Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lỗi chính tả tiếng việt của học sinh dân tộc thái tại huyện điện biên đông, tỉnh...

Tài liệu Lỗi chính tả tiếng việt của học sinh dân tộc thái tại huyện điện biên đông, tỉnh điện biên

.PDF
114
170
62

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là một nét đẹp trƣờng tồn trong văn hóa của ngƣời Việt Nam, là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc văn hóa của ngƣời Việt Nam. Giữ gìn và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc và là trách nhiệm của mỗi ngƣời Việt Nam yêu nƣớc, yêu quý tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Đặng Thai Mai trong văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt”, NXB văn học Hà Nội, 1984 viết: “Tiếng Việt của những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hƣởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nƣớc nhà qua các thời kì lịch sử…” (1) Ngƣời Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tƣởng hơn nữa vào tƣơng lai của nó. Đặng Thai Mai đã khẳng định đƣợc vai trò, giá trị của tiếng Việt với những phẩm chất bền vững và giàu khả năng sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài trên nhiều phƣơng diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Điện Biên là một tỉnh thuộc miền núi phía Bắc kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do vậy ngƣời Thái vốn hiểu biết còn hạn chế, đặc biệt là nữ ít có điều kiện đi học và lấy chồng rất sớm. Hiện nay Điện Biên đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm, đời sống bà con có phần đƣợc nâng cao hơn nhu cầu đi học đƣợc đến trƣờng, đến lớp của các em ngƣời Thái ngày một tăng. Tuy nhiên năng lực nhận thức của học sinh dân tộc Thái về tiếng Việt còn hạn chế, dẫn đến việc khi viết văn các em còn mắc lỗi chính tả. 1 Trƣớc tình hình thực tế trên, tôi thực hiện đề tài “Lỗi chính tả tiếng Việt của học sinh dân tộc Thái tại huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên” nhằm đóng góp ít nhiều vào quá trình dạy và học tiếng Việt cho học sinh dân tộc Thái các trƣờng có con em ngƣời Thái học. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề nghiên cứu tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung và chính tả trong nhà trƣờng nói riêng từ lâu đã thu hút đƣợc sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Các công trình đã bàn về vấn đề này từ nhiều khía cạnh khác nhau. Việc biên soạn sách giáo khoa cho phân môn tiếng Việt cũng đƣợc đặc biệt chú ý cải thiện và nâng cao chất lƣợng. Hàng loạt sách tham khảo về tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy cho giáo viên và tài liệu hƣớng dẫn cho học sinh đã đƣợc xuất bản. Trong quá trình học tập, chính tả có vai trò quan trọng không chỉ với cá nhân mà còn đối với cả cộng đồng xã hội. Viết đúng chính tả, phát âm chuẩn chính tả và thực hành tốt kĩ năng tạo lập văn bản sẽ đem lại hiệu quả giao tiếp đồng thời thể hiện năng lực văn hóa của mỗi con ngƣời. Nhiều công trình điều tra, khảo sát về thực trạng sử dụng ngôn ngữ của học sinh phổ thông cũng đƣợc trình bày. Nhƣ Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi ngữ pháp cho học sinh (Nguyễn Minh Thuyết, Ngôn ngữ, số 3.1974). Hay của Phan Ngọc Chữa lỗi chính tả cho học sinh Hà Nội (NXB Giáo dục, Hà Nội năm 1984); Hồ Lê – Lê Trung Hoa Sửa lỗi ngữ pháp (NXB Giáo dục, Hà Nội năm 1990)... Những công trình này đã giúp cho giáo viên giảng dạy ở trƣờng phổ thông có đƣợc những công cụ làm việc hữu ích. Trong thời gian gần đây, vẫn có nhiều tác giả tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách khá toàn diện về lỗi sử dụng ngôn ngữ của học sinh trong nhà trƣờng và đã xuất bản các công trình của mình nhƣ: Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ 2 Việt Hùng, Lê Phƣơng Nga, Lê A, Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo, Phan Ngọc, Hoàng Phê, Lê Trung Hoa, Hoàng Ngọc Hiển ... Tóm lại, các công trình tiêu biểu mà chúng tôi vừa liệt kê ở trên đã phản ánh đƣợc tầm quan trọng của dạy học chính tả cũng nhƣ thực trạng và giải pháp dạy học chính tả theo vùng phƣơng ngữ và việc dạy học viết cho học sinh dân tộc. Tuy nhiên, các công trình trên đa phần còn mang tính định hƣớng chung cho dạy học chính tả tiếng Việt chứ chƣa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục cho địa bàn cụ thể là huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Chính vì vậy, tìm hiểu thực trạng lỗi chính tả của học sinh dân tộc Mông ở địa bàn này và đƣa ra một số giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục là vấn đề cấp thiết đối với ngƣời làm công tác trong ngành giáo dục nhƣ chúng tôi. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các lỗi chính tả tiếng Việt của học sinh tại ba trƣờng THCS trên địa bàn huyện Điện Biên Đông. Phạm vi khảo sát lỗi là các bài kiểm tra học kì môn Ngữ văn cũng nhƣ các bài nghe (đọc) – viết chính tả của học sinh từ khối lớp 6 đến khối lớp 9 tại các trƣờng: THCS Thị Trấn; THCS Na Son và THCS Luân Giói. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hƣớng tới việc xác định những đặc điểm lỗi chính tả của học sinh dân tộc Thái khi viết tiếng Việt. Trên cơ sở mục đích này, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa lí thuyết về chính tả tiếng Việt. - Khảo sát thực trạng lỗi chính tả của học sinh ba trƣờng THCS trên địa bàn huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. - Phân tích các nguyên nhân dẫn đến lỗi chính tả của học sinh dân tộc Thái. 3 - Đề xuất các giải pháp và tiến hành thực nghiệm khắc phục lỗi chính tả của học sinh dân tộc Thái. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp thống kê Tập hợp bài kiểm tra học kỳ I kết hợp với hoạt động nghe (đọc) - viết chính tả để khảo sát, phân tích, kết hợp với quan sát, phỏng vấn học sinh để thu thập thông tin về chính tả. Trên cơ sở tài liệu thu thập đƣợc tiến hành lập bảng các lỗi chính tả. 5.2. Phương pháp miêu tả Sau khi có đƣợc tƣ liệu nguyên cứu, chúng tôi áp dụng phƣơng pháp miêu tả để có cái nhìn khách quan về thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh. 5.3. Những thủ pháp nghiên cứu khác Ngoài hai phƣơng pháp nghiên cứu nói trên, để thực hiện luận văn, chúng tôi còn sử dụng thủ pháp nghiên cứu khác. Đó là các thủ pháp luận giải bên trong và luận giải bên ngoài nhƣ phân loại, tổng hợp tài liệu, miêu tả, đối lập, so sánh... các kiểu loại lỗi ở các trình độ khác nhau, chất lƣợng học tập khác nhau của các em học sinh. 6. Những đóng góp của Luận văn - Lần đầu tiên, lỗi chính tả của học sinh ba trƣờng huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên đƣợc thu thập, khảo sát, phân tích, miêu tả. - Lần đầu tiên, nguyên nhân các lỗi này đƣợc chỉ ra. - Từ đó, đề xuất ra giải pháp khắc phục lỗi chính tả của học sinh giúp các em nói và viết tốt hơn, hƣớng tới chuẩn chính tả chung. 7. Cấu trúc Luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn đƣợc triển khai thành 3 chƣơng: 4 Chương 1: Chính tả tiếng Việt và một số vấn đề liên quan đến luận văn Chương 2: Thực trạng và nguyên nhân lỗi chính tả của học sinh dân tộc Thái huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên Chương 3: Đề xuất cách chữa lỗi chính tả tiếng Việt cho học sinh dân tộc Thái huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên 5 Chương 1 CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 1. Vấn đề chính tả và chính tả tiếng Việt Để làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ của luận văn, ở đây chúng tôi sẽ trình bày những thu nhận của mình về chính tả và chính tả tiếng Việt. 1.1. Chính tả Theo “Từ điển tiếng Việt” chính tả là “cách viết chữ đƣợc coi là chuẩn” [Hoàng Phê, 1992, tr173]. Nhƣ vậy, theo nghĩa gốc của từ này, chính tả là phép viết đúng, là cách viết hợp với chuẩn và những quy định mang tính quy ƣớc xã hội, đƣợc mọi ngƣời trong một cộng đồng chấp nhận và tuân thủ. Do đó, chính tả trƣớc hết là sự quy định có tính chất xã hội bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối, nó không cho phép con ngƣời vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. 1.2. Một số nội dung của chính tả tiếng Việt 1.2.1. Chính âm - chính tả “Chính âm là khái niệm dùng để chỉ một mặt của vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ trên phương diện ngữ âm” [12, tr.98]. Nội dung của chính âm bao gồm nhiều vấn đề nhƣng cơ bản là những vấn đề: lấy ngữ âm của vùng phƣơng ngữ nào làm chuẩn, xác lập hình thức ngữ âm thống nhất cho một số hình vị và một số từ còn chƣa có sự thống nhất (Ví dụ: nề nếp hay nền nếp, cách mạng hay cách mệnh, tướng lĩnh hay tướng lãnh...). Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất toàn dân. Tiếng Việt nói chung và ngữ âm tiếng Việt nói riêng, vào thời điểm nào cũng vậy, luôn luôn ở trong quá trình chƣa thật ổn định nhìn từ góc độ chuẩn hóa. Chuẩn ngữ âm bao gồm chuẩn chính âm và chuẩn chính tả. Nhiều ý kiến cho rằng phải có chuẩn chính âm trƣớc rồi mới có chuẩn chính tả, đấy là 6 nguyên lí. Nhƣng, với tiếng Việt, chuẩn chính âm là sự phát âm, còn chuẩn chính tả đã hình thành và tƣơng đối ổn định trong một thời gian dài. Để góp phần cho ngôn ngữ có chính âm, chuẩn chính tả giữ vai trò quan trọng. 1.2.2. Chuẩn chính tả “Chính tả được hiểu là quy tắc viết từ (từ thường, từ hoa, từ vay mượn, từ viết tắt, số từ, con số ngày, giờ, tháng, năm, v.v. hay cách thức dùng dấu chấm câu (dấu: chấm, phẩy, than, hỏi, chấm hỏi, chấm lửng, hai chấm, ba chấm (chấm lửng); dấu ngoặc: đơn, kép, vuông; dấu gạch: ngang, dưới, chéo và cách thức ghi dấu thanh như thanh ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng. Chuẩn chính tả được hiểu là chuẩn áp dụng cho văn phong quy phạm, được dùng làm thước đo trong ngôn ngữ nhà trường, áp dụng chính thống trong ngôn ngữ truyền thống và ngôn ngữ của các văn bản quản lí nhà nước” [17, tr.109]. "Chuẩn chính tả bao gồm chuẩn viết các âm (phụ âm, nguyên âm, bán âm) và các thanh; chuẩn viết tên riêng (viết hoa); chuẩn viết phiên âm từ và thuật ngữ vay mượn" [29, tr.125]. Nhƣ vậy, có thể hiểu chuẩn chính tả là cách viết đúng, hợp với chuẩn và những quy tắc về cách viết chuyển từ dạng thức ngôn ngữ nói sang dạng thức ngôn ngữ viết. Đó là những quy định mang tính xã hội cao, đƣợc mọi ngƣời trong cộng đồng chấp nhận và mọi ngƣời đều phải tuân theo. Những cách viết chữ không đúng so với chuẩn đƣợc coi là sai chính tả. a) Quy tắc chữ cái ghi âm vị trong âm tiết Đó là xác định cách viết đúng cho các âm vị trong âm tiết. Trong tiếng Việt về chữ i/y, có quy tắc nhƣ sau: Khi đứng liền sau phụ âm đầu trong âm tiết mở, âm chính /i/ đƣợc viết là i, trừ trƣờng hợp đứng liền sau các phụ âm h, k, l, m, s, t hoặc trong các tên riêng có thể viết là i hay y tùy theo ý muốn chủ quan của ngƣời viết hay ngƣời đƣợc mang tên riêng đó (Ví dụ: Tiểu Yến Tử; Tống Mỹ Linh hay Tống Mĩ 7 Linh;...). Năm 1980, để đảm bảo thống nhất chính tả trong sách giáo khoa, Bộ Giáo dục đã phối hợp với Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam quy định các trƣờng hợp âm chính /i/ đứng liền sau phụ âm đều viết là i. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng đối với sách giáo khoa phổ thông. Trong các loại văn bản khác (văn bản quy phạm pháp luật, sách báo,...) mỗi ngƣời viết một khác. Do thẩm mĩ, có ngƣời thích viết y vì cho rằng y đẹp hơn. Có nghiên cứu cho rằng: /i/ viết là i đối với các từ thuần Việt: ỉ lại, ầm ĩ...; viết y đối với các từ gốc Hán (y tế, hội ý,...). Tuy nhiên, các từ Hán Việt nhƣ hi hữu, trí tuệ, thống trị, thi vị, hùng vĩ... âm /i/ thƣờng chỉ viết là i. b) Quy tắc ghi dấu thanh Trong tiếng Việt, các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, đƣợc đặt trên đầu chữ cái ghi âm chính, còn dấu nặng đặt dƣới chữ cái ghi âm chính. Căn cứ khoa học của quy định này là sự gắn bó giữa thanh điệu với phần vần, đặc biệt là với âm chính. Điều còn chƣa thống nhất là vị trí của dấu thanh trong trƣờng hợp âm chính là nguyên âm đôi, đƣợc ghi bằng hai chữ cái. Đối với các kí hiệu ia, ua, ưa tức là trƣờng hợp nguyên âm đôi đứng trong các âm tiết không có âm cuối (âm tiết mở) thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ nhất ghi âm chính. Ví dụ: bìa, lúa, lửa, hứa, đùa,... Đối với các kí hiệu iê, uô, ươ, tức là trƣờng hợp nguyên âm đôi đứng trong những âm tiết có âm cuối (âm tiết khép hoặc nửa khép) thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai ghi âm chính. Ví dụ: liền, hiểu, chuyền, nhuộm, vườn,... c) Quy tắc viết tên riêng * Quy tắc viết tên riêng Việt Nam: Trƣớc năm 60 của thế kỉ XX khá phức tạp. Chữ cái đầu của họ và tên ngƣời đƣợc viết hoa, còn tên đệm (nếu có) không viết hoa. Đối với họ kép hoặc tên kép thì bộ phận đƣợc nối với nhau bằng gạch nối và viết hoa chữ cái đầu tiên của tiếng đầu tiên. Ví dụ: An-đec-xen, Bà Huyện-Thanh quan,,... 8 Chữ cái đầu của tên địa lí đƣợc viết hoa, nếu tên gồm hai tiếng trở lên thì giữa các tiếng có gạch nối, ví dụ: Hà- bắc, Vũng- chùa... Từ những năm 60, ngƣời ta đã thống nhất viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, kể cả tên ngƣời lẫn tên địa lí, đồng thời bỏ gạch nối giữa các bộ phận ấy, trừ tên riêng là tiếng dân tộc thiểu số có các bộ phận cấu tạo gồm nhiều âm tiết. Ví dụ: Nguyễn Quang Sáng, Xinh-mun, Ê- đê, ... * Quy tắc viết tên riêng nước ngoài: Trên sách báo và các văn bản nói chung thƣờng có 4 cách viết tên riêng nƣớc ngoài: (1) Dịch nghĩa sang tiếng Việt và viết hoa theo quy tắc viết hoa tên riêng tiếng Việt. Ví dụ: Biển Nha Trang, Hồ Gươm, Hội Chữ Thập Đỏ, ... (2) Phiên âm qua âm Hán Việt. Ví dụ: Đỗ Phủ, Thâm Tâm,... (3) Phiên âm trực tiếp, theo cách phát âm của nguyên ngữ. Ví dụ: Víchto Hu-gô, Cô-lôm-bô, Pa-ri, Mát-xcơ-va, ... (4) Giữ nguyên dạng nếu nguyên ngữ sử dụng chữ La tinh hoặc chuyển tự nếu nguyên ngữ sử dụng hệ chữ khác. Ví dụ: Victor Hugo, UNICEP, ASEAN,... 1.2.3. Đặc điểm của chính tả tiếng Việt a. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm. Nghĩa là mỗi âm vị đƣợc ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết về cơ bản thống nhất với nhau. Đọc nhƣ thế nào sẽ viết nhƣ thế ấy. Từ việc xác định chính xác âm thanh của lời nói sẽ giúp viết đúng chính tả. Cơ chế của cách viết đúng là xác lập đƣợc mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết. Vì thế, khi viết chính tả tiếng Việt cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Nguyên tắc ngữ âm học. Tức là, cách viết của từ phải biểu hiện đúng ngữ âm của từ: phát âm thế nào thì viết thế ấy. Bởi vì tiếng Việt là chữ ghi âm vị nên nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ cách viết của mỗi từ thể hiện đúng âm cần đọc của từ. Nguyên tắc ngữ âm học chi phối 9 hầu hết cách viết các chữ trong bộ chữ tiếng Việt. Chẳng hạn: /b/ ghi là b, /t/ ghi là t, /d/ ghi là d, /m/ ghi là m... Quan hệ giữa âm và chữ về cơ bản là quan hệ 1 - 1. Để viết đúng chính tả, thì phải nắm đƣợc sự phân tích cấu trúc âm đoạn của âm tiết và thuộc bảng chữ cái theo trật tự của chúng. Nên khi dạy học sinh ngƣời dân tộc về tiếng Việt, việc dạy phát âm đúng ngữ âm chuẩn tiếng Việt là rất quan trọng. Nguyên tắc truyền thống. Có nghĩa là chính tả không thay đổi thói quen từ lâu đời. Trong chữ viết tiếng Việt có những cách viết chấp nhận quy định từ xa xƣa để lại nhƣ là cách viết các chữ c, k, q cho một âm đầu /k/. Âm đầu /k/ khi đứng trƣớc các chữ ghi nguyên âm /i, iê, e/ trong âm tiết thì viết là chữ k; nhƣng khi đứng trƣớc các chữ ghi nguyên âm /a, ă, o/...vv thì lại viết bằng con chữ c. Nguyên tắc truyền thống trong chính tả tiếng Việt khiến cho chữ viết không còn phản ánh ngữ âm đƣơng đại một cách trung thực, tiết kiệm, gây nhiều rắc rối cho việc học chữ, nhất là đối với trẻ em. b. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ nghĩa. Trong thực tế, muốn viết đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp ngƣời đọc viết đúng chính tả. Ví dụ: giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là “sinh” thì học sinh có thể lúng túng trong việc xác định hình thức của từ này. Nhƣng nếu đọc xinh đẹp hay sinh con thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Từ thực tế đó, chúng tôi nhận thấy chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây: (1). Chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối, đòi hỏi ngƣời viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – có lỗi. (2). Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối cho nên ít bị thay đổi nhƣ các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (nhƣ chuẩn ngữ âm, từ 10 vựng, ngữ pháp). Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tƣợng về một cái gì “bất di bất dịch”, một tâm lí ổn định mang tính bảo thủ, cố hữu. (3). Ngữ âm phát triển, nhƣng chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình. Do vậy, nếu không có quy định mang tính chất pháp lệnh kịp thời chính tả dần dần cũng có một sự biến động nhất định, điều đó đƣợc thể hiện ở chỗ, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ “xinh đẹp” bên cạnh “sinh đẹp”,… Với một tình trạng có nhiều cách viết nhƣ vậy đòi hỏi chữ viết của một ngôn ngữ phải tiến hành chuẩn hóa. 1.3. Lỗi chính tả 1.3.1. Khái niệm lỗi và lỗi chính tả 1.3.1.1. Khái niệm lỗi Do tính chất là luận văn Thạc sĩ, chúng tôi chỉ đƣa ra khái niệm “lỗi” để làm việc. Theo đó, chúng tôi sử dụng quan niệm chung về lỗi mà nhiều “Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng và dạy tiếng” đều sử dụng, cụ thể là: Lỗi mà người học (trong khi nói hoặc viết một ngôn ngữ, có thể là tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ thứ hai hay một ngoại ngữ) là tình trạng người học sử dụng một đơn vị ngôn ngữ (chẳng hạn viết một từ, cùng một đơn vị ngữ pháp, thực hiện một hoạt động nói năng v.v..) theo cách mà người bản ngữ hoặc người giỏi thứ tiếng đó cho là sai hoặc cho là chưa đầy đủ với chuẩn đã được cộng đồng nói thứ tiếng đó chấp nhận và tôn trọng. 1.3.1.2. Đôi nét về ngữ âm tiếng Việt và chữ viết a) Đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng đƣợc phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác. Vì vậy, việc nhận ra âm tiết trong tiếng Việt là dễ dàng hơn nhiều so với các ngôn ngữ Ấn Âu. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt đƣợc ghi thành một “chữ”. Âm tiết tiếng Việt có đặc điểm nhƣ sau: 11 Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ rõ ràng. Mỗi âm tiết ở dạng tối đa thƣờng gồm ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Phần vần tối đa lại bao gồm ba âm: âm đệm, âm chính và âm cuối. Còn tối thiểu, âm tiết tiếng Việt phải có âm đầu, âm chính và thanh điệu. Âm chính luôn luôn phải là một nguyên âm. Cấu tạo của âm tiết chia thành hai bậc nhƣ sau: Bậc 1: Âm đầu Bậc 2: Vần (bao gồm âm đệm, âm chính và âm cuối). Thanh điệu Vần Phụ âm đầu âm đệm âm cuối âm chính ÂM TIẾT I .................. II ................. Âm đầu Âm đệm Vần Thanh điệu Âm chính Âm cuối - Mỗi âm tiết luôn mang một thanh điệu nhất định (có sáu thanh điệu). Về mặt nghĩa, âm tiết tƣơng ứng với một hình vị, có thể dùng độc lập nhƣ một từ đơn, hoặc đƣợc dùng nhƣ một thành tố cấu tạo nên từ (hình vị). Trên chữ viết, cách xác định kí hiệu ghi âm tiết nhƣ sau: Âm Âm Vần tiết đầu âm đệm á Thanh điệu âm chính âm cuối ze ro ze ro a ze ro sắc ồn ze ro ze ro ô n huyền ta t ze ro a ze ro Ngang mƣa m ze ro ƣa ze ro Ngang tận t ze ro â n nặng 12 quyển q u yê n hỏi khuya kh u ya ze ro Ngang toán o a n sắc t Dấu thanh điệu ghi trên hoặc dƣới con chữ ghi âm chính. Trong trƣờng hợp âm chính là nguyên âm đôi, ngƣời ta thƣờng ghi thanh điệu lên trên hoặc dƣới con chữ thứ hai, ví dụ: liền, xuyến, chuyền. Âm tiết gồm các âm vị sau: (1). Âm vị âm đầu (phụ âm) Trong âm tiết tiếng Việt, âm đầu là âm đứng ở vị trí thứ nhất của âm tiết. Âm đầu đƣợc xác định trong các âm tiết sau: hỷ, minh, nhà, bàn, ghế... * Số lượng và phân loại âm vị âm đầu: Phần lớn các nhà nghiên cứu có quan điểm giống nhau về số lƣợng âm vị âm đầu là 22 âm vị. Có quan điểm cho rằng âm đầu gồm 23 âm khi thêm phụ âm /p/. Trƣờng hợp phụ âm /p/, có tác giả cho rằng, âm vị này chỉ xuất hiện trong các âm tiết là từ phiên âm (đèn pin) nên không thừa nhận là phụ âm đầu tiếng Việt. Tuy nhiên, có thể thấy sự xuất hiện của /p/ trong các từ địa danh, tên riêng (Pắc Bó, Pu Xi,...). Vì vậy /p/ cũng đƣợc coi là phụ âm đầu của tiếng Việt. Toàn bộ số lƣợng âm vị phụ âm đầu đƣợc trình bày trong bảng sau: Vị trí Phương thức Tắc Ồn Đầu lưỡi Mặt Gốc Thanh Bẹt quặt lưỡi lưỡi hầu Bật hơi t' Không Vô thanh t bật hơi Hữu thanh ʈ c k ɲ ŋ b d m n Vô thanh f s ş χ Hữu thanh v z ʐ γ Vang Xát Ồn Môi Vang l 13 H Để phân biệt phụ âm trong hệ thống phụ âm ngƣời ta phân biệt dựa vào ba tiêu chí: Thứ nhất, dựa vào phƣơng thức phát âm Thứ hai, dựa vào bộ phận cấu âm Thứ ba, dựa vào thanh tính, tức là độ rung động của dây thanh * Chữ viết của âm vị âm đầu (phụ âm) Các âm vị phụ âm đầu trong tiếng Việt có hình thức chữ viết nhƣ sau: Số TT Âm vị Chữ viết âm đầu Ví dụ 1 /b/ B bài, báo, bảo, ... 2 /m/ m mùa, mai, ... 3 /f/ ph phảng phất, phương pháp, ... 4 /v/ V vui vẻ, viết, vất vả, ... 5 /t`/ th thỉnh thoảng, thướt tha, ... 6 /t/ T tính, tình, tâm, ... 7 /d/ Đ đi, đâu, đấy, ... 8 /n/ N nóng, niềm nở, ... 9 /s/ X xấu, xinh, ... 10 /z/ d, gi, g (gì) dỗ dành, giữ gìn, ... 11 /l/ L líu lo, lung linh, ... 12 /ʈ/ tr tre, trăng, ... 13 /ş/ S sâu sắc, sẵn sàng, ... 14 /ʐ/ R rõ ràng, rác rưởi, ... 15 /c/ ch cho, chúng, chăm chỉ,... 16 /ɲ/ nh nhớ nhung, nhanh nhẹn, ... 17 /k/ k, c, q kể, cá, cờ, quyển, quanh, ... 14 18 /ŋ/ ng, ngh nghĩ, nghe, nghề, nghiệp, ... 19 /χ/ kh khi, khó khăn, ... 20 /γ/ g, gh ghi, ghế, gà, gỗ, ... 21 /a/ a, ă ăn, ốm, ai, ... 22 /h/ H hương, hoa huệ, hoa hồng, ... Trong 22 phụ âm đầu, những âm vị có nhiều hình thức chữ viết là những trƣờng hợp đáng chú ý: - Âm vị âm đầu đƣợc ghi bằng hai chữ cái là 9 /f, t`,ʈ , z, c, ɲ, ŋ, χ, γ /. - 3 âm vị / k, ŋ, γ/ có hai hình thức chữ viết, nhƣng không đƣợc sử dụng một cách tự do, mà phải sử dụng theo quy tắc ngữ âm. Âm vị âm đầu /k/ có lúc viết là “k”, có lúc viết là “c”, lúc khác lại viết là “q”. Hoặc nhƣ âm vị /γ/ tùy từng trƣờng hợp có thể ghi bằng hai cách là “g”, “gh”. Hoặc nhƣ âm vị /ŋ/ có lúc ghi “ng”, có lúc ghi “ngh”. Quy tắc kết hợp nhƣ sau: Âm vị Chữ viết k (kiến, kí...) /k/ Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε, εˇ, ie/ Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a, c (có, ca, cù...) ă, o, ɔ, ɔˇ, ɯɤ, uo / q (quả, quê, ...) khi đứng trƣớc bán âm /-w-/ gh (ghế, ghi...) Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε, εˇ, ie/ /γ/ Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a, g (gà, gánh, gù...) /ŋ/ Nguyên tắc kết hợp ă, o, ɔ, ɔ, ɯɤ, uo / ngh (nghĩ, nghe, Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε, nghề, nghiệp...) εˇ, ie/ 15 ng (ngành, ngủ...) Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a, ă, o, ɔ, ɔˇ, ɯɤ, uo / - Âm vị /z/ có ba hình thức chữ viết (d, gi, g), nhƣng không có một căn cứ ngữ âm nào cho sự khác biệt này về chữ viết. * Khả năng kết hợp của âm vị âm đầu: Kết hợp với tất cả các nguyên âm và âm đầu vần. Tuy nhiên, có một số trƣờng hợp cần lƣu ý nhƣ sau: Nhóm phụ âm môi /p, b, m, f, v/ không kết hợp với âm đầu vần (trƣờng hợp thùng phuy, khăn voan là hãn hữu). Nhóm phụ âm đầu lƣỡi /t`, t, d, n, ʈ, s, z, l, ş, ʐ/ có thể kết hợp với tất cả nguyên âm và âm đầu vần (riêng phụ âm /n/ và /ʐ/ kết hợp hạn chế với âm đầu vần (trƣờng hợp noãn bào, ruy băng là hãn hữu). Nhóm phụ âm mặt lƣỡi /c/ và /ɲ/ kết hợp đƣợc với tất cả các nguyên âm và âm đầu vần. Nhóm phụ âm cuối lƣỡi /k, ŋ, χ, γ/ có thể kết hợp với tất cả nguyên âm và âm đầu vần, trừ phụ âm /γ/ kết hợp hạn chế với âm đầu vần (chỉ có một trƣờng hợp: góa). Nhóm phụ âm thanh hầu /q/, và /h/: Kết hợp đƣợc với các nguyên âm và âm đầu vần. (2). Âm đầu vần (âm đệm) Trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt, âm đệm đứng ở vị trí thứ hai của âm tiết, vị trí thứ nhất của phần vần. Âm đệm còn gọi là âm nối, tiền chính âm. Không giống nhƣ phụ âm đầu, âm đệm có thể khuyết (zêrô). * Số lượng âm đầu vần: Trong tiếng Việt chỉ có một bán âm /-w-/ làm âm đệm. Âm vị này có đặc điểm gần giống nguyên âm /u/ (nguyên âm hàng sau, tròn môi, có độ há hẹp) nhƣng phát âm rất lƣớt. * Chữ viết của âm vị âm đầu vần: Âm đệm /-w-/ có hai hình thức thể hiện trên chữ viết là o và u. Viết o khi đứng trƣớc các nguyên âm có độ há rộng và hơi rộng /ε, a, ă/ (loan, ngoằn nghoèo, oách, choắt...). Viết u khi đứng trƣớc nguyên âm có độ 16 há hẹp và hơi hẹp /i, ε, ie/ và sau phụ âm /q/ (huệ, huy, quang, huyền...) * Khả năng kết hợp của âm đầu vần: Âm đệm /-w-/ không xuất hiện sau phụ âm môi /p, b, m, f, v/ và trƣớc nguyên âm tròn môi /u, o, ɔ, uo/ (ngoại lệ: thùng phuy, khăn voan, xe buýt); xuất hiện hạn chế sau các phụ âm /n, ʐ/ (noãn bào, ruy băng). (3). Âm chính (nguyên âm) Âm chính đứng ở vị trí thứ ba trong âm tiết, vị trí thứ hai trong phần vần. * Số lượng và phân loại âm vị âm chính Âm vị đảm nhiệm vị trí này là các nguyên âm đơn và nguyên âm đôi, bao gồm 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi. Cụ thể nhƣ sau: Nguyên âm đơn: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ/. Nguyên âm đôi: /ie, ɯɤ, uo / 9 nguyên âm dài 13 nguyên âm đơn 4 nguyên âm ngắn 3 nguyên âm đôi i ɯ u e ɤ o ε a ɔ εˇ ă ɔˇ ie ɯɤ uo ɤˇ Âm chính là âm hạt nhân của âm tiết, âm mang “đƣờng nét” cơ bản của thanh điệu. Âm chính có mặt trong tất cả các loại âm tiết, từ âm tiết gồm một yếu tố đến âm tiết gồm bốn yếu tố đoạn tính. Toàn bộ số lƣợng âm chính hệ thống nguyên âm tiếng Việt đƣợc trình bày trong bảng sau: Vị trí của lưỡi, Âm sắc hình dáng môi Độ mở của miệng 17 Sau Trước, không Không tròn môi tròn môi Tròn môi Cố định Nhỏ i ɯ u Lớn vừa e ɤ/ ɤˇ o ε/ εˇ a/ ă ɔ/ ɔˇ ie ɯɤ uo Lớn Không cố định Để phân biệt nguyên âm trong bảng hệ thống nguyên âm, ngƣời ta dựa vào 4 tiêu chí: - Chiều hƣớng của lƣỡi - Độ mở của miệng - Hình dáng của môi - Trƣờng độ của nguyên âm. * Sự thể hiện của âm vị âm chính bằng chữ viết Các âm vị nguyên âm làm âm chính trong tiếng Việt có các hình thức thể hiện trên chữ viết nhƣ sau: Số TT Âm vị Chữ viết 1 /i/ i, y (y tế) 2 /e/ Ê 3 /ε/ E 4 /εˇ/ a (anh, ach) 5 /ie/ iê, ia, yê, ya 6 /ɯ/ Ƣ 7 /ɤ/ Ơ 8 /ɤˇ/ Â 9 /a/ A 10 /ă/ ă, a (ay, au, ăn) 11 /ɯɤ/ ƣơ, ƣa 18 12 /u/ U 13 /o/ Ô 14 /ɔ/ o(on), oo(oong, ooc) 15 /ɔˇ/ o (ong oc) 16 /uo/ uô, ua Những trƣờng hợp mỗi âm vị có một hình thức chữ viết dễ nhận biết, dễ nhớ. Những trƣờng hợp âm vị có hai hay nhiều hơn hai hình thức chữ viết cần lƣu ý để tránh nhầm lẫn: Âm Chữ vị viết Nguyên tắc kết hợp - Khi không có âm đệm nhƣ: lía, kia, chia, tim, tin … - Trƣờng hợp viết i/y đều đúng trong trƣờng hợp có âm tiết i mở, khuyến khích học sinh viết i: châu Mĩ/ châu Mỹ, địa lí/ địa lý, bác sĩ/ bác sỹ,…). + Căn cứ vào nghĩa: tai + Trƣờng hợp âm tiết có độ cao bằng nhau: ỉ eo, ầm ĩ... /i/ - Trƣờng hợp âm tiết có một nguyên âm (y trong y tế) - Âm tiết có âm đệm (đứng sau âm đệm) nhƣ: tuy, thúy,… y - Đứng sau nguyên âm ngắn /a/ nhƣ (ây) - Đứng trƣớc ê khi chữ đó không có âm đầu nhƣ: yêu, yết, yếm - Căn cứ vào nghĩa: tay /ă/ /ie/ ă Trong các âm tiết ăn, chăn... a Các âm tiết có vần ay và au nhƣ tay, hay, cau, cháu... iê Khi âm tiết chỉ có phụ âm đầu, âm chính, âm cuối (tiền, tiêu...) ia Khi âm tiết không có âm cuối (chia, bịa, phía...) yê Khi có âm đệm và âm cuối (tuyến, khuyên...) hoặc khi mở đầu 19 âm tiết (yến, yên...) /ɯɤ/ /uo/ ya Khi âm tiết có âm đệm, không có âm cuối (khuya) ƣơ Khi âm tiết có âm cuối (mượn, tươi, nước, lượng, ...) ƣa Khi âm tiết không có âm cuối (mưa, tựa...) ua Khi âm tiết không có âm cuối (mua, búa...) uô Khi âm tiết có âm cuối (tuổi, muộn, suối...) * Khả năng kết hợp của âm vị âm chính - Khả năng kết hợp của nguyên âm với phụ âm cũng có tính quy luật: Các âm vị nguyên âm tiếng Việt đều có khả năng kết hợp với tất cả các âm vị phụ âm đầu, trừ nguyên âm đôi /uo/ không kết hợp với phụ âm /p/, /f/ và nguyên âm đôi /ie/ không kết hợp với phụ âm đầu /γ/. - Khả năng kết hợp của nguyên âm với âm đầu vần hạn chế hơn. Các nguyên âm tròn môi /u, o,ɔ,uo/ và các nguyên âm /ɔˇ, ɯɤ/ không kết hợp với âm đầu vần. Các nguyên âm còn lại đều có khả năng kết hợp với âm đầu vần (trƣờng hợp âm tiết có phụ âm đầu và âm đầu vần, ví dụ: hoa, huyền, uy, ...). (4). Âm vị âm cuối Âm vị âm cuối đứng ở vị trí cuối vần và cũng là vị trí cuối âm tiết. Đó là âm kết thúc âm tiết. Âm đảm nhiệm vị trí này là bán nguyên âm cuối hoặc phụ âm cuối. Vị trí của âm vị âm cuối có thể khuyết. * Số lượng âm vị âm cuối Âm vị âm cuối có 8 phụ âm (bốn phụ âm tắc vô thanh và bốn phụ âm mũi- hữu thanh), hai bán nguyên âm /-w/ và /-j/. Bán nguyên âm cuối /-w/ có cấu âm gần giống nguyên âm /u/ và bán nguyên âm cuối /-j/ có cấu âm gần giống nguyên âm /i/ (là nguyên âm hàng trƣớc, không tròn môi và độ mở hẹp) Các âm vị âm cuối tiếng Việt đƣợc trình bày trong bảng dƣới đây: Âm vị Cách phát âm Vị trí phát âm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng