Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn luyện học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy p...

Tài liệu Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn luyện học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử việt nam giai đoạn 1945 – 1954

.DOCX
22
1305
70

Mô tả:

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ------------------------------------------------------------------- HỘI THẢO KHOA HỌC, LẦN THỨ VIII MÔN: LỊCH SỬ Chuyên đề: Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn luyện học sinh giỏi Quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử Việt Nam Giai đoạn 1945 – 1954 Tác giả: Nhóm giáo viên Chuyên Sử Trường THPT Chuyên Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa THANH HÓA, THÁNG 8 NĂM 2015 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; theo hướng tiếp cận chuẩn khu vực và thế giới, giáo dục Việt Nam có rất nhiều việc phải làm, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn ngành, toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị. Trong nhiệm vụ của thầy và trò ở các nhà trường, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học là một yêu cầu hết sức cơ bản, mà đi tiên phong là các trường chuyên, nhằm góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, cũng như các khối chuyên Sử của các trường chuyên trên toàn quốc, công việc giảng dạy Lịch sử cho học sinh khối chuyên Sử của trường chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Do số học sinh chuyên năng lực học tập không cao, học yếu các môn khác nên chọn vào chuyên Sử, điểm tuyển đầu vào của lớp chuyên Sử cũng thấp hơn so với các chuyên khác, trình độ nhận thức của các em trong một lớp không đồng đều...Vì vậy, so với các lớp chuyên khác, chất lượng học tập của chuyên Sử thấp hơn. Đây là một trở ngại lớn đối với giáo viên khi được phân công phụ trách lớp. Thực tế trên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp, kinh nghiệm giảng dạy để đào tạo, tuyển chọn những học sinh có năng khiếu vượt trội tham gia kì thi học sinh giỏi quốc gia môn Lịch sử hàng năm. Bên cạnh đó, được Bộ giáo dục định hướng về khung chương trình môn chuyên, học sinh lớp chuyên Sử ngoài việc lĩnh hội những tri thức cơ bản trong sách giáo khoa nâng cao, còn được học các chuyên đề chuyên sâu nhằm nắm vững, nắm sâu hơn về một vấn đề, một giai đoạn, một nhân vật lịch sử... điều đó đặt ra cho các giáo viên dạy chuyên ngoài việc nghiên cứu tài liệu phải biết lựa chọn các nội dung phù hợp chương trình, phù hợp cấu trúc đề thi học sinh giỏi quốc gia do Bộ giáo dục và đào tạo qui định. Song, hiện nay để phục vụ cho việc đào tạo học sinh giỏi quốc gia, giáo viên dạy Sử ở các trường chuyên còn gặp nhiều khó khăn: giáo viên được tập huấn dạy chuyên không được thường xuyên, chủ yếu dạy bằng kinh nghiệm thực tiễn đúc rút qua quá trình giảng dạy, các loại tài liệu phục vụ cho môn chuyên không nhiều, chịu áp lực lớn về chất lượng giải... Do đó, mong muốn được trao đổi kinh nghiệm dạy học, lựa chọn nội dung dạy học, đổi mới phương pháp giảng dạy trong dạy học nói chung, đặc biệt trong công tác đào tạo học sinh giỏi nói riêng là nhu cầu chính đáng. Với những lí do trên, đến với hội thảo khoa học các trường trung học phổ thông chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ lần thứ VIII, chúng tôi xin trình bày chuyên đề: “Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn luyện học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954”. Lần đầu tiên tham gia hội thảo, chúng tôi mong muốn nhận được sự bổ sung góp ý của các đồng nghiệp. Hy vọng trong buổi hội thảo chúng ta đi sâu trao đổi, thảo luận nhiều hơn, để chuyên đề được hoàn thiện và có thể trở thành tài liệu sử dụng cho công tác đào tạo học sinh giỏi hàng năm. B. PHẦN NỘI DUNG I. Nội dung ôn luyện lịch sử Việt Nam thời kì 1945 - 1954 (Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến ngày 21 - 7 - 1954). 1. Kiến thức chung học sinh cần nắm vững: - Trong hơn năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đất nước gặp muôn vàn khó khăn thử thách, tình thế hết sức hiểm nghèo, khác nào “Ngàn cân treo sợi tóc”. Nhân dân ta vừa xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính, vừa đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ độc lập. Từ cuối năm 1946, toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. - Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) tiến hành trong điều kiện nước ta đã giành được độc lập và chính quyền. Vì vậy, vừa kháng chiến vừa kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kì này: + Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, từ năm 1950 chống cả sự can thiệp của đế quốc Mĩ, trải qua nhiều giai đoạn với các mốc chiến thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947, chiến thắng Biên giới thu - đông năm 1950, chiến thắng Đông - Xuân năm 1953 - 1954, Điện Biên Phủ là trận thắng quyết định dẫn tới việc kí kết Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, kết thúc chiến tranh. + Công cuộc kiến quốc nhằm xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh kết thúc. 2. Lựa chọn nội dung dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954: 2.1. Bước đầu xây dựng và củng cố chính quyền, đấu tranh chống ngoại xâm nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng (2-9-1945 đến 19-12- 1946): Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta có nhiều thuận lợi và cũng có nhiều khó khăn. a. Thuận lợi : - Thế giới: Cuối 1945 chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, thắng lợi thuộc về Hồng quân Liên Xô và các lực lượng hòa bình dân chủ. Bọn phát xít Đức-Ý-Nhật bị tiêu diệt, bọn đế quốc Anh - Pháp - Mỹ bị suy yếu đi nhiều. Tình hình đó làm cho hàng loạt các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa ở châu Á, châu Âu ra đời, hợp cùng với Liên Xô thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, Phong trào giải phóng dân tộc lên cao, nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh. Phong trào đấu tranh vì hòa bình và quyền sống, vì tự do dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, tất cả tạo thành 3 dòng thác cách mạng cùng tiến công vào chủ nghĩa đế quốc có lợi cho cách mạng Việt Nam. - Ở trong nước: + Cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo - một Đảng đã dày dạn kinh nghiệm qua 15 năm, có đường lối đúng đã làm nên Cách mạng tháng Tám, có lãnh tụ thiên tài là Chủ tịch Hồ Chí Minh - một lãnh tụ được nhân dân mến yêu và tin tưởng. + Ta có chính quyền - một công cụ bạo lực để trấn áp bọn phản cách mạng, để đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, để tổ chức và xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân. Nhân dân ta rất phấn khởi vì sau hơn 80 năm phải làm nô lệ, giờ đây mới được hưởng không khí độc lập tự do, vì thế dân ta cũng không từ chối một sự hi sinh nào kể cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững độc lập tự do của Tổ quốc. + Dân tộc ta có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường bất khuất, cần cù sáng tạo trong lao động xây dựng đất nước. b. Khó khăn: - Thế giới: Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Việt Nam là mảnh đất thuộc địa đầu tiên trên thế giới giành được độc lập, làm cho bọn đế quốc căm tức điên cuồng. Chúng sợ từ một đốm lửa nhỏ của cách mạng Việt Nam sẽ làm bùng cháy lây lan tới cả ngôi nhà thuộc địa của chúng. Vì thế chúng hùa nhau lại để chống phá cách mạng Việt nam một cách quyết liệt và dai dẳng gây khó khăn rất lớn cho ta. - Trong nước: + Về kinh tế và tài chính: Chúng ta phải tiếp thu một gia tài mục nát do hậu quả hơn 80 năm cai trị của Pháp, 5 năm của phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến để lại. Mọi ngành sản xuất đều đình đốn, phần lớn ruộng đất bị bỏ hoang, nhà máy đóng cửa, công nghiệp hầu như không có gì. Nạn đói từ cuối năm 1944 đến đầu 1945 đã cướp đi hơn 2 triệu người giờ đây vẫn còn đang tiếp diễn. Gạo ở Nam Bộ không chở ra được vì Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược Nam Bộ từ ngày 23/9/1945 làm cho giao thông tắc nghẽn. Quân Tưởng kéo vào miền Bắc bắt ta nộp 40 vạn cân gạo/ mỗi ngày. Vụ mùa năm 1945 miền Bắc lại ngập lụt lớn. 6 tỉnh đồng bằng vựa lúa bị thất thu. Nạn thất nghiệp lan tràn. Nguồn tài chính của đất nước hầu như cạn kiệt. Ngân quỹ Nhà nước chỉ còn 1.23 triệu đồng tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay Nhật, ta không phát hành được giấy bạc. Quân Tưởng tung tiền Quan kim mất giá của chúng bắt ta tiêu làm rối loạn thị trường. + Về văn hóa xã hội: Hơn 90% dân ta bị mù chữ, các tệ tục cũ còn đầy rẫy, nạn mê tín, dị đoan hoành hành, bệnh dịch lan tràn, thuốc men thiếu thốn. Nạn trọng nam khinh nữ, nạn tảo hôn còn phổ biến khắp mọi nơi. + Chính quyền: Sau Cách mạng tháng Tám đã có chính quyền nhưng chỉ là lâm thời, chưa có cơ sở pháp lý để tồn tại. Quân đội vừa mới xây dựng trang bị kém cỏi, vũ khí thô sơ, thiếu kinh nghiệm tác chiến. + Về đối ngoại: Cùng một lúc trên đất nước ta có hàng loạt kẻ thù, từ vĩ tuyến 16 trở ra 20 vạn quân Tưởng kéo vào, sau lưng quân Tưởng là bọn quan thầy Mỹ, Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam hơn một vạn quân Anh đã đổ bộ xuống. Núp sau quân Anh là thực dân Pháp - kẻ đang có ý đồ trở lại Đông Dương. Đó là chưa kể 6 vạn quân Nhật vẫn còn nguyên vũ khí. Sau lưng bọn đế quốc là hàng loạt lũ tay sai đủ các loại hình, tiêu biểu nhất là bọn Việt Nam quốc dân Đảng (gọi tắt là Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (gọi tắt là Việt Cách). Tất cả tình hình trên đã đặt nước Việt Nam đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhìn chung, ta thấy khó khăn tuy nhiều và lớn song chỉ là trước mắt và tạm thời, thuận lợi vẫn là cơ bản và lâu dài. Nếu có những chính sách đúng đắn về đối nội cũng như về đối ngoại thì ta có thể khắc phục được khó khăn, phát huy thuận lợi củng cố giữ vững được chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng cho chế độ mới và thúc đẩy cách mạng tiến lên. c. Những chủ trương và biện pháp của ta nhằm khắc phục khó khăn: Phát huy thuận lợi để xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. - Chính trị, quân sự: Ngày 6/1/1946 ta tổ chức một cuộc tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc để bầu Quốc hội chính thức. Kết quả là hơn 98% tổng số cử tri của cả nước đã đi bầu. Chúng ta đã bầu được Quốc hội chính thức, Quốc hội lại bầu ra Chính phủ chính thức vẫn do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Quốc hội cũng cử ra một ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chủ Tịch làm Trưởng ban, tới tháng 10/1946 ta đã thông qua được bản Hiến pháp của ta. Đây là bản Hiến pháp dân chủ nhất ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Đến đây ta đã tạo được cơ sở pháp lý cho chính quyền, một chính quyền của dân, do dân bầu ra, bọn đế quốc không dễ gì xóa bỏ được. Để tạo chỗ dựa cho chính quyền, một mặt ta ra sức củng cố Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, mặt khác ta cho thành lập thêm một mặt trận mới lấy tên là “Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam” gọi tắt là Mặt trận Liên Việt để thu hút thêm một số trí thức và một số người thuộc tầng lớp trên chưa vào Mặt trận Việt Minh, làm cho khối đoàn kết dân tộc thêm mở rộng. Ta ra sức phát triển lực lượng vũ trang để làm công cụ bảo vệ chính quyền. - Kinh tế và tài chính: Như Hồ Chủ Tịch đã nói trước mắt chúng ta có ba kẻ thù là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nhưng trước hết phải chống giặc đói, giặc dốt vì giặc đói và giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm. + Về kinh tế: Để giải quyết nạn đói, trước mắt ta chủ trương dựa vào dân bằng cách vận động đồng bào tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức phong trào “hũ gạo tiết kiệm”, “ngày đồng tâm”, Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi toàn dân cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo giúp người đói. Bản thân Người cũng gương mẫu thực hiện, cả nước làm theo. Còn về lâu dài ta vận động đồng bào đẩy mạnh tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm. Ta trồng cây ngắn ngày xen kẽ cây dài ngày. Vụ chiêm 1946 miền Bắc bội thu. Nhờ vậy, chỉ một thời gian ngắn nạn đói được đẩy lùi. + Về tài chính: Chính phủ chủ trương dựa vào dân bằng cách vận động đồng bào ủng hộ cách mạng. Ta tổ chức quyên góp, vận động đồng bào mua tín phiếu, mua công trái quốc gia: Vận động nhân dân xây dựng “Quỹ độc lập” và phong trào “Tuần lễ vàng”. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng bào cả nước đã góp đưuọc 20 triệu bạc và 370kg vàng. Ngày 31/01/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. - Văn hóa xã hội: Ngày 8/9/1945 Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ và phát động phong trào thi đua diệt dốt, đuổi dốt. Kết quả hàng vạn lớp học được mở ra, với tinh thần người biết chữ dạy lại cho người chưa biết chữ, người học trước dạy người học sau. Chỉ một thời gian ngắn đa số đồng bào đã biết đọc biết viết. Tiếp đó các lớp bổ túc văn hóa được mở ra cho người lớn, các lớp phổ thông (chủ yếu là bậc tiểu học) đón con em nhân dân lao động vào trường. Ta đấu tranh chống các hủ tục cũ, bài trừ mê tín dị đoan, vận động nhân dân xây dựng đời sống mới, phát triểu báo chí, thông tin văn hóa, văn nghệ làm cho đời sống tinh thần của nhân dân được vui tươi và lành mạnh, dần dần xây dựng cơ sở pháp lý cho chính quyền. Đến đây, ta đã xây dựng được cơ sở vật chất, cơ sở xã hội và cơ sở pháp lý cho chính quyền, tức xây dựng nền móng cho chế độ mới, tạo được thực lực cho ta để đấu tranh chống giặc ngoại xâm có kết quả, vì “ta có thực lực họ mới đếm xỉa đến, còn nếu ta không có thực lực thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác dẫu kẻ đó là người bạn đồng minh của ta vậy”. - Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản: Đảng và Chính phủ cách mạng đã có sách lược đúng đắn chống Pháp và Trung Hoa Dân quốc. Sách lược đó chia làm 2 giai đoạn trước 6/3/1946 và từ 6/3/1946 đến trước 19/12/1946. + Trước 6/3/1946 Đảng và Chính phủ chủ trương chống Pháp ở Nam Bộ và tạm thời hòa hoãn Trung Hoa Dân Quốc ở miền Bắc theo phương châm “biến xung đột to thành xung đột nhỏ, biến xung đột nhỏ thành không có xung đột”. + Từ 6/3/1946 đến trước 19/12/1946, trước tình thế nguy hiểm do HoaPháp bắt tay nhau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì đã chọn giải pháp “hòa để tiến”. Chủ trương đúng đắn trên cùng với các hoạt động ngoại giao sau đó đã đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, kéo dài thời gian hòa hoãn để xây dựng, củng cố lực lượng chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc khó tránh khỏi. Biết xác định kẻ thù chính nguy hiểm nhất để cô lập và tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng, hòa hoãn với những kẻ thù có thể hòa hoãn được, với sách lược mềm dẻo, linh hoạt, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù, Đảng, chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điều hành xuất sắc hoạt động đối ngoại, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. 2.2. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ (1946-1954 ): a/ Đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954): - Để tiến hành được chiến tranh, mỗi bên tham chiến đều phải vạch ra đường lối chiến tranh cho mình. Kẻ địch có đường lối chiến tranh của chúng. Đó là đường lối chiến tranh xâm lược mang tính chất phi nghĩa, mất lòng dân. Ngược lại, ta tiến hành chiến tranh là để bảo vệ độc lập của Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân, chiến tranh vì dân, được dân ủng hộ. Ta có điều kiện dựa vào dân. Đường lối kháng chiến của ta là đường lối chiến tranh nhân dân. Đường lối ấy xuất phát từ những văn kiện chính sau đây: + Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tháng 11/1945); + Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (ngày 12/12/1946); + Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch (ngày 19/12/1946); + Từ một số bài báo của đồng chí Trường Chinh viết hồi đầu kháng chiến để hướng dẫn dân ta kháng chiến, sau tập hợp lại in thành cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (xuất bản lần đầu 1947). Từ những văn kiện chính ấy dần dần đi đến hình thành đường lối kháng chiến cho ta. Đường lối đó là “Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”. • Kháng chiến toàn dân, nghĩa là huy động sức mạnh của mọi người dân tham gia vào công cuộc kháng chiến. Sở dĩ như vậy là vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Còn về thực tiễn ta kháng chiến là để bảo vệ độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, kháng chiến vì dân phải do dân làm. Ta chủ trương kháng chiến toàn diện nên phải kháng chiến toàn dân để mọi người dân đều được đóng góp tùy theo khả năng và sở trường của mình. Ta chủ trương kháng chiến trường kỳ và tự lực cánh sinh, dựa vào dân mới có tiềm lực đánh lâu dài. Cuối cùng kinh nghiệm lịch sử của dân tộc ta cho thấy, xưa nay tất cả những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi đều phải biết dựa vào dân. • Kháng chiến toàn diện: nghĩa là kháng chiến về mọi mặt. Vì thực tiễn địch đánh ta toàn diện, ta phải chống lại chúng trên tất cả các mặt, mặt khác ta vừa kháng chiến lại vừa phải kiến quốc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. • Kháng chiến trường kỳ: nghĩa là đánh lâu dài. Sở dĩ như vậy vì sự vật phát triển phải là một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, xen kẽ những bước nhảy vọt; Còn về thực tiễn mở đầu chiến tranh chiến địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự, chúng có cả một đội quân xâm lược nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân. Ngược lại, quân đội ta vừa thành lập trang bị kém cỏi vũ khí thô sơ. Địch lại có các đế quốc khác giúp đỡ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh vừa tiêu hao dần lực lượng của địch, phát triển dần lực lượng của ta làm cho lực lượng đôi bên chuyển hoá, đến một lúc nào đó, ta mạnh hơn địch mới đánh bại được kẻ địch. • Tự lực cánh sinh: nghĩa là hoàn toàn tự mình chứ không nhờ vả vào ai. Còn về thực tiễn mở đầu chiến tranh ta bị bao vây tứ phía. Mãi đến cuối năm 1950 sau khi có chiến thắng Biên giới ta mới nhận được viện trợ từ ngoài vào. Tuy nhiên, ta vẫn coi “Dựa vào sức mình là chính”. Bốn mặt trên đây của đường lối là một thể thống nhất, hoàn chỉnh, có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Đường lối đó tiếp tục bổ sung trong suốt quá trình phát triển của cuộc kháng chiến. Mãi đến tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đường lối ấy mới được đưa ra thảo luận và chính thức thông qua. Đường lối kháng chiến đúng đắn của ta đã có ý nghĩa quyết định đối với những thắng lợi của cuộc kháng chiến. b/ Những thắng lợi có tính chất bước ngoặt về quân sự, chính trị và ngoại giao: - Những thắng lợi về quân sự: * Chiến thắng Việt Bắc (1947) Sau khi thất bại ở mặt trận Hà Nội, Pháp rất cay cú và chúng quyết định mở cuộc tấn công có quy mô lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm ba mục đích chính là: tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, phá tan căn cứ Việt Bắc. Để thực hiện âm mưu đó, Pháp đã huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm đủ các quân binh chủng và các loại máy bay có ở Đông Dương. Về phía ta, Đảng quyết định bằng mọi giá phải đánh bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho ta, ngày 7/10/1947, chiến dịch bắt đầu. Ta chủ động tấn công bao vây cánh quân dù và đã đạt thắng lợi to lớn ở Thái Nguyên và Bắc Cạn. Trên sông Lô ta đánh chúng ở Đoan Hùng. Trên đường số 4, đường Lạng Sơn-Cao Bằng ta tấn công quân bộ. Ngày 19/12/1947 chiến dịch kết thúc và thắng lợi thuộc về ta Chiến thắng Việt Bắc đã có ý nghĩa to lớn về chính trị quân sự: + Về quân sự: sau hơn hai tháng chiến đấu dũng cảm ta đã tiêu diệt và bắt sống 6300 tên địch, bắn rơi 16 máy bay, đánh chìm 11 ca nô, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh. + Về chính trị: chiến thắng này làm phá sản hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Đặc biệt là chiến thắng này làm thay đổi cách nhìn nhận, so sánh về lực lượng có lợi cho ta. Lực lượng của ta từ thế yếu hơn đến chỗ cân bằng với chúng. * Chiến thắng Biên giới 1950: Bước sang năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển mới thuận lợi cho ta, cho phép ta mở một chiến dịch lớn nhằm xoay chuyển hẳn cục diện chiến tranh. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Đảng ta đã quyết định mở chiến dịch biên giới (Thu Đông 1950) nhằm 3 mục đích là: - Tiêu diệt 1 bộ phận sinh lực địch; - Giải phóng thêm đất, thêm dân, củng cố và mở rộng thêm căn cứ địa Việt Bắc; - Khai thông biên giới Việt Trung, nối liền cách mạng nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để thực hiện chiến dịch này, ta huy động hàng chục vạn đồng bào các dân tộc, mở đường, vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực ra mặt trận với khẩu hiệu “Tất cả cho chiến dịch toàn thắng”. Chiến dịch bắt đầu ngày 16/9/1950. Mở đầu, ta đã tấn công vị trí Đông Khê, đó là vị trí quan trọng trên đường số 4. Sau ngày ta tiêu diệt được vị trí này, dồn địch vào thế bị động. Chúng phải rút quân từ Cao Bằng về và đưa quân từ Lạng Sơn lên ứng cứu. Ta đã phục kích và đánh tan hai cánh quân này, buộc chúng phải rút bỏ nhiều vị trí như: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng... Đến ngày 17/10/1950 chiến dịch kết thúc và thắng lợi thuộc về ta. Chiến thắng này có ý nghĩa quan trọng về chính trị và quân sự: + Ta đã tiêu diệt và bắt sống trên 11500 tên, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương triện chiến tranh, khai thông tuyến biên giới Việt - Trung dài 750km, giải phóng thêm được 4000 km2 đất đai và 35 vạn dân. + Về chính trị, chiến thắng này đã xoay chuyển hẳn cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Lực lượng của ta mạnh dần lên. Ta luôn luôn chủ động tấn công chúng. Địch luôn luôn bị động đối phó với ta. * Chiến thắng Điện Biên Phủ Sau 8 năm tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương, thực dân Pháp đã không đạt được mục đích quân sự và chính trị. Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến. Tháng 5 năm 1953, chúng cử đại tướng Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Vừa đặt chân đến Sài Gòn, tên tướng này đã vạch ra một kế hoạch gồm 2 bước: - Bước 1: Thu Đông 1953 và Xuân Hè 1954, phòng ngự miền Bắc, tấn công miền Nam. - Bước 2: Thu Đông 1954 trở đi sau khi ổn định miền Nam sẽ mở cuộc tấn công tổng lực miền Bắc và kết thúc chiến tranh. Kế hoạch Nava dự định sẽ bình định xong Việt Nam trong vòng 18 tháng. Về phía ta, phát huy quyền làm chủ chiến lược vừa giành được ta liên tiếp mở các chiến dịch lớn như: Tây Bắc, Trung Lào, Thượng Lào, Tây Nguyên và Nam Bộ để buộc địch phải bị động và phân tán lực lượng đối phó với ta. Kế hoạch Nava có nguy cơ bị phá sản. Trước tình thế đó, thực dân Pháp buộc phải xây dựng ở Điện Biên Phủ một căn cứ quân sự lớn. Điện Biên Phủ trở thành khâu chính trong kế hoạch của Nava. Căn cứ này dài khoảng 10-18 km, rộng 6-7 km bao gồm 49 vị trí kiên cố, có 2 sân bay là Mường Thanh và Hồng Cúm, cùng nhiều cụm cứ điểm quân sự khác. Lực lượng của địch gồm 16.200 quân tinh nhuệ và các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất ở Đông Dương. Chúng chia Điện Biên Phủ làm 3 quân khu: - Phân khu Bắc gồm 3 vị trí: Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo - Phân khu trung tâm Mường Thanh: ở đây có sở chỉ huy của địch - Phân khu Nam: Hồng Cúm Mỹ và Pháp kiêu căng tuyên bố “Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm”. Chúng ngang nhiên thách thức quân ta lên Tây Bắc giao chiến. Sau khi đã phân tán được địch, Đảng đã quyết định chọn Điện Biên Phủ để đánh trận quyết chiến chiến lược với địch nhằm đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc chiến tranh. Thực hiện chủ trương trên, Đảng ta đã huy động toàn quân, toàn dân dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược này với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ”. Chiến dịch Điện Biên Phủ chia làm 3 đợt : - Đợt 1, từ ngày 13-17/3/1954: ta đánh địch ở phân khu Bắc gồm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo, sau 4 ngày ta đã tiêu diệt được phân khu này. - Đợt 2, từ ngày 30/3-26/4/1954: bằng chiến thuật vây lấn, ta đánh địch ở phân khu trung tâm. Tại đây cuộc chiến đấu diễn ra gay go ác liệt, nhất là đồi A1. - Đợt 3, từ ngày 1-7/5/1954: Quân ta tổng công kích. Ngày 7/5/1954 lá cờ chiến thắng của ta tung bay trên nóc sở chỉ huy địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch. Đây là chiến thắng oanh liệt nhất trong lịch sử chống Pháp của nhân dân ta. Chiến thắng này đã góp phần quyết định vào việc buộc địch ký vào hiệp định Giơ-ne-vơ để kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. c. Những thắng lợi về chính trị: Từ 1948 đến 1950 ta đã tiến hành củng cố chính quyền dân chủ nhân dân. • Tháng 2/1951, Đảng tiến hành đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Đại hội đã chính thức thông qua đường lối để đưa kháng chiến đến thắng lợi, đã quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai từ 3/3/1951 lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam. Đại hội đã bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Cùng ngày 3/3/1951 ta hợp nhất Mặt trận Việt Minh vào Mặt trận Liên Việt và thành lập khối liên Minh Việt -Miên - Lào. • Cũng vào năm 1951, ta đã lập tờ báo nhân dân làm cơ quan tuyên truyền ngôn luận chính thức của Đảng ta. • Năm 1952, ta tiến hành thành công Đại hội tuyên dương anh hùng chiến sĩ thi đua trong toàn quốc và đã lựa chọn tuyên dương được 7 anh hùng. d. Những thắng lợi về ngoại giao: • Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công. Từ năm 1950 hệ thống xã hội chủ nghĩa được hình thành. Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã lần lượt đặt quan hệ ngoại giao và ủng hộ rất tích cực cuộc kháng chiến của ta. • Từ ngày 8-5 đến 21-7/1954 họp hội nghị Giơ-ne-vơ buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954) để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. 2.4. Tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến chống Pháp (19461954) a. Giải thích vì sao phải kháng chiến toàn diện: nghĩa là kháng chiến về mọi mặt. Vì thực tiễn địch đánh ta toàn diện, ta phải chống lại chúng trên tất cả các mặt. Mặt khác ta vừa kháng chiến lại vừa phải kiến quốc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. b. Nội dung cụ thể: */ Đấu tranh về chính trị: Địch đánh ta về chính trị, ta phải chống lại chúng về chính trị. Ta vạch trần âm mưu chính trị “Dùng người Việt đánh người Việt” của chúng. Ta củng cố khối đoàn kết nhân dân. Ngày 3/3/1951 ta thống nhất Việt Minh và Liên Việt và thành lập khối liên minh Việt - Miên - Lào. Tháng 2/1951, Đảng họp đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, quyết định đưa đảng ra hoạt động công khai và lấy tên Đảng và Đảng lao động Việt Nam. Đại hội còn chính thức đưa ra đường lối để đưa kháng chiến đến thắng lợi. */ Đấu tranh về kinh tế, tài chính: Địch đánh ta về kinh tế ta phải chống lại chúng về kinh tế. Mở đầu là kháng chiến toàn quốc, ta di chuyển cơ sở công nghiệp ra vùng tự do và các căn cứ, thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, “Vườn không nhà trống”. - Ta ra sức phá hoại kinh tế của địch, chống lại âm mưu “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của chúng; đẩy mạnh nền kinh tế có khả năng tự cấp, tự túc của ta. - Chính phủ đề ra nhiều chính sách kinh tế, tài chính nhằm phát triển sản xuất, huy động sự đóng góp của nhân dân trong kháng chiến (chính sách thuế, ngân hàng, quỹ tín dụng, mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán) đồng thời phục vụ quốc kế, dân sinh. - Ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính, sản xuất nông nghiệp của ta đã bảo đảm lương thực cho nhân dân, cho cán bộ ở hậu phương, cho bộ đội ở tiền tuyến. - Ta lập các công binh xưởng trong rừng sâu theo quy mô nhỏ, phân tán, chú trọng công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng. Thủ công nghiệp được coi trọng nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân và quân đội. */ Đấu tranh về văn hóa, giáo dục: Địch đánh ta về văn hóa, ta phải vạch trần tính chất nô dịch trong văn hóa của địch và xây dựng nền văn hóa của ta. - Tiếp tục phong trào “Bình dân học vụ”, “Xóa mù chữ", mở rộng phong trào “Bổ túc văn hóa” để nâng cao trình độ cho nhân dân, cán bộ và bộ đội. - Ta mở trường phổ thông các cấp chủ yếu là bậc tiểu học, giáo dục thực hiện theo 3 phương châm phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất. - Ta cũng tranh thủ mở một số trường trung học chuyên nghiệp và bước đầu mở trường đại học để đào tạo cán bộ và công nhân kĩ thuật cho trước mắt cũng như cho xây dựng đất nước sau này. Năm 1948 ta mở đại hội văn hóa toàn quốc, xây dựng nếp sống mới, vận động thực hiện 3 sạch. - Tháng 7/1950, chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục lần thứ nhất, đã thay hệ thống giáo dục cũ bằng hệ thống giáo dục 9 năm, xóa bỏ những tàn dư của nền giáo dục thực dân phong kiến, hướng giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến - kiến quốc và đặt nền móng cho nền giáo dục dân chủ nhân dân của ta. */ Đấu tranh về quân sự: Địch đánh ta về quân sự, ta phải chống lại địch về quân sự. - Mở đầu kháng chiến toàn quốc chống Pháp (19/12/1946) quân dân ta chủ động tiến công Pháp ở thủ đô Hà Nội với các đô thị khác ở phía bắc vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở ra Bắc) nhằm tiêu hao, giam chân địch, phá âm mưu “Đánh úp” của chúng, chuyển đất nước sang thời chiến, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài, toàn dân, toàn diện. - Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên dành thắng lợi của ta. - Sau chiến thắng Việt Bắc, trong những năm 1948-1949, Đảng ta chủ trương phân tán phần lớn bộ đội chủ lực chính quy thành những “Đại đội độc lập” đi sâu vào vùng địch tạm chiếm giúp địa phương xây dựng cơ sở kháng chiến, tổ chức lực lượng vũ trang, hình thành ra “Lực lượng vũ trang 3 thứ quân”, phát động chiến tranh du kích, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. - Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của ta giành thắng lợi. - Từ sau 1950, quân dân ta chủ động tấn công vào quân địch ở các chiến trường (rừng núi, trung du, đồng bằng), như chiến dịch Trung du, chiến dịch đường số 18... - Cuối cùng, ta mở chiến dịch Đông xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến 7/5/1954) giành thắng lợi hoàn toàn. */ Đấu tranh ngoại giao: Địch đánh ta về ngoại giao ta phải đấu tranh ngoại giao với địch. - Từ đầu năm 1950, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa lần lượt được chính phủ Trung Quốc (18/1/1950), Liên Xô (31/1/1950) và các nước xã hội khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, làm tăng uy tín của ta trên trường quốc tế. - Tháng 3/1951 ta mở Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương, thành lập khối liên minh Việt - Miên - Lào. - Cuối cùng, khi ta đã có thắng lợi lớn về quân sự, chính trị, tính chính nghĩa của ta đã tương đối sáng tỏ, ý chí xâm lược của địch bắt đầu lung lay, ta mới tranh thủ mở Hội nghị quốc tế tại Giơnevơ đi đến kí hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954 để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nhờ kháng chiến toàn diện, ta đã đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội sau này. 2.5. Xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). * Lí luận về tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh : Lênin thường nói: “Một hậu phương dù có hùng mạnh nhất thế giới này, nó cũng lập tức bị tan rã ngay sau vài tuần lễ nếu nó bị cắt rời với sự chi viện của hậu phương”. Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhận rõ nhiệm vụ này nên Đảng và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954 đã tích cực xây dựng cho mình một hậu phương vững mạnh. Hậu phương trong cuộc kháng chiến rất phong phú, phức tạp vì có hậu phương lớn (tức vùng tự do như Liên khu Việt bắc, Liên khu 4...) lại có những vùng nhỏ trong lòng địch, vùng du kích... hoặc còn có “hậu phương trong lòng dân” (như Hồ Chủ tịch nói). Nói đến xây dựng hậu phương ta phải chú ý một cách toàn diện: Kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - giáo dục nhưng trước hết là về chính trị. a. Về chính trị: Đảng và Chính phủ ra sức chăm lo củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất (dưới hai hình thức: Việt Minh và Liên Việt) để tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Ở vùng tạm chiếm, mọi người đều tham gia đánh giặc giữ làng chống bắt phu bắt lính. Ở vùng tự do mọi người đều tích cực sản xuất, luyện tập quân sự, góp gạo nuôi quân, sẵn sàng chiến đấu. Chính quyền dân chủ nhân dân tiêu biểu là Ủy ban hành chính kháng chiến cấp thấp từ chiến khu đến tỉnh, huyện, xã không ngừng được củng cố và xây dựng theo yêu cầu của kháng chiến. Từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 Đảng ta đã họp Đại hội toàn quốc lần thứ II tại căn cứ Việt Bắc. Đại hội đã tổng kết những thắng lợi, những kinh nghiệm của cách mạng trong thời gian qua chính thức thông qua đường lối để đưa kháng chiến đến thắng lợi. Đại hội còn quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên Đảng Lao Động Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Ngày 3/3/1951 mặt trận Việt Minh và mặt trận Liên Việt đã hợp nhất lấy tên là mặt trận Liên Việt, làm khối đoàn kết dân tộc mạnh hơn. Cùng ngày 3/3/1951 khối liên minh Việt - Miên - Lào được thành lập, khối đoàn kết giữa 3 dân tộc Đông Dương được tăng lên. Ba sự kiện chính trị ấy đã thổi một luồng không khí phấn khởi mới cho toàn Đảng, toàn dân ta làm cho thế chính trị của cuộc kháng chiến càng thêm vững chắc. b. Về kinh tế : Đảng chủ trương đấu tranh kinh tế chống lại chính sách “Dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch, vừa ra sức xây dựng vùng kinh tế, đẩy mạnh xây dựng cơ sở công nghiệp quốc phòng (xưởng quân giới, xưởng công binh..) thủ công nghiệp (thuốc men, vải mặc, dụng cụ sản xuất), bồi dưỡng nông dân (thông tư quy định giảm tô 25%)... Đảng và chính phủ đã phát động được cuộc “Đại vận động sản xuất và tiết kiệm” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thu được nhiều kết quả. Ngày 1/5/1952 mở Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc, đại hội đã chọn được 7 anh hùng và hàng chục chiến sĩ thi đua toàn quốc tiêu biểu cho các ngành công, nông, binh và lao động trí óc, cổ vũ tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân. Cuộc kháng chiến càng tiến triển yêu cầu bồi dưỡng sức dân càng lớn, năm 1953 Đảng chính phủ đã đề ra chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và cải cách ruộng đất (Liên khu Việt Bắc, Liên khu 4). Nông dân được cải thiện một phần đời sống càng hăng hái sản xuất, tích cực đóng góp người và của cho tiền tuyến, tạo điều kiện cho quân ta đánh thắng địch của Điện Biên Phủ. c. Về văn hóa giáo dục : Năm 1948 hội nghị văn hóa toàn quốc với báo cáo quan trọng của đồng chí Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam, đã giúp cho những người làm công tác văn nghệ nhận rõ lập trường quan điểm của mình. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển, từ năm 1950 ta bắt đầu tiến hành cải cách giáo dục xây dựng và mở rộng thêm các trường trung cấp và đại học. Phong trào đời sống mới (vệ sinh phòng bệnh, chống mê tín dị đoan...) ngày càng lan rộng trong nhân dân. Tóm lại những thắng lợi về chính trị, về kinh tế, về văn hóa giáo dục không những đáp ứng được nhu cầu bức thiết của cuộc kháng chiến, đẩy mạnh sự nghiệp phản phong, tạo tiền đề (chính quyền, cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội) để tiến lên xã hội chủ nghĩa sau này. 3. Lựa chọn phương pháp ôn tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 1954: Với đối tượng là học sinh giỏi, giáo viên cần xác định rõ ngoài kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa học sinh cần phải biết các sự kiện lịch sử một cách rõ ràng, sâu sắc hơn và trên cơ sở các sự kiện đó các em phải biết vận dụng vào làm các dạng bài thi với yêu cầu tổng hợp, phân tích đánh giá các sự kiện lịch sử. Muốn làm được điều này giáo viên cần nắm được nguyên tắc "biết - hiểu - vận dụng". Để học sinh "biết" giáo viên cần thay đổi phương pháp dạy, thay vì việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên cần tạo ra những tình huống để học sinh tự tìm hiểu các sự kiện lịch sử sau đó giáo viên chỉ là người đánh giá, nhận xét và bổ sung kiến thức cho học sinh. Khi tiến hành bài học lịch sử, việc sử dụng đa dạng và kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lí các phương pháp, các cách dạy phù hợp với từng nội dung lịch sử là điều cần thiết. Song, ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh tới phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi giảng dạy một vấn đề cụ thể đã được xác định trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1945 – 1954. Trước hết, phương pháp dạy học nêu vấn đề - đây là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận dụng trong tất cả các khâu như trình bày nêu vấn đề, tình huống có vấn đề và bài tập, câu hỏi nêu vấn đề. Trong đó, khi lựa chọn vấn đề dạy phải đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học, tính Đảng, tính hình ảnh và ngôn ngữ trong sáng. Song, việc lựa các vấn đề dạy trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể phải có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển tư duy độc lập của học sinh. Khi dạy vấn đề chuyên sâu không chỉ củng cố hệ thống hoá kiến thức cơ bản đã học, mà còn giúp học sinh tìm ra bản chất của sự kiện, hiện tượng, phân tích, đánh giá và độc lập rút ra các kết luận cần thiết trên cơ sở trình bày của thày, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trong học tập…. Việc tạo tình huống có vấn đề không thể tràn lan, không thể đặt ra những vấn đề quá lớn như một đề tài khoa học, càng không nên sa vào những tình huống vụn vặt, chỉ nhằm thỏa mãn tính tò mò của người học, mà cần tập trung vào nội dung then chốt của mỗi chương, bài. Nếu giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo điều kiện tiếp tục giải quyết các vấn đề khác. Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình giải quyết vấn đề của học sinh, đòi hỏi ý thức tự giác học tập. Nó giữ vị trí quyết định thành công của phương pháp dạy và học nêu vấn đề. Sẽ không thể có kết quả gì nếu học sinh không chịu thi công. Học sinh chỉ có thể có được những tri thức lịch sử một khi bản thân họ tự làm việc bằng lao động nhận thức của chính mình. Nêu các vấn đề: - Trình bày và nhận xét được tình hình nước Việt Nam sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945; - Đánh giá được những biện pháp xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà từ tháng 9/1945 đến trước ngày 19/12/1946. - Trình bày và nhận xét được những diễn biến chính của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng từ tháng 9/1945 đến trước ngày 19/12/1946. - Tóm tắt được quan hệ của Việt Nam đối với Pháp từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946. - Phân tích được hoàn cảnh lịch sử và nội dung Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946) và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) của Hồ Chí Minh. - Tóm tắt được nội dung kháng chiến toàn diện trong giai đoạn từ tháng 12/1946 đến năm 1950. - Trình bày được hoàn cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947. - Trình bày được hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng trong việc mở chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950; diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch. - Trình bày được nội dung xây dựng hậu phương kháng chiến từ năm 1951 đến năm 1954; phân tích được ý nghĩa của việc xây dựng hậu phương. - Phân tích được âm mưu và thủ đoạn mới của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ thể hiện trong kế hoạch Na-va. - Tóm tắt được diễn biến và phân tích được ý nghĩa của cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. - Trình bày được nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương. - Phân tích được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. - Giải thích được các khái niệm, thuật ngữ lịch sử: Bình dân học vụ, tối hậu thư, hiệp định, kháng chiến trường kì, tự lực cánh sinh, hậu phương, vùng tự do, vùng du kích, vùng tạm chiếm, chiến dịch, tiến công chiến lược. Thứ hai, là phương pháp thảo luận nhóm tại lớp: Trong dạy và học lịch sử có nhiều hình thức hợp tác theo nhóm, nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập khác nhau ở trong hoặc ngoài lớp học. Có thể là hợp tác nhóm để học theo quy trình nghiên cứu khoa học, trong đó mỗi thành viên của nhóm sẽ thực hiện một phần của đề tài dưới sự chủ trì của thầy hoặc nhóm trưởng. Có thể là sự hợp tác giữa các thành viên để cùng giải quyết một tình huống có vấn đề đã được đặt ra... Ở đây chỉ bàn về phương pháp thảo luận nhóm tại lớp trong dạy và học môn lịch sử, giải quyết những câu hỏi/chủ đề cụ thể. Việc thảo luận không giống như một buổi séminar, một buổi báo cáo kết quả nghiên cứu, mà là trả lời những câu hỏi/chủ đề nhằm phục vụ trực tiếp cho bài giảng theo trình tự của chương trình, có thể tiến hành thường xuyên, trong hầu hết các giờ học trên lớp. Trong một buổi học, có thể thảo luận nhiều câu hỏi/chủ đề khác nhau có liên quan tới một nội dung kiến thức của buổi học. Để thực hành phương pháp này, cần chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 4 đến 5 học sinh, chỗ ngồi cố định ở gần nhau, tránh phải thay đổi chỗ ngồi khi cần thảo luận tại nhóm. Câu hỏi để thảo luận nhóm tại lớp cần đáp ứng những yêu cầu sau: - Nhằm vào những kiến thức cơ bản. Học liệu phục vụ việc chuẩn bị trả lời phải được chọn lọc kỹ, bao gồm các học liệu bắt buộc và tham khảo được xác định cho môn học, và được công bố trước, đảm bảo có thể cung cấp cho học sinh ngay tại lớp. - Kích thích tư duy của mỗi học sinh bằng những câu hỏi có yêu cầu vận dụng kiến thức, so sánh, giải thích, hoặc nhận xét, đánh giá. Ví dụ: Tại sao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), nhân dân Việt Nam phải đánh lâu dài? ….. Dạy và học lịch sử bằng phương pháp thảo luận nhóm tại lớp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy và học hiên nay. Phương pháp này có tác dụng kích thích sự hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm, nhằm đưa ra một đáp án đúng và cách trình bày tốt nhất cho mỗi câu hỏi, tăng cường vai trò chủ động của người học trong việc nắm bắt nhanh những kiến thức cơ bản, giải quyết yêu cầu chủ yếu là hiểu bài ngay tại lớp. Thảo luận nhóm tại lớp tạo cơ hội cho tất cả học sinh tham gia phát biểu ý kiến, tăng cường tương tác giữa những người học với nhau, kích thích tính chủ động suy nghĩ và tinh thần trách nhiệm trong học tập, tạo điều kiện để họ có thể cung cấp kiến thức cho nhau, giúp họ tự kiểm tra, đánh giá việc học tập và tự khẳng định mình, tạo không khí sôi nổi trong giờ học, rèn luyện khả năng diễn đạt trước đông người... - Lựa chọn câu hỏi, nội dung thảo luận. Các câu hỏi này cần theo trình tự chặt chẽ, đảm bảo tính hệ thống của môn học, nhằm vào các trọng tâm kiến thức. Phải hết sức tránh đặt câu hỏi tràn lan. - Hướng dẫn chuẩn bị: giới thiệu những tài liệu cần đọc (chính xác đến trang), nêu câu hỏi gợi ý (nếu cần), hướng dẫn cách viết đề cương cá nhân (tốt nhất là trên giấy một mặt). - Tổ chức các nhóm học tập (ổn định trong toàn bộ khoá trình môn học), giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm theo hai cách: (1) các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ (nhóm đồng việc), (2) mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ bộ phận của một câu hỏi chung; hướng dẫn cách phân công nhiệm vụ cho từng người trong nhóm. - Hướng dẫn hoạt động của các nhóm, cách ghi biên bản thảo luận (ghi rõ nhiệm vụ cụ thể của mỗi thành viên trong trong nhóm; nội dung thảo luận ở nhóm). - Chủ trì thảo luận chung của cả lớp, điều hành các nhóm thay nhau trình bày trước lớp; động viên, khuyến kích thảo luận; đặt câu hỏi gợi ý khi cần thiết nhằm hướng dẫn học sinh trả lời đúng yêu cầu của câu hỏi, tránh bao biện, trả lời thay, mang tính áp đặt. Thứ ba, sử dụng bài tập lịch sử bồi dưỡng, ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia. Giáo viên sau khi giảng dạy một giai đoạn lịch sử, một vấn đề chuyên sâu cần biên soạn các câu hỏi ôn tập giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức cơ bản, nâng cao khả năng độc lập tư duy, rèn luyện kĩ năng làm bài. Việc xây dựng bài tập, câu hỏi ôn tập trong dạy học lịch sử nói chung không thể là việc làm tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa mà phải xuất phát từ những căn cứ khoa học và phải tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản như: + Nội dung bài tập phải gắn với chương trình, sách giáo khoa. + Đảm bảo tính hệ thống trong việc xác định nội dung kiến thức cơ bản. + Đảm bảo tính đa dạng, toàn diện trong việc xác định kiến thức lịch sử ở nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội…. + Nội dung bài tập lịch sử phải phù hợp với trình độ nhận thức, phát huy trí thông minh sáng tạo, có tác dụng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức của học sinh. + Bài tập lịch sử cần chính xác về nội dung và chuẩn mực về hình thức. Sau đây là một số dạng bài tập, câu hỏi tự luận (tham khảo) ôn tập cho học sinh giỏi khi dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1945 – 1954. Câu 1. Tình hình nước Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 có những thuận lợi và khó khăn gì? Câu 2. Đảng và Chính phủ đã sử dụng những giải pháp gì để đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai sau ngày Cách mạng sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Nêu hiệu quả của việc thực hiện những giải pháp đó? Câu 3. Tóm tắt quan hệ của Việt Nam đối với Pháp từ ngày tháng 9/1945 đến tháng 12/1946. Câu 4. Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân và nội dung đường lối kháng chiến của Đảng. Câu 5. Tóm tắt các bước phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên mặt trận quân sự. Câu 6. Từ năm 1950 đến trước chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954), hậu phương kháng chiến đã được xây dựng như thế nào? Nêu vai trò của hậu phương đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Câu 7. Phân tích hoàn cảnh ra đời và nội dung kế hoạch quân sự Na va. Câu 8. Trình bày và nhận xét hiệu quả thực hiện phương hướng chiến lược do Bộ Chính trị xác định trong Đông – Xuân 1953 – 1954. Câu 9. Vì sao Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), nêu diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch. Câu 10. Trình bày hoàn cảnh kí kết, nội dung cơ bản và ý nghĩa của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương. Câu 11. Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Câu 12. Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài các bài tập tự luận, cần xây dựng bài tập thực hành như: Vẽ sơ đồ, biểu đồ; bài tập về vẽ đường trục thời gian, hoặc lập niên biểu. ..ví dụ: Câu 1: Vẽ lược đồ chiến dịch Biên giới thu đông 1950? (Hoặc lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ )..... Câu 2: Vẽ trục thời gian biểu diễn những thắng lợi về quân sự của quân và dân ta chống cuộc xâm lược của Pháp và can thiệp Mĩ 1945 - 1954? Câu 3: Lập niên biểu về những thành tích của nhân dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1945 - 1954) theo mẫu sau: Thành tích về các mặt Thời gian Quân sự Chính trị Ngoại giao Kinh tế Văn hóa, tài chính giáo dục, y tế Bên cạnh đó giáo viên còn có thể hướng dẫn học sinh giải các bài tập thông qua hoạt động ngoại khóa như tự tìm tòi nghiên cứu để soạn các báo cáo khoa học phù hợp với trình độ của bản thân, tự sưu tầm tài liệu lịch sử địa phương, tự vận dụng kiến thức, kĩ năng kĩ xảo đã học vào hoạt động thực tiễn theo những yêu cầu mà giáo viên đưa ra. Thứ tư, tổ chức kiểm tra đánh giá học sinh, chủ yếu dưới hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết. + Kiểm tra miệng kết hợp trong giờ dạy để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức và khả năng phản xạ nhanh; khả năng tư duy sáng tạo trong quá trình nghe giảng; rèn luyện kĩ năng thuyết trình các sự kiện lịch sử... + Kiểm tra bài viết tại lớp, đây là hình thức bắt buộc vì một vấn đề chuyên sâu đòi hỏi học sinh phải hình thành được kĩ năng làm bài thi, đó là: đọc và hiểu đề thi; vạch đề cương sơ lược bài làm; nắm vững nội dung lịch sử (là yêu cầu quan trọng bậc nhất để đạt được kết quả thi cao); lựa chọn phương pháp học tập và làm bài phù hợp (đòi hỏi sự thông minh, phải có tư
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan