LUẬN VĂN:
Lợi ích kinh tế của người lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư của
Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến cuối năm 2006, đầu tư
trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang
được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong
đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện
quyết tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt
Nam thông qua việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến
chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp
Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào sự ổn định và phát triển
nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, không xảy ra các cuộc đình công, bãi
công của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như một số doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài khác …
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn có những hạn chế gây ảnh hưởng đến lợi
ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không nhỏ đối với sự phát triển
không chỉ của người lao động mà còn đối với chính DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức
xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã công bố kết quả điều tra về xu hướng và các
vấn đề lực lượng lao động và tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có
Việt Nam. Kết quả của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo
ngại về vấn đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu
hướng khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản vẫn
khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng, khoảng cách
giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung Quốc có khoảng cách
đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một công việc như nhau) [43].
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
có vốn nước ngoài là một vấn đề cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay, để có
những giải pháp cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó, Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh
tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa
bàn Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư nước ngoài
nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh ngiệpNhà nước ở
nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc bảo vệ lợi
ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của
Nguyễn Lợi.
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân lực trong
các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của Đỗ Viết
Thẩn.
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể
hiện nay ở nước ta (Luận án. PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học quân sự, 1998),
Học viện chính trị Quân Sự
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" thì chưa có tác giả
nào nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà
Nội. Trên cơ sở đó nhằm đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần bảo vệ lợi
ích kinh tế cho người lao động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế nói
chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là: Đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, vạch ra những mặt ưu điểm và
hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là: Đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động.
Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật, góp phần
vào công cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế
trên địa bàn thủ đô và trong cả nước.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, còn sự đầu tư của các quốc gia, và các
lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ năm 1993
– 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin, luận văn còn
sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống kê, phỏng vấn chuyên gia,
phân tích tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng và Đại học trong
khuôn khổ môn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn thảo các văn
bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các doanh nghiệp nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua những thành tựu và những đóng góp. luận văn có những ý nghĩa thực
tiến góp phần giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam cần phải
có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động,
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù
hợp với đạo đức, với quy ước của pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp vào Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
MỤC LỤC
Trang
1
Mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về lợi ích kinh tế của người lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.1
Lợi ích kinh tế của người lao động
1.2
Các bộ phận cấu thành lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài
5
5
12
1.3
Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài
32
Chương 2: Thực trạng lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản trên địa bàn Hà
38
Nội
2.1
Đặc điểm sử dụng và trả công lao động của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài của Nhật Bản ở Hà Nội
2.2
Lợi ích kinh tế chủ yếu của người lao động trong quá trình sản xuất
ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản
2.3
38
51
Những vấn đề tồn tại trong quan hệ lợi ích giữa người lao động Việt
Nam với chủ doanh nghiệp Nhật Bản
59
Chương 3: Những quan điểm và giải pháp nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế
của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội trong thời
65
gian tới
3.1
Quan điểm chung của Đảng và Nhà nước ta đối với lợi ích kinh tế
người lao động.
3.2
65
Các giải pháp đẩy mạnh lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn Nhật Bản trong thời gian tới
70
Kết luận
82
Danh mục tài liệu tham khảo
84
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
APEC
Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
BLLĐ
Bộ luật lao động
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN
Doanh nghiệp
DNCVĐTNN
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
FDI
Đầu tư trực tiếp
JETRO
Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản
KCN
Khu công nghiệp
QHSX
Quan hệ sản xuất
TNCs
Các công ty xuyên quốc gia
USD
Tiền đô la Mỹ
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
WB
Ngân hàng thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan tâm của tất cả
các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó được biểu hiện rất đa dạng, phong
phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản xuyên suốt mọi nền sản xuất, của toàn bộ tiến
trình vận động và phát triển của lịch sử. Theo quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh
tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai
đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ kinh tế
của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [30, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là sự tác
động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [6, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình thức biểu
hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản xuất [39, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình sản xuất,
quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai trò quyết định trong hệ
thống sản xuất.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế
khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ
chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [33].
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là sự biểu
hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết
cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt động kinh tế của con
người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và quy luật
phản ánh các quan hệ kinh tế đó [32, tr. 296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất,
nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào
các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những quan điểm khác nhau trên thấy rằng: Trong bất cứ xã hội nào con
người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức khoẻ, học tập
và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả mãn những nhu cầu vật
chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của mình. Toàn bộ những nhu cầu đó
được biểu hiện dưới một hình thức chung nhất chính là lợi ích kinh tế. Nó vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song động lực
chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết định thúc đẩy con
người hành động, chi phối nội dung các động lực khác. Cuộc sống của con người bao
giờ cũng đòi hỏi nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ
nhu cầu nào của con người cũng được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có
những nhu cầu mang tính hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích
kinh tế. Nhu cầu đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất
định. Hay chính là: không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được
xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế có liên
quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của con người đều trở
thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất (nhu cầu kinh tế) mới trở thành
lợi ích kinh tế.
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách
quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động có nhận thức của
con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm trù lợi ích, thì hoạt động
của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó luôn tồn tại trong vận động (như mọi sự vật
hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của các quy luật kinh tế
do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập, làm nảy sinh các quy luật kinh
tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế
mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của
QHSX, các quy luật kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều
phải thông qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi
ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của cơ chế
tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Không có lợi ích kinh tế thuần
tuý tồn tại ngoài con người hoặc là con người không ý thức gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế
là một phạm trù kinh tế khách quan, những con người có khả năng nhận thức nó và vì
nó mà hành động. Ở đây, cái khách quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang
hình thức chủ quan, cái chủ quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ
hành động kinh tế của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính
khách quan. Một mặt, thông qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác, thông
qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội được thực hiện. Vì
vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ
biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh
tế là những động cơ đã lay chuyển những quân chúng đông đảo. Và khi chúng biến
thành sự kích thích hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.
Từ sự tiếp cận ở trên có thể khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế khách quan nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất
định, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và phản ánh mặt bản chất
nhất của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người
(không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của
họ trong QHSX quyết định).
1.1.1.2. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49 triệu người
(hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động trong các ngành, các
lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả
những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất không vật chất;
những người có chuyên môn kỹ thuật; người lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao
động chân tay và trí óc…Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, mở rộng hợp
tác quốc tế, sự gia nhập WTO và nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai?
làm gì? ở đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và cho xã hội.
Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh tế và do đó địa vị xã
hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích
kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt của người quản nô khác hoàn toàn với lợi
ích kinh tế của người công nhân làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động tự do
làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá trị sức lao động
được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
sức lao động, đồng thời phản ánh được mức thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu
đời sống vật chất tinh thần của bản thân và gia đình người lao động. Sự hoạt động của
một DN, thì lợi ích kinh tế không phải ở trong nhận thức của con người, mà ở trong một
cơ sở kinh tế nhất định, nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ thuộc vào nhận
thức của con người. Do đó, trong quá trình lao động, sản xuất, người lao động không thể
đặt lợi ích của mình ngoài sự tồn tại của DN, cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN mà họ đang làm việc. Ngược lại DN không tự nó đưa lại lợi ích cho
người lao động, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để người lao động thực hiện lợi ích
mà thôi như việc làm, điều kiện làm việc, môi trường thể hiện năng lực….và do vậy, lợi
ích kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa người
lao động với chủ DN… Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh
tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [29].
Từ sự nghiên cứu tiếp cận phạm trù lợi ích kinh tế và phạm trù người lao động
nói chung, có thể nêu lên một cách khái quát: Lợi ích kinh tế người lao động là trong
quá trình sản xuất người lao động đem trí tuệ, tài năng lao động của chính mình để lao
động một cách tự giác, sáng tạo nhằm làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất thoả mãn
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân, gia đình và làm tròn nghĩa vụ với xã
hội và cộng đồng.
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện của các
quan hệ kinh tế, các quy luật kinh tế và phản ánh phương thức, mức độ thoả mãn các
nhu cầu vật chất, tinh thần của chủ thể kinh tế, của các thành viên khác nhau trong nền
sản xuất xã hội. Do đó khái niệm lợi ích kinh tế của người lao động ở nước ta hiện nay
thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người lao động phát huy được khả năng sáng tạo trong một môi
trường chính trị - xã hội ưu việt. Thể hiện, người lao động sẽ lao động một cách tự giác,
sáng tạo và có hiệu quả ngày càng cao vì lợi ích của chính người lao động, của tập thể,
của cộng đồng. Tuy nhiên, muốn biến khả năng đó thành hiện thực, cần phải có một cơ
chế, hình thức kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế trong một hệ thống, nhằm khơi dậy
phát huy một sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của từng tập thể và của từng cá nhân
người lao động.
Thứ hai: thoả mãn tốt hơn những nhu cầu về vật chất, tinh thần cá nhân và gia
đình người lao động. Trong thực tế lao động sản xuất và cuộc sống nói chung, đa phần
những người lao động không chỉ quan tâm đến mức độ thoả mãn các nhu cầu về đời
sống vật chất (thu nhập thông qua tiền lương, tiền thưởng và các sản phẩm của lao
động), ngoài ra lợi ích kinh tế của người lao động còn biểu hiện thông qua việc hưởng
thu các phúc lợi xã hội như: quyền có việc làm, chăm sóc ý tế, các khoản phụ cấp, trợ
cấp khác.
Như vậy, lợi ích của người lao động là nói tới khả năng lao động và thành quả
lao động với cách thức, mức độ thoả mãn những nhu cầu về đời sống vật chất cũng như
đời sống tinh thần của người lao động. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được thực
hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội phát triển.
Đồng thời phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tiền đề, khả năng thoả
mãn ngày càng hơn nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động
Ph.Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản mà tất cả
mọi nguyên tắc phải tuân theo.Do đó, bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi
phối bởi hai động lực chính đó là: Động lực vật chất (kinh tế) và động lực tinh thần. Để
đạt được những kết quả cao trong hoạt động kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động
kinh tế, mà còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò
quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt
động của con người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là:
Khả năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ
chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người
lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì nó luôn là động lực kích thích đối với con người, đối
với tập thể và đối với toàn xã hội. Đồng thời khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó
cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội được phồn
thịnh, thì đời sống tinh thần mới được nâng cao. Thực tế đã kiểm chứng; trong cơ chế
kinh tế cũ, chúng ta chỉ tập trung quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích người lao động, có
người còn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e ngại nó như là cái gì trái với nền
tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng, điều đó đã làm triệt tiêu động
lực của con người trong lao động sản xuất. Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính
sách mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện phân phối theo lao động: Ai
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không
hưởng. Đã tạo một động lực rất lớn đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả
năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh
tế là động lực kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát
huy nhân tố con người, điều cơ bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích kinh
tế, và phải coi lợi ích kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, nguồn gốc sâu xa của mọi động lực kinh tế được bắt nguồn từ nhu cầu
kinh tế và sự đòi hỏi được thoả mãn nhu cầu đó của con người.
Hiện nay, do nắm bắt được vai trò lợi ích kinh tế đối với người lao động là một
tất yếu, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ DN đã biết quan tâm chăm lo
phát huy yếu tố con người, coi trọng những lợi ích thiết thân của người lao động, dựa
vào lực lượng khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, đặt lòng tin, khắc phục sự kỳ thị,
đảm bảo thu nhập xứng đáng với khả năng đóng góp của người lao động, tìm ra cơ chế
quản lý phù hợp, coi trong việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải thiện
điều kiện lao động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy tính sáng tạo, đưa
lại hiệu sản xuất cao cho DN. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số DN kinh
doanh kiểu “chụp giật”, lợi dụng sức lực của người lao động để thu lợi nhuận, không
quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Dẫn tới các cuộc đình công, bãi công
đòi tăng lương…của người lao động đối với giới chủ. Đây là một vấn đề bức xúc hiện
nay đòi hỏi các ngành chức năng giải quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm
làm việc và được hưởng đúng với quyền lợi của mình.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH LỢI ÍCH KINH TẾ CỦANGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
Hai mươi năm, từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/1987) đến nay,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreing Direct Investmen: FDI) ngày càng trở thành một
trong những nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng tăng lên đã thật sự có tác động tích cực vào sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nước ta: “Tạo điều kiện
để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc
làm” [11, tr.99]. Để khẳng định tầm quan trọng của chính sách khuyến khích thu hút
đầu tư, trên tinh thần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong kinh tế đối
ngoại, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Thực tế cho thấy khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có
tốc độ phát triển nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và
khẳng định rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Thu hút FDI đã góp phần to lớn vào quá trình thay đổi cơ cấu của nền kinh tế,
thực hiện CNH, HĐH đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự
phát triển tích cực của quan hệ ngoại giao với các nước, năm 2006 vị thế của Việt Nam
trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ
chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội và Hoa Kỳ thông qua
Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), càng làm tăng mối quan tâm của
các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư: Tính đến cuối năm 2004, Việt Nam đã
thu hút được 2.098 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký là 17,8 tỉ USD.
Riêng năm 2005, số vốn đăng ký là 5,835 tỉ USD, tăng 45,2% so với năm 2004, vốn đầu
tư nước ngoài đã thực hiện 3, 747 tỉ USD so với 2004. Đến năm 2006, FDI là điểm sáng
nổi bật trong bức tranh kinh tế Việt Nam, với tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung
đạt trên 10,2 tỉ USD, mức cao nhất từ năm 1988 (8,8 tỉ USD năm 1995) đến nay. Số vốn
bình quân 1 dự án 9,4 triệu USD, cao gấp hai lần quy mô bình quân của năm 2005 (4,6
triệu USD/ dự án). Tính đến cuối năm 2006, cả nước đã có 6.813 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60,4 tỉ, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động) đạt
trên 28,7 tỷ.
Việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài được phân theo địa
phương.
Bảng 1.1: Kết quả thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
phân theo địa phương, giai đoạn 2000 – 2005
TT
Địa phương
Số dự án (%)
Tổng vốn đăng ký (%)
1.
TP. Hồ Chí Minh
30,19
23,4
2.
Hà Nội
11,11
16,74
3.
Đồng Nai
11,45
14,99
4.
Bình Dương
18,44
9,98
5.
Bà Rịa – Vũng Tàu
2,05
7,61
Nguồn: [4].
Theo số liệu trên thấy rằng, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận
lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương thu hút được nhiều dự
án và vốn đầu tư nước ngoài.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào đều gắn liền với lợi ích, bởi các hoạt động kinh
tế thực chất là nhằm mục đích là các lợi ích khác nhau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài liên
quan đến lợi ích của DN nước ngoài, của DN Việt Nam và người lao động làm việc
trong các DN đó. DNCVĐTNN khi đầu tư vào Việt Nam, có thể hoạt động đầu tư vào
bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nghề nào mà pháp luật nước sở tại cho phép, với mục đích
cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, khu vực nào, ngành nghề nào tạo ra điều kiện thuận lợi,
thì khu vực đó, ngành nghề đó sẽ thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó,
nước chủ nhà có quyền ban hành luật pháp riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài, còn
luật pháp có hấp dẫn họ hay không tuỳ thuộc vào lợi nhuận mà họ sẽ thu được trong quá
trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ rõ rằng: xét về khía cạnh
lợi nhuận có sự khác nhau trong hoạt động đầu tư của các DN vừa và nhỏ và các công ty
TNCs. Do các DN vừa và nhỏ có vốn đầu tư hạn chế nên thường thực hiện các dự án qui
mô nhỏ và trung hạn. Nếu trong trường hợp nước đến đầu tư bị khủng hoảng kinh tế thì
các DN đó dễ rút vốn về nước, hoặc không triển khai dự án đầu tư mới. Còn TNCs lớn
có chiến lược toàn cầu và mục tiêu dài hạn, nên các dự án đầu tư khi đã lựa chọn thường
được thực hiện kể cả trong trường hợp có khủng hoảng kinh tế. Từ đó việc xác định lợi
nhuận của hai DN này cũng có sự khác nhau. Nếu như DN vừa và nhỏ cần phải tạo ra
được lợi nhuận nhanh, thì các TNCs có thể chịu thua lỗ trong một thời gian nhất định,
miễn là sau đó có lãi và toàn bộ chu kỳ của dự án đầu tư thu được lợi nhuận trung bình
trên từng thị trường. Từ những đặc điểm trên, khi lợi ích của nước chủ nhà phù hợp với
lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài thì dự án đầu tư được thực hiện thuận lợi. Từ đó cho
thấy, các đối tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là Hoa kỳ; Nhật Bản, Hàn Quốc. Với sự
gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, đặc biệt là Nhật Bản.
Cụ thể, trong tháng 11 qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dòng đầu tư nước ngoài nói
chung và Nhật Bản nói riêng đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. Năm 2006, môi
trường kinh doanh của nước ta tiếp tục cải thiện. Ngoài triển khai luật đầu tư, Luật Doanh
nghiệp cùng các nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho hoạt động đầu tư, nhiều biện pháp đã được tiến hành nhằm hạn chế và khắc phục tình
trạng yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào quá trình thực hiện CNH, HĐH và
phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Đối với ngành công nghiệp, các DN đầu tư nước
ngoài chiếm 38% sản lượng công nghiệp chung của cả nước và có tốc độ tăng trưởng
20%/năm. đầu tư nước ngoài đã góp phần mở ra những ngành công nghiệp mới với công
nghệ và phương thức kinh doanh tiên tiến tại Việt Nam. Thể hiện: các DNCVĐTNN chiếm
gần 100% về khai thác dầu thô, 80% công nghệ sản xuất ô tô, máy giặt, máy điều hoà nhiệt
độ; 60% sản lượng thép cán; 30% xi-măng; 33% thiết bị điện tử; 76% dụng cụ y tế chính
xác; 49% da giày; 25% thực phẩm đồ uống… [3]. Các lĩnh vực công nghiệp trên đây đã
góp phần tạo ra bước phát triển về tính chất, trình độ hiện có của lực lượng sản xuất, làm
cho lực lượng sản xuất của nước ta phát triển theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế và
mục tiêu chung của sự nghiệp CNH, HĐH.
Sự phát triển của FDI đã tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ năm 1991 đến năm 1998 trung bình hàng năm vốn
nước ngoài chiếm khoảng 28,7% tổng số vốn đầu tư xã hội; trong đó giai đoạn 19911995 tỷ lệ là 25,7%, từ năm 1996- 1998 gần 30%. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tổng
vốn FDI thực hiện là 14,3 tỉ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5
năm trước. Khu vực FDI là lực lượng quan trọng hỗ trợ cho các khu vực kinh tế tế khác
trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp lớn vào đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với
gần 20 năm hoạt động, nhưng FDI đã đóng góp một phần không nhỏ vào GDP theo
hướng tăng tích cực: Năm 1993: 3,6%; 1995: 6,3%; 1996: 7,9%; 1997: 9,07%; 1998:
10,12%; 1999: 12,3%; 2000: 13,3%; 2001: 13,5%; 2002: 13,91%; 2003: 14,47%; 2004:
14,8%; 2005: 15% và 2006: 15,8% [4]. Như vậy FDI đã đóng góp vào sự tăng trưởng
của GDP, vào nguồn ngân sách Nhà nước, đặc biệt có tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất
công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu. Sự đóng góp này đã tạo điều kiện để nền kinh tế
Việt Nam thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khẳng định vị trí, tầm quan trọng của FIE, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
khẳng định: “Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ
chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh quan trọng” [13, tr.87].
Đầu tư nước ngoài là nhân tố góp phần quan trọng vào quá trình hình thành một
lực lượng lao động mới ở Việt Nam. Những năm qua, theo số liệu thống kê, đầu tư nước
ngoài đã giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 860 nghìn lao động có việc làm và hàng
triệu lao động khác liên quan gián tiếp
Trong các DNCVĐTNN, quan hệ lao động, trước hết là quan hệ giữa người sử
dụng lao động - người chủ và người lao động được thực hiện thông qua hợp đồng lao
động giữa công nhân và chủ DN; cũng như hợp đồng lao động tập thể giữa đại diện chủ
sở hữu và đại diện người lao động thông qua thoả ước lao động. Một thực tế thường xảy
ra là: khi các DN mới bắt đầu đi vào hoạt động, hoặc khi gặp khó khăn về sản xuất –
kinh doanh, nhìn chung chủ DN thường muốn trả công cho người lao động thấp hơn so
với số mà họ đáng được hưởng; ngược lại người lao động muốn làm việc ít giờ hơn
nhưng được trả công cao hơn. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thông qua
thương lượng giữa chủ DN với đại diện của người lao động sẽ dẫn đến tình trạng đình
công, bãi công làm thiệt hại cho DN, cũng như người lao động.
Đầu tư nước ngoài ở nước ta đã thu hút hàng nghìn DN của các nước và vùng
lãnh thổ. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, đồng thời
cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hoá trong quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động trong các DNCVĐTNN.
Tất cả những vấn đề thuộc quan hệ giữa những người sử dụng lao động và người
lao động được ký kết theo hợp đồng lao động và thông qua thương lượng trên tinh thần
hoà giải, nhân nhượng lẫn nhau, tạo sự hiểu biết giữa các nền văn hoá, tập quán sinh
hoạt của các dân tộc, hướng đến tạo ra doanh lợi cao cho DN, đồng thời nâng dần thu
nhập của người lao động, cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt của họ
Đã có thời kỳ vấn đề bóc lột trong quan hệ lao động ở các DNCVĐTNN đặt ra như
là vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Trong thực tế có một số trường hợp chủ DN áp
dụng các phương thức thiếu văn minh như kéo dài thời gian lao động, không đảm bảo
an toàn lao động và điều kiện lao động tối thiểu, trả lương thấp hơn mức bình quân, kéo
dài thời gian học nghề của công nhân để DN có lợi nhuận cao hơn… cần được kiểm tra
và xử lý. Song, nhìn chung phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đã đối xử đúng luật
pháp Việt Nam đối với cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động, chú trọng
việc nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt
của công nhân viên chức trong DN.
Theo số liệu thống kê do Bộ lao động - Thương binh và xã hội công bố, chỉ có
gần 12% lực lượng nhân công Việt Nam được qua đào tạo (Bộ Lao động - Thương binh
và xã hội.- Số liệu điều tra Lao động việc làm năm 2004). Lực lượng nhân công không
có chuyên môn kỹ thuật dư thừa trong khi đó lại thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật.
Thị trường sức lao động Việt Nam vẫn nằm trong giai đoạn hình thành và phát triển
chưa cao. Sự chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so
với các nước. Việc yêu cầu các DN có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển dụng lao động
trong nước thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh hoạt của
thị trường sức lao động.
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về đội ngũ nhân công nhiều về số lượng nhưng
chất lượng vẫn thấp. Theo báo cáo của JETRO, tháng 6/2006, tiền lương bình quân
tháng theo USD của công nhân Việt Nam năm 2005: là 135 USD; kỹ sư: 302 USD; cán
bộ quản lý bậc trung là 685 USD; trong khi lương bình quân chung ở khu vực với công
nhân là: 205 USD; kỹ sư: 546 USD và cán bộ quản lý là: 1.129 USD.
Sự gia tăng của các DNCVDTNN, đã thu hút được một lực lượng lao động vào
làm việc ở khu vực này, nhờ đó mà làm tăng thu nhật cho người lao động và góp phần
quan trọng vào ổn định trật tự xã hội.
Trong thời gian qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, thì khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được một số lượng lao động ngày càng tăng. Nếu
năm 1990, lực lượng lao động Việt Nam ở khu vực này mới chỉ là 0,004% lực lượng lao
động trong cả nước, thì đến năm 2004 nó đã tăng lên 1,7%. Cụ thể, trong thời kỳ 1990 –
1995, đã thu hút 1.784 dự án, với số vốn dăng ký là 25.464 triệu USD và vốn pháp định
11.886 triệu USD. Trong 6 năm đó, lực lượng lao động thu hút làm việc trong khu vực
này gần 180 nghìn người, trong đó chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến
(78%), nhà hàng khách sạn (4%), vận tải kho tàng (3%) [44, tr.990]. Với sự phát triển
của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, lực lượng lao động thu hút vào làm việc
chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo, do đó mà tăng được thu nhập cho tầng
lớp dân cư nghèo, góp phần quan trọng vào tăng GDP và ổn định trật tự xã hội.
Biểu đồ 1.1: Sự tăng trưởng về lao động Việt Nam làm việc ở khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2000 – 2006
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
số người lao động (người)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
218000
353800
472000
688000
739000
800000
0
62.3
33.4
45.8
7.4
8.3
%tăng so với năm trước (%)
Nguồn: [5].
Từ biểu đồ trên cho thấy, thời kỳ 1996 – 2004, so với thời kỳ trước, khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có sự phát triển cao. Tính đến cuối năm 2004. cả nước
đã thu hút được 5.959 dự án, với số đăng ký là 47.380 triệu USD và vốn pháp định là
23.018 triệu USD, thu hút được 739 nghìn lao động trực tiếp và hơn một triệu lao động
gián tiếp ở các khâu, gia công, vận chuyển, đai lý. Đến năm 2005, khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trực tiếp hơn 800 nghìn lao động trực tiếp và gần 2
triệu lao động gián tiếp [21, tr.1].
Như vậy, trong thời gian qua đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy tốc độ phát
triển không đều, nhưng lực lượng lao động làm việc trong khu vực này qua các năm đều
tăng. DNCVĐTNN là nơi tạo việc làm cho rất nhiều lao động, phần lớn lao động thu
hút vào làm việc trong khu vực này là lao động chưa qua đào tạo và bộ phận không từ
khu vực nông nghiệp, nông thôn (có thu nhập thấp). Khi được tuyển dụng vào làm việc
- Xem thêm -