéo giữa các lực lượng : khối phát xít – khối dân chủ và Liên Xô. Điều này, gây lên tình trạng chiến tranh thế giới bùng nổ. 2. Giai đoạn 1939 – 1945 - Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ năm 1939, phe phát xít chiếm ưu thế. Năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, hầu hết các nước trên thế giới bị lôi cuốn vào chiên tranh. Việc thành lập một liên minh quốc tế chống phát xít đã trở thành đòi hỏi bức thiết của lực lượng dân chủ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Cuộc chiến tranh của nhân dân Liên Xô đã làm thay đổi cục diện chính trị và 15 quân sự của chiến tranh. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa không chỉ nhằm bảo vệ Liên Xô mà còn chống lại cuộc chiến tranh tàn khốc của phát xít ở châu Âu. Điều đó thúc đẩy nhân dân Mĩ, Anh phải thay đổi thái độ với Liên Xô. - Quan hệ giữa các cường quốc tư bản với Liên Xô thay đổi từ bất hợp tác sang hợp tác, là đồng minh của nhau trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới. - Ngày 1/1/1942, đại diện 26 nước đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh đã kí kết vào bản Tuyên bố Liên Hợp Quốc, cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế đất nước vào cuộc chiến tranh chống phát xít và tay sai của chúng, đồng thời hợp tác chặt chẽ với nhau, không kí kết hiệp định đình chiến hay hoà ước riêng rẽ với các nước thù địch. Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập trong đó có sự tham gia của Liên Xô và Mĩ là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho cuộc chiến tranh chống phát xít và tạo cơ sở cho việc thành lập tổ chức Liên Hợp quốc sau này. 3. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1991 * Từ năm 1945 – nửa đầu năm 1970 - Khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, Hội nghị Thượng đỉnh Tam cường Xô – Mĩ – Anh họp tại Ianta (2/1945) đã thông qua những quyết định quan trọng nhằm tiêu diệt tận gốc CNPX ở châu Âu và châu Á... Về cơ bản Mĩ và LX đã đạt được mục tiêu mà mình theo đuổi và dựa trên những đóng góp thực sự của các nước thắng trận trong CTTG. - Tuy nhiên, những rạn nứt chính trị trong quan hệ Xô – Mĩ ngày càng lớn, đặc biệt trong vấn đề phân chia khu vực chiếm đóng và phạm vi ảnh hưởng ở Đức, ở Châu Âu, đã dẫn tới tình trạng đối đầu Đông – Tây và cuộc chiến tranh lạnh trong nhiều thập kỉ sau CT2. Do đó, quan hệ của Mĩ – Liên Xô từ quan hệ đồng minh chuyển sang quan hệ đối đầu. - Tình trạng mâu thuẫn Đông – Tây, xuất phát từ sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa Mĩ và Liên Xô. Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của CNXH và đẩy mạnh PTCM TG. Mĩ theo đuổi chiến lược toàn cầu với âm mưu làm bá chủ thế giới. Mĩ ra sức chống phá LX và các nước XHCN, đẩy lùi các phong trào cách mạng..... + Ngày 12 – 3 – 1947 Tổng thống Truman (Mĩ) đã thông qua Học thuyết Truman và bản thông điệp gửi Quốc Hội chính thức phát động “chiến tranh Lạnh”. Đây là sự kiện khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô và tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ. 16 + Tháng 6 – 1947, Mĩ đã phê chuẩn “kế hoạch Macsan” với 17 tỉ USD viện trợ cho các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh. Nhưng thực chất, nhằm chi phối nền kinh tế của các nước TBCN, tập hợp các nước này vào liên minh chống Liên Xô và ĐÂ. Như vậy, kế hoạch Macsan đã tạo nên sự đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước TBCN với các nước XHCN. + Tháng 4 – 1949, Mĩ thành lập tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dươn (NATO), đây là khối liên minh quân sự lớn nhất của Mĩ và các nước tư bản phương Tây, tạo nên cuộc chạy đua vũ trang căng thẳng giữa những nước này.... + Để đối phó với sự bao vây của các nước tư bản, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng kinh tế (8 – 1 – 1949) và Hiệp ước hữu nghĩ, hợp tác, tương trợ Vacsava ( 5 – 1955) nhằm tương trợ giúp đỡ các nước XHCN về kinh tế, giữ gìn an ninh, hòa bình, củng cố tình hữu nghị sự hợp tác giữa các nước... Như vậy, sự ra đời của hai khối quân sự NATO và Tổ chức Hiệp ước Vacsava đã đánh dấu sự xác lập cục diện đối đầu của hai cực Ianta, hai phe TBCN và XHCN, gây lên tình trạng Chiến tranh lạnh. Cả hai siêu cường M – L đều chi những khoản ngân sách khổng lồ cho chạy đua vũ trang, thành lập nhiều căn cứ quân sự, liên minh quân sự...làm cho tình hình thế giới càng thêm căng thẳng, có lúc như sắp có chiến tranh. Chiến tranh lạnh là sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe TBCN – XHCN do Mĩ và LX làm trụ cột. Cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, tư tưởng...gây lên tình trạng chiến tranh cục bộ ở nhiều khu vực như ĐNA, ĐBA và Trung Đông...ngoại trừ xung đột trực tiếp bằng quân sự giữa Mĩ – Liên Xô. * Từ những năm 70 đến đầu năm 90 của thế kỉ XX Mặc dù cục diện Chiến tranh lạnh vẫn tiếp diễn nhưng bớt căng thẳng hơn. Các vấn đề giữa Mĩ và Liên Xô từng bước được giải quyết, xu thế hòa hoãn Đông – Tây được thiết lập, trật tự hai cực giữa Mĩ và Liên Xô tan rã. - Trong năm 1972, M – L đã thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí chiến lược : + Ngày 26 – 5 – 1972 kí HƯ về hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM). Tạo thế cân bằng về chiến lược và lực lượng quân sự, vũ khí hạt nhân giữa Mĩ – L + Kí HĐ hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT – 1) (1972) sau đó là SALT – 2 (1979) + Kí HƯ thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu (INF) (1987), HƯ cắt giảm vũ khí chiến lược START (1991).... 17 - Cũng trong năm 1972, Mĩ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (2/1972), với Liên Xô (5/1972), tạo cơ sở hòa hoãn giữa hai hệ thống TBCN và XHCN. - Nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao giữa đại diện hai nhà nước Mĩ – LX vào những năm 70, 80 XX đi đến việc hợp tác về kinh tế, khoa học – kĩ thuật, quân sự....Đặc biệt, tháng 12 – 1989 trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải) Tổng thống Mĩ (Bu-sơ) và Tổng bí thư Đảng Liên Xô (Goocbachop) đã chính thức tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. Đây là cuộc bắt tay lịch sử làm thay đổi cục diện chính trị và quan hệ quốc tế : chấm dứt tình trạng đối đầu căng thẳng giữa hai cường quốc M – LX, giữa hai phe TBCN – XHCN. Mở ra chương mới trong lịch sử quan hệ giữa Mĩ – LX nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác, hòa bình và cùng có lợi. Như vậy, việc Mĩ và Liên Xô chất dứt Chiến tranh lạnh mở ra chiều hướng và những điều kiện giải quyết hòa bình, tranh chấp, xung đột diễn ra ở nhiều khu vực trên TG. Tạo cơ sở cho sự tan ra TTTG hai cực, đặc biệt khi LX và ĐÂ sụp đổ (1991) TTTG hai cực sụp đổ. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp, nhưng xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp tác, cùng phát triển. CHỦ ĐỀ 3. Các tổ chức Quốc tế hình thành từ năm 1919 – 2000. I. Sự thành lập Hội Quốc Liên. - Theo thỏa thuận của các nước tham dự Hội nghị Véc-xai, nhất trí thành lập Hội Quốc Liên nhằm khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình và an ninh thế giới. - Ngày 10 – 1 – 1920 Hội Quốc Liên chính thức thành lập với 44 nước tham gia. Nội dung hoạt động của tổ chức là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện « chế độ ủy trị » đối với một số lãnh thổ « chưa đủ điều kiện tự quản »...Nước nào vi phạm sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức : Bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng biện pháp quân sự. - Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỉ XX. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội Quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Véc-xai, các biện phát về giải trừ quân bị và trừng phạt chỉ mang ý nghĩa tượng trương....Do đó, Hội Quốc Liên trở thành công cụ hiệu quả của các 18 nước đế quốc nhằm thực hiện những tham vọng, mục tiêu phát động chiến tranh phân chia lại thế giới. - Trước tình trạng quan hệ quốc tế căng thẳng, chồng chéo giữa khối phát xít với khối đế quốc và Liên Xô, Hội quốc Liên đã không giải quyết được mâu thuẫn này và tan rã. II. Sự thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc - Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Ianta, từ ngày 25 – 4 đến 26 – 6 – 1945, đại biểu của 50 nước họp tại Xanphranxicô (Mĩ) thống nhất thông qua hiến chương Liên hợp quốc và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc (UNO). - Mục đích : Mục đích cao cả nhất của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình, an ninh TG, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tác bình đẳng và quyền tự quyết của các quốc qia, thực hiện hợp tác quốc tế về kinh té, văn hóa, xã hội và nhân đạo. - Nguyên tắc hoạt động + Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc qia và quyền tự quyết của các dân tộc. + Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước. + Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào. + Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. + Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa 5 nước lớn ( Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc). - Hoạt động và vai trò của LHQ + Từ khi thành lập đến nay, LHQ không ngừng mở rộng số lượng thành viên (2012: 193 nước). + LHQ thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị hợp tác giúp đỡ giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo…, góp phần duy trì hòa bình an ninh TG, cố gắng giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Vì vậy, LHQ là tổ chức liên kết lơn nhất trên TG vừa là diễn đàn quốc tế vừa hợp tác đấu tranh. + LHQ đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp, xung đột ở nhiều quốc gia bằng phương pháp hòa bình ; thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ, giúp đỡ các dân tộc bị thiên tai, kém phát triển..... - Tuy nhiên, LHQ vẫn còn một số tồn tại chưa giải quyết triệt để như : vấn đề ô nhiễm môi trường, bệnh dịch, nạn khủng bố, tham nhũng.....đặc biệt các vấn đề tranh chấp ở biển Đông trong năm 2014 Do đó, Liên Hợp quốc cần phải tiến hành cải cách quan trọng và thực hiện dân chủ hóa cơ cấu tổ chức....để duy trì và thực hiện hiệu quả hơn nữa mục đích đề ra. 19 CHỦ ĐỀ 4. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 2000. Đây là chủ đề chuyên sâu, tích hợp nội dung của lịch sử thế giới nhằm làm rõ mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc với lịch sử thế giới trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ năm 1919 – 2000. Nội dung này chúng tôi không trình bày những vấn đề thông sử mà chủ yếu tập trung vào làm rõ : Vị trí, vai trò của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế với những mốc sự kiện quan trọng như Cách mạng háng Tám 1945 ; Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) ; Cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975). Mối quan hệ Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, vị trí và đóng góp của Việt Nam trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới với tư cách là thành viên của tổ chức Liên Hợp Quốc... 1. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ 1919 – 1945 - Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lenin bằng con đường khác nhau đã thâm nhập vào nước ta. Đặc biệt những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, tư tưởng lí luận cách mạng giải phóng dân tộc được truyền bá sâu rộng có hệ thống vào nước ta, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). - Trong những năm 1930 – 1939, dưới ảnh hưởng của tình hình thế giới : cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, sự ra đời của chủ nghĩa phát xít...Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhanh chóng ứng phó với tình hình phức tạp của thế giới và đề ra nghị quyết mới, điều chỉnh mục tiêu trực tiếp, sử dụng hình thức đấu tranh phù hợp... dấy lên phong trào đấu tranh 1930 – 1931 và phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939. Đây là bước tập dượt, chuẩn bị điều kiện đầy đủ cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ chín muồi. - Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc châu Á, ngụy trang bằng chính sách « khu vực thình vượng Đại Đông Á » lập kế hoạch xâm lược. Ngày 23 – 9 – 1940, phát xít Nhật thôn tính Việt Nam cấu kết với Pháp cùng ra sức vơ vét bóc lột nhân dân Đông Dương.... Trước tình hình mới, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, xác định rõ vị trí của cách mạng Việt Nam trong chiến tranh là bộ phận của quân Đồng minh chống phát xít trên thế giới. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan