ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đoàn Thị Hồng Lan
Lịch sự và gián tiếp trong tiếng Nhật qua hành
vi đề nghị và từ chối
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60.22.01
Nghd. : TS. Hoàng Anh Thi
1
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1
1.
Lý do chọn đề tài
1
2.
Lịch sử vấn đề
2
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
4.
Mục đích và nội dung của luận văn
4
5.
Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4
6.
Đóng góp của luận văn
4
7.
Bố cục của luận văn
5
Chương 1: Một số vấn đề cơ sở lý thuyết
6
1.1
Hội thoại và cấu trúc hội thoại
6
1.1.1.
Khái niệm hội thoại
6
1.1.2.
Các quy tắc hội thoại
6
1.1.3.
Cấu trúc hội thoại
8
1.1.3.1.
Đoạn thoại
8
1.1.3.2
Ngữ cảnh
9
1.1.3.3
Lượt lời
10
1.2.
Hành vi ngôn ngữ
10
1.3.
Tính gián tiếp trong thuyết lịch sự
11
1.3.1.
Định nghĩa lịch sự
11
1.3.2.
Các thuyết về lịch sự
12
1.3.3
Khái niệm hành vi ngôn ngữ gián tiếp
19
1.3.4.
Tính gián tiếp trong giao tiếp và gián tiếp tiếng Nhật
23
1.4.
Gián tiếp như một phương tiện lịch sự trong hành vi
27
đề nghị và từ chối
1.4.1.
Hành vi đề nghị và chiến lược lịch sự trong đề nghị
27
1.4.2.
Hành vi từ chối và chiến lược lịch sự trong từ chối
29
1.5.
Tiểu kết
31
Chương 2: Gián tiếp và lịch sự trong tiếng Nhật
33
2.1.
Quan niệm về lịch sự trong tiếng Nhật
33
2.2.
Gián tiếp - một cách thể hiện lịch sự trong tiếng
38
Nhật
2.3.
Những biểu hiện gián tiếp trong tiếng Nhật
41
2.3.1.
2.3.1. Những biểu hiện ngôn từ gián tiếp - một cách
42
thể hiện lịch sự trong tiếng Nhật
2.3.1.1.
Gián tiếp bằng biểu thức giảm nhẹ: -to omoimasu / -
43
to kangaeru/ -youni omou (~と思います/~と考える
/~ように思う)(Tôi nghĩ là/ Tôi nghĩ rằng hình như
là...)
2.3.1.2.
Gián tiếp bằng biểu thức phủ định: -janai (ka)/ -
44
dewanai/ -to iu kotowa nai (~ じゃないか/~ではない
/~ということはない) (chẳng phải, không phải là,
không có nghĩa là...)
2.3.1.3.
Gián tiếp bằng biểu thức: -te + động từ bổ trợ tiếp
45
nhận lợi ích (kureru/ kudasaru/ morau/ itaditadaku)
(~ てくれる/くださる/もらう/いただく)(cho tôi/
hộ tôi được không)
2.3.1.4.
Gián tiếp bằng các biểu thức thể hiện nghe nói,
truyền đạt: -rashi/ -youda/ -mitai/ -to iu koto desu.
( ~ らしい/~ようだ/~みたい/~ということです)
(Nghe nói, hình như)
46
2.3.1.5.
Gián tiếp bằng các biểu thức phán đoán: -
47
kamoshirenai/ tabun …deshou / -darouka/(~ かもし
れない/たぶん~ でしょう/~だろうか )(Có lẽ...)
2.3.1.6
2.3.1.6.
Gián
tiếp
bằng
biểu
thức:
-sasete
47
itadakui/morau /kureku/ (~ させていただく/もらう
/くれる)(cho phép tôi…)
2.3.1.7
Gián tiếp bằng biểu thức nguyện vọng: -te hoshii /-
48
V tai(~てほしい/V たい)(tôi muốn...)
2.3.1.8.
Gián tiếp bằng biểu thức: -te miru (~てみる)(làm
48
thử)
2.3.1.9.
Gián tiếp bằng biểu thức khuyên bảo: -hou ga ii(~
49
方がいい)(... thì tốt)
2.3.1.10. Gián tiếp bằng biểu thức nghi vấn phủ định: -
49
masenka (~ませんか)(có V không/ không V à)
2.3.1.11. Gián tiếp bằng động từ nguyện vọng:- negau (~願
49
う)(nhờ/ xin nhờ)
2.3.1.12. Gián tiếp bằng biểu thức điều kiện: -ba ii/ -te
50
moraeba ii (~ ばいい/てもらえばいい) (nếu ...thì
tốt/ nếu nhận được... /thì tốt)
2.3.1.13. Gián tiếp bằng biểu thức : -temo ii (desuka)(~ても
50
いい(ですか)
(... là được/ ...được không)
2.3.1.14. Gián tiếp bằng những từ ngập ngừng đứng ở đầu
50
câu: eeto, ano, un, soudesune…( ええと、あの、う
ん、そうですね.....) (à, ừ, ừm, cái này thì…)
2.3.1.15. Gián tiếp bằng hình thức im lặng
51
2.3.2.
Ngập ngừng cho đến im lặng - biểu hiện tối cao của
53
gián tiếp tiếng Nhật
2.3.2.1.
Ngừng ngừng, im lặng để nhường quyền phát ngôn
53
cho đối phương
2.3.2.2.
Ngập ngừng, im lặng để tránh đối đầu
57
2.3.2.3.
Ngập ngừng, im lặng là tự hạn chế mình nói ra điều
60
không vui cho đối phương
2.4.
Tiểu kết
62
Chương 3: Những biểu hiện gián tiếp trong đề
64
nghị và từ chối của tiếng Nhật
3.1.
Những biểu hiện gián tiếp trong đề nghị
64
3.1.1.
Dùng động từ bổ trợ tiếp nhận lợi ích: -te morau/ -te
64
itadaku/ -te kureru.(~てもらう/いただく/くれる)
3.1.2.
Dùng biểu thức: -sasete kuremasenka.(~させてくれ
67
ませんか)
3.1.3.
Dùng động từ nguyện vọng: -negau.(~願う)
68
3.1.4.
Sử dụng biểu thức điều kiện: - ba ii(~ばいい)
69
3.1.5.
Dùng cách nói ngập ngừng trong chuỗi lời nói
71
3.1.6.
Dùng biểu thức giảm nhẹ: -to omou.(~と 思う)
72
3.1.7.
Dùng biểu thức phủ định: -nai/ masenka(~ない/ま
73
せんか)
3.2.
Những biểu hiện gián tiếp trong từ chối
75
3.2.1.
Đưa ra lý do giải thích lòng vòng
76
3.2.2.
Trì hoãn trả lời hoặc trì hoãn đáp ứng đề nghị
77
3.2.3.
Lảng tránh trả lời
78
3.2.4.
Xin lỗi kết hợp với lý do
79
3.2.5.
Dùng ngập ngừng trong chuỗi lời nói.
80
3.2.6.
Dùng im lặng hoàn toàn.
81
3.2.7.
Dùng biểu thức giảm nhẹ: -to omou(~と思う)
82
3.3.
Đặc trưng của gián tiếp trong tiếng Nhật
85
3.3.1.
Thể hiện tính tương tác trong cộng đồng
86
3.3.2.
Tính tôn ti
91
3.3.
Tiểu kết
97
Kết luận
99
Tài liệu tham khảo
102
Nguồn tư liệu của luận văn
108
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sự “ Politeness” đã được N.Boston và J.S.Locke nhắc tới từ
những năm 1870. Nhưng một trăm năm sau, cho mãi tới những năm 70 thế
kỷ 20 này, vấn đề lịch sự mới được nâng lên thành một lý thuyết, và nó trở
thành mối quan tâm lớn của ngữ dụng học.Về những tác giả nổi tiếng nhất
trong lĩnh vực này phải kể đến R.Lakoff, S.Levinson và P.Grice.
Hiện nay, ngoài những tác giả Âu-Mỹ, còn có những công trình
nghiên cứu về vấn đề này đáng được nhắc đến của tác giả người Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Thành tựu nghiên cứu của họ trong lĩnh vực
này có ý nghĩa lớn lao trong nghiên cứu lý thuyết ngôn ngữ, trong việc dạy
và học ngoại ngữ.
Ở Việt Nam hiện nay, sự tiếp xúc với thế giới bằng ngôn ngữ trở nên
phổ biến và quan trọng hơn bao giờ hết. Lịch sự được nhiều người quan tâm
và nó có vị trí rõ nét trong giao tiếp. Nói đến lịch sự không phải chỉ nói đến
những lời ngọt ngào, những hành vi xã giao, khuôn phép. Lịch sự bao hàm
nhiều yếu tố và chuẩn mực trong nói năng ứng xử. Nhờ có lịch sự chúng ta
có thể đạt được điều chúng ta mong muốn một cách tốt nhất. Những yếu tố
và chuẩn mực này, một mặt mang những nét đặc trưng chung cho mọi dân
tộc trên thế giới, mặt khác mang sắc thái đặc trưng cho mỗi một cộng đồng.
Hiểu sai hoặc không hiểu những nét chung và riêng đó có thể đem lại cho
chúng ta những thất bại trong giao tiếp, có nghĩa là, không đạt được điều
mình mong muốn.
Trong các hành động ngôn ngữ, đề nghị và từ chối là một cặp hành vi
được coi là mang tính đe dọa thể diện cao, nhưng lại xuất hiện nhiều trong
giao tiếp. Từ chối là hành vi đi ngược lại với yêu cầu, nguyện vọng của đối
1
tác giao tiếp cho nên phải từ chối như thế nào để không làm tổn thương đối
tác mà vẫn đảm bảo duy trì quan hệ là hết sức quan trọng. Vậy người ta phải
làm sao để đề nghị và từ chối mà không gây mất thể diện cho đối tác. Điều
này có thể có được chính nhờ các phương thức và các chiến lược lịch sự.
Một trong những phương thức lịch sự hữu hiệu chính là gián tiếp, cho nên
nói tới lịch sự không thể không nói tới gián tiếp.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ khảo sát biểu
hiện gián tiếp như một phương thức lịch sự trong hành vi đề nghị và từ chối
bằng tiếng Nhật. Đề tài này nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần phát hiện
những khác biệt của lịch sự trong ngôn ngữ giao tiếp nói chung, vấn đề gián
tiếp nói riêng trong một đại diện của ngôn ngữ phương Đông là tiếng Nhật,
những vấn đề mà có thể là lý thuyết lịch sự chủ yếu dựa trên ngôn ngữ châu
Âu chưa bao quát hết. Đề tài này cũng có thể trở thành tư liệu để biên soạn
sách dạy tiếng Nhật cho người Việt, tư liệu tham khảo trực tiếp cho sinh
viên học tiếng Nhật.
2. Lịch sử vấn đề
Ngữ dụng học nói chung và hành vi ngôn ngữ nói riêng rất được quan
tâm chú ý trong những năm gần đây và các số lượng các công trình nghiên
cứu đang được phát triển mạnh. Đặc biệt, các nghiên cứu về lịch sự và gián
tiếp của hành vi cầu khiến và hành vi từ chối đã giành được nhiều sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam, gần đây có khá nhiều công trình
liên quan đến lịch sự trong hành động ngôn ngữ như công trình của Vũ Thị
Thanh Hương [17] , của tác giả Lê Anh Xuân có nhan đề “Một cách trả lời
gián tiếp cho câu hỏi chính danh - trả lời bằng im lặng” [36], của Trần Chi
Mai [23]. Ngoài ra, còn một số bài viết liên quan đến hành vi từ chối của
các tác giả khác đăng trên tạp chí Ngôn ngữ.
2
Về các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề lịch sự và gián
tiếp trong tiếng Nhật, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như của
M.Haugh [48], Matsumoto [50], Sanae Tsuda [52],... Ở Việt Nam, gần với
đề tài nghiên cứu của chúng tôi cũng có một số công trình như [16], [34]. Đó
là luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học của Nguyễn Thị Hằng Nga [16] với đề tài
“Tìm hiểu một số đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá ứng xử thể hiện trong hành
vi từ chối của tiếng Nhật (liên hệ với tiếng Việt)” . Như có thể thấy, đối
tượng khảo sát của chúng tôi khác với đối tượng khảo sát của Nguyễn Thị
Hằng Nga ở những điểm sau. Thứ nhất, chúng tôi khảo sát cả hành vi đề
nghị và từ chối chứ không phải chỉ hành vi từ chối. Thứ hai, chúng tôi chỉ
tập trung vào khảo sát phương thức lịch sự gián tiếp của tiếng Nhật. Khác
với Nguyễn Thị Hằng Nga, chúng tôi coi gián tiếp trong hành vi đề nghị và
từ chối bao gồm cả hiển ngôn và một số biểu hiện hàm ngôn như ngập
ngừng, gián đoạn trong chuỗi lời nói và im lặng hoàn toàn.
Một công trình khác cũng được chúng tôi tham khảo nhiều là bài viết
của Hoàng Anh Thi với nhan đề “Bàn về tính gián tiếp và lịch sự trong giao
tiếp tiếng Nhật” [34]. Phải nói rằng đây là công trình đầu tiên đề cập đến bản
chất của gián tiếp trong tiếng Nhật với tư cách là một phương tiện lịch sự.
Tác giả đã chỉ ra sự khác biệt mang tính bản chất của gián tiếp tiếng Nhật so
với quan niệm trong thuyết lịch sự của Brown và Levinson.
Tuy nhiên, công trình này đề cập đến gián tiếp nói chung, chứ không
tập trung vào vấn đề gián tiếp trong cặp hành động đề nghị-từ chối. Hơn nữa,
tác giả cũng không đưa ra danh sách các biểu hiện gián tiếp của tiếng Nhật,
một điều hữu ích cho nhiều người dạy và học tiếng Nhật. Và như vậy, có thể
nói cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề gián tiếp và
lịch sự trong hành vi đề nghị và từ chối của tiếng Nhật, cũng như so sánh nó
3
với tiếng Việt để làm rõ tương đồng và khác biệt văn hóa. Vấn đề còn bỏ
ngỏ này đã trở thành mục đích trong nghiên cứu này chúng tôi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các phát ngôn có chứa hành
động đề nghị và từ chối trong tiếng Nhật. Để nhận diện và phân tích các phát
ngôn này, chúng tôi không xem xét lời đề nghị và từ chối như là một phát
ngôn riêng lẻ mà đặt nó trong một khuôn khổ lớn hơn, đó là đoạn thoại. Từ
những đoạn thoại, ta sẽ thấy rõ hơn tính lịch sự và gián tiếp qua hành vi đề
nghị và từ chối trong tiếng Nhật.
4. Mục đích và nội dung của luận văn
Mục đích của luận văn là phân tích tính lịch sự và gián tiếp qua hành
vi đề nghị và từ chối trong tiếng Nhật duới góc độ dụng học – văn hoá
(cultural pragmatics). Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào giải
quyết ba nội dung cơ bản như sau:
a. Gián tiếp và lịch sự trong đề nghị và từ chối của tiếng Nhật
b. Gián tiếp - một cách thể hiện lịch sự trong tiếng Nhật
c. Tính xã hội - bản chất của gián tiếp trong tiếng Nhật
5. Nhiệm vụ và Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu những nghiên cứu có liên quan về lịch sự trong hành động ngôn
ngữ.
- Khảo sát phương thức đề nghị và từ chối của tiếng Nhật trong một số tác
phẩm văn học của Nhật Bản trong giai đoạn cuối thế kỷ XX (có so sánh với
tiếng Việt)
- Phát hiện và miêu tả phương thức gián tiếp trong đề nghị và từ chối của
người Nhật qua các tác phẩm văn học đó.
- Để thực hiện các nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng các phương pháp so sánh
đối chiếu, phương pháp thống kê.
4
6. Đóng góp của luận văn
Trong những năm gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã
phát triển không ngừng. Số lượng người Việt Nam học tiếng Nhật cũng như
số lượng người Nhật học tiêng Việt đã tăng lên đáng kể. Trong khi đó những
nghiên cứu về tiếng Nhật nói chung và lịch sự trong tiếng Nhật nói riêng vẫn
còn rất khiêm tốn. Vì vậy, nghiên cứu những biểu hiện ngôn ngữ của tính
lịch sự cũng như áp lực văn hoá đối với lịch sự tiếng Nhật, góp phần phát
hiện những điểm tương đồng và khác biệt về ngôn ngữ cũng như văn hoá
của hai ngôn ngữ đã trở nên cần thiết. Kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể áp dụng để giảng dạy lý thuyết và dạy tiếng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ sở của lý thuyết.
Chương II: Gián tiếp và lịch sự trong tiếng Nhật.
Chương III: Những biểu hiện gián tiếp trong đề nghị và từ chối tiếng Nhật
(so sánh với tiếng Việt).
5
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Hội thoại và cấu trúc hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
“Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người.”
(V.I.Lênin). Giao tiếp bằng ngôn ngữ có nhiều hình thức như là giao tiếp
một chiều (còn gọi là độc thoại). Giao tiếp hai chiều hoặc nhiều hơn (còn gọi
là hội thoại). Trong xã hội loài người, giao tiếp hai chiều là cơ bản và phổ
biến nhất, gồm một người nói, một người người nghe và có sự phản hồi trở
lại. Trong cuộc thoại, khi có sự phản hồi thì vai trò của người tham gia cuộc
thoại cũng thay đổi. Bên nghe trở thành bên nói và bên nói trở thành bên
nghe mà G.Yule gọi là tương tác. Và như vậy, hội thoại là sự nỗ lực hợp tác
giữa các bên tham thoại.
Theo Đỗ Hữu Châu [4, tr.15], các cuộc thoại có thể khác nhau ở nhiều
khía cạnh như thời gian, không gian, nơi chốn, số lượng người tham gia,
cương vị tư cách người tham gia, về tính chất cuộc thoại, vị thế giao tiếp, về
tính có đích hay không có đích, tính hình thức hay không hình thức... Những
yếu tố này không tách rời nhau mà liên kết với nhau tạo thành một khối
thống nhất hữu quan trong hội thoại, chi phối và điều hoà cuộc thoại để đạt
đến cái đích cuối cùng của mỗi bên giao tiếp theo những quy tắc nhất định.
1.1.2. Các quy tắc hội thoại
Hội thoại diễn ra theo quy tắc nhất định. Bàn về quy tắc hội thoại,
Orecchioni đã chia quy tắc hội thoại thành ba nhóm:
-Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời.
-Cácquy tắc chi phối cấu trúc hội thoại.
-Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
6
Luân phiên lượt lời là nguyên tắc của sự tương tác qua lại trong hội
thoại. Trong cuộc thoại, từng người nói một và không nói đồng thời. Người
nói luân phiên nhau, đó là lượt lời mà theo G.Yule [37, tr.136], lượt lời hoạt
động theo một hệ thống điều hành cục bộ, được hiểu theo lối quy ước giữa
thành viên trong một nhóm xã hội.
Về quy tắc chi phối hội thoại, theo Nguyễn Đức Dân (1998) [9, tr.
103] những phát ngôn trong một lượt lời là những hành vi hội thoại. Sự liên
kết giữa hai lượt lời là sự liên kết giữa hành vi dẫn nhập và hành vi hồi đáp.
Rất nhiều loại phát ngôn trong hội thoại đòi hỏi phải có sự hồi đáp riêng biệt
như hành vi chào yêu cầu có một lời chào đáp lại, hành vi đề nghị cần có
phản hồi hoặc chấp nhận hoặc từ chối, hành vi hỏi cần có câu trả lời... Một
hành vi ngôn ngữ xuất hiện có thể được chấp nhận hoặc từ chối. Tất nhiên,
người tham thoại cũng có thể lờ đi mà không có một biểu đạt ngôn ngữ nào.
Nhưng dù tuân theo hành vi dẫn nhập, từ chối hay lờ đi, người tham thoại
vẫn phải có chiến lược giao tiếp và phương tiện biểu đạt trong hành vi hồi
đáp của mình.
Quan hệ cá nhân giữa những người tham thoại cũng có tầm quan
trọng đặc biệt trong tương tác hội thoại. Đó là những nhân tố sẵn có trong
cuộc tương tác nhưng chúng nằm ngoài tương tác. Chúng liên quan tới quan
hệ thân – sơ, quan hệ vị thế xã hội, tuổi tác quyền lực... và được thể hiện
khác nhau ở cộng đồng người. Theo Nguyễn Đức Dân (1998) [9, tr.122],
quan hệ cá nhân được xem xét dưới các góc độ:
- Quan hệ ngang (quan hệ thân – sơ)
- Quan hệ dọc (quan hệ vị thế)
a. Quan hệ ngang:
Quan hệ ngang chỉ rõ mối quan hệ gần gũi, thân cận hay xa cách giữa
những người tham gia giao tiếp. Mối quan hệ này có thể thay đổi và điều
7
chỉnh trong quá trình hội thoại, từ sơ đến thân hoặc ngược lại. Hình thức có
thể đối xứng, hoặc phi đối xứng. Có nhiều dấu hiệu thể hiện quan hệ ngang
như bằng lời nói, cử chỉ điệu bộ hoặc dấu hiệu bằng lời. Người nói có nhiều
công cụ để lựa chọn khi muốn thể hiên quan hệ hàng ngang này.
b. Quan hệ dọc
Quan hệ dọc là quan hệ tôn ti trong xã hội, tạo thành các vị thế trên
dưới trong giao tiếp. Quan hệ này được đánh dấu bằng yếu tố quyền lực.
Quan hệ này có tính chất tương đối và phụ thuộc vào những yếu tố khách
quan như cương vị xã hội, giới tính, tuổi tác... Những yếu tố khách quan này
tạo các vị thế khác nhau tuỳ theo quan niệm truyền thống văn hoá của mỗi
cộng đồng người. Có nhiều dấu hiệu thể hiện quan hệ vị thế như bằng lời,
bằng cử chỉ hoặc điệu bộ... Hầu như mọi yếu tố trong hội thoại đều thể hiện
quan hệ vị thế. Những dấu hiệu bằng lời giống như ở quan hệ ngang, hệ
thống xưng hô, hệ thống đại từ, các hành vi ngôn ngữ, hành vi hội thoại...
đều thể hiện quan hệ vị thế, và điều này được thể hiện khác nhau ở từng
cộng đồng ngôn ngữ - văn hoá. Do vậy, người tham gia giao tiếp cần hiểu và
nắm bắt được những quan niệm về vị thế giữa các dân tộc, giữa các nền văn
hoá để có những hành vi ứng xử đúng đắn.
1.1.3. Cấu trúc hội thoại
1.1.3.1. Đoạn thoại
Hội thoại có những tổ chức nhất định mà đoạn thoại là một trong các
yếu tố của nó. Theo Đỗ Hữu Châu (2001) [4, tr.209], đoạn thoại là mảng
diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa
hoặc về ngữ dụng. Trong đoạn thoại, những người tham gia hội thoại nói về
một chủ đề duy nhất. Việc phân định đoạn thoại không dễ dàng bởi những
danh giới mơ hồ, đôi khi phải dựa vào trực cảm và võ đoán. Có thể ít nhiều
định hình đoạn thoại qua cấu trúc: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại, đoạn
8
thoại kết thúc. Đoạn thân thoại liên quan tới hình vi đề nghị và hành vi từ
chối là cặp trao – đáp có chứa phát ngôn đề nghị tiền vị và phát ngôn từ
chối. Ví dụ:
- Đây này, hộ tịch của con chuyển rồi. Ngày đi, chính con nhờ
người cắt, con nhớ không.
- Dạ, con nhớ. Nhưng trong khi làm thủ tục giấy tờ...
- Trong khi chờ thủ tục, giấy tờ con cứ đi đâu đó sau này nhà máy
người ta có trách nhiệm.
- Cậu định không cho con ở nhà?
- Trong nhà này chỉ có những người đăng ký mới được ở.
- Cậu cho con mượn hộ khẩu con đi đăng ký tạm trú.
- Trong đời cậu, chưa có một lần nào đưa hộ khẩu cho người khác
mượn.
- Cậu ơi, con chỉ xin cậu một lần này.
- Lần nào đối với cậu cũng thế. Đời cậu chưa bao giờ nói lần thứ
hai để thay đổi những ý định của mình.
( 17, tr.120)
Chủ đề duy nhất của cuộc thoại là việc hỏi mượn sổ hộ khẩu và thái
độ từ chối của người cha.
1.1.3.2. Ngữ cảnh
Hội thoại bao giờ cũng xảy ra trong một ngữ cảnh nhất định. Các nhân
tố tham gia vào hoạt động giao tiếp được gọi chung là ngữ cảnh. Cách thức
đề nghị và từ chối trong hội thoại được xuất hiện trong những ngữ cảnh
được xác định. Ngữ cảnh bao gồm các tình huống ngôn ngữ và ngữ cảnh tự
nhiên xung quanh, đoạn thoại trước và sau đó, các quy tắc ứng xử, các khía
cạnh liên quan như quan hệ thân – sơ, địa điểm, thời gian nơi diễn ra cuộc
thoại, nội dung của cuộc thoại có chứa hành vi đề nghị và từ chối có liên
9
quan... Tất cả những yếu tố được gọi là ngữ cảnh ấy cùng tham dự vào cuộc
thoại, quy định cách thức tiến hành cuộc thoại.
1.1.3.3. Lượt lời
Đây là sự tương tác qua lại trong hội thoại. Trong cuộc thoại người
nói sẽ luân phiên nhau. Vai người nói sẽ thường xuyên thay đổi, và lượt lời
thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ hai. Hai lượt lời có quan
hệ chặt chẽ, liên kết mật thiết tạo thành cặp thoại. Lượt lời có chứa các hành
vi, trong đó có hành vi đề nghị và hành vi từ chối. Các lượt lời trong cuộc
thoại phải bảo đảm tính thống nhất nội dung phục vụ cho sự phát triển vấn
đề, hướng tới đích của cuộc thoại là điều kiện cho cuộc thoại thành công.
Trong ví dụ nêu trên, hai nhân vật tham thoại liên kết chặt chẽ và lượt lời với
nội dung thống nhất: hỏi – trả lời, đề nghị - từ chối, nhờ vả - khước từ...
1.2. Hành vi ngôn ngữ
Việc nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp của
loài người đã được các nhà ngôn ngữ học bắt đầu chú ý từ nhiều thập kỷ
trước. Trong đó có J.L.Austin, một nhà triết học người Anh ở trường đại học
Harvard (Mỹ) đã trình bày 12 chuyên đề. Năm 1962 , những chuyên đề này
đã được tập hợp lại xuất bản thành sách có nhan đề “How to do things with
word”. Có nhiều cách dịch như là “Hành động như thế nào bằng lời nói” hay
“Nói tức là hành động”. Đồng thời cũng xuất hiện một số thuật ngữ khác
nhau như: hành động lời nói, hành động ngôn từ, hành động ngôn ngữ...
Trong luận văn này, chúng tôi dùng thuật ngữ : “Hành động ngôn ngữ”.
Austin đã đưa ra tiêu chí phân biệt sự khác nhau trong cùng một hành
vi ngôn ngữ, hành vi ở lời, hành vi tạo lời và hành vi mượn lời. Austin đã
điều chỉnh một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói mà trước
đây F.D.Saussure đã phân biệt:
10
Hành vi ở lời (illocutionary act) là những hành động người nói thực
hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc về
ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với
chúng ở người nhận. Hành vi tạo lời (locutionnary act) là hành vi sử dụng
các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu... để tạo
ra được một phát ngôn về hình thức nội dung. Hành vi mượn lời
(perlocutionary act) là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ để gây ra
một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc chính
người nói. [4, tr.88-89]
1.3. Tính gián tiếp trong thuyết lịch sự
1.3.1. Định nghĩa lịch sự
Theo J.Thomas, phép lịch sự được xem như là một (hay một loạt
chiến lược) được người nói dùng để hoàn thành một số mục đích như thiết
lập hoặc duy trì những quan hệ hài hoà. (Dẫn lại của Đỗ Hữu Châu [4,
tr.257])
Theo Lakoff thì lịch sự như là một phương thức để giảm thiểu sự
xung đột trong diễn ngôn. Những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc biệt là
làm cho cuộc tương tác được thuận lợi. (Dẫn lại của Đỗ Hữu Châu [4,
tr.258])
Theo Leech phép lịch sự có các chức năng như giữ gìn sự cân bằng xã
hội và quan hệ bạn bè, những quan hệ này khiến chúng ta có tin rằng người
đối thoại với chúng ta tỏ ra trước hết là cộng tác với chúng ta. (Dẫn lại của
Đỗ Hữu Châu [4, tr.261])
Theo C.K Orecchioni, phép lịch sự liên quan đến tất cả các phương
diện của diễn ngôn. Tức là:
1. Bị chi phối bởi các quy tắc.
2. Xuất hiện trong địa hạt quan hệ liên cá nhân.
11
3. Có chức năng giữ gìn tính chất hài hoà quan hệ đó.
Lịch sự cũng bao gồm cả không lịch sự như G.M.Green thì viết: “Những
người tham gia hội thoại có thể chọn cách cư xử sự lịch sự, tránh cục cằn thô
lỗ. Họ có thể chọn cách cư sử tuỳ thích không đếm xỉa đến tình cảm và
nguyện vọng của người khác. Họ còn có thể dựa vào những hiểu biết của
mình về quy tắc lịch sự để tỏ ra cục cằn thô lỗ một cách cố ý.” (Dẫn lại của
Đỗ Hữu Châu [4, tr.264])
Brown và Levinson đưa ra định nghĩa về lịch sự dựa trên khái niệm
thể diện (face), đó là “hình ảnh -về -ta cộng đồng mà mỗi thành viên muốn
mình có được”. Thể diện gồm thể diện âm tính và thể diện dương tính. (Dẫn
lại của Đỗ Hữu Châu [4, tr.263])
Vậy , lịch sự theo cách hiểu của chúng tôi đó là cách sử dụng hành
động ngôn ngữ sao cho giữ được mối quan hệ hài hoà, giảm thiểu được sự
xung đột trong các cuộc thoại.
1.3.2. Các thuyết về lịch sự
R.Lakoff nêu lên ba loại quy tắc lịch sự. Đó là quy tắc không được áp
đặt, quy tắc dành cho người đối thoại lựa chọn, quy tắc khuyến khích tình
cảm bạn bè. (Dẫn lại của Đỗ Hữu Châu [4, tr.257])
Quy tắc không được áp đặt thích hợp với những ngữ cảnh trong đó
giữa những người tham gia tương tác có những khác biệt được nhận biết về
quyền lực và cương vị như giữa sinh viên và chủ nhiệm khoa, giữa công
nhân và ông phó giám đốc nhà máy phụ trách tổ chức. Áp đặt đối với người
nghe (H) có nghĩa là làm cho H không thể hành động theo H muốn. Không
áp đặt có nghĩa là không ngăn cản H hành động theo ý muốn của mình.
Người nói (S) lịch sự theo quy tắc này sẽ tránh, làm dịu bớt, hoặc xin phép,
xin lỗi H khi buộc người đối thoại H phải làm điều mà H không muốn làm,
12
tránh cả những hành động khiến H xao lãng điều H đang làm hay đang nghĩ
tới khi S nói với H
Quy tắc dành cho người đối thoại sự lựa chọn thích hợp với những
ngữ cảnh trong đó người tham gia có quyền lực và cương vị gần tương
đương với nhau nhưng không gần gũi về quan hệ xã hội, thí dụ giữa thương
nhân và khách hàng mới, giữa hai người không quen biết nhau trong phòng
bệnh. Dành cho sự lựa chọn có nghĩa là bày tỏ ý kiến sao cho ý kiến hay lời
thỉnh cầu của mình có thể không được biết đến mà không bị bác bỏ hay từ
chối. Nói chung, nếu S muốn thuyết phục người nghe theo môt quan điểm
hay về một công việc nào đó thì S sẽ nói sao cho H không buộc phải nhận ra
ý định của S. Những điều S khẳng định hay thỉnh cầu đều rào đón hoặc nói
theo lối hàm ẩn. (Theo Đỗ Hữu Châu [4, tr.258])
Quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè thích hợp với bạn bè gần gũi
hoặc thực sự thân mật với nhau. Theo quy tắc này thì “Đã là bạn bè với nhau
thì không có gì phải giấu giếm nhau nữa cả”. Nói chung, trong phép lịch sự
này, người ta không phải “uốn lưỡi”. Nguyên tắc chi phối ở đây không phải
là chỉ dừng ở chỗ tỏ ra quan tâm thực sự lẫn nhau mà còn tỏ ra săn sóc nhau,
tin cậy nhau bằng cách “thổ lộ hết tâm can với nahu”, bộc lộ hết mọi chi tiết
của cuộc sống, kinh nghiệm, cảm xúc…của mõi người đối với nhau. Những
người đối thoại theo phép lịch sự này thường dùng các từ xưng hô thân
thuộc, kể cả các biệt danh, những lời chửi thề.
Khác với quy tắc lịch sự của Lakoff, quy tắc lịch sự của Leech dựa
trên hai khái niệm tổn thất (cost) và lợi ích (benefit), một siêu nguyên tắc
(như nguyên tắc cộng tác), các phương châm và tiểu phương châm. Siêu
nguyên tắc lịch sự của Leech bao gồm sáu phương châm lịch sự lớn và một
số phương châm phụ khác. (Dẫn lại của Đỗ Hữu Châu [4, tr.261]). Các
phương châm cụ thể đó là:
13
(1) Phương châm khéo léo
a. Giảm thiểu tổn thất cho người (other)
b. Tăng tối đa lợi ích cho người
(2) Phương châm rộng rãi
a. Giảm thiểu lợi ích cho ta (self)
b. Tăng tối đa tổn thất cho ta
(3) Phương châm tán thưởng
a. Giảm thiểu sự chê bai đối với người
b. Tăng tối đa khen gợi người
(4) Phương châm khiêm tốn
a. Giảm thiểu khen ngợi ta
b. Tăng tối đa sự chê bai ta
(5) Phương châm tán đồng
a. Giảm thiểu sự bất đồng giữa người và ta
b. Tăng tối đa sự đồng ý giữa người và ta
(6) Phương châm thiện cảm
a. Giảm thiểu ác cảm giữa người và ta
b. Tăng tối đa thiện cảm giữa người và ta
Theo Leech, những phương châm trên có tính chuyên dụng đối với
những hành vi ở lời nhất định. Mức độ lịch sự của một hành vi ở lời theo
Leech phụ thuộc vào ba nhân tố. Thứ nhất là phụ thuộc vào bản chất của
hành vi đó. Thứ hai là phụ thuộc vào hình thức ngôn từ thể hiện hành vi đó.
Thứ ba là tuỳ theo mức độ quan hệ giữa người cầu khiến và người được cầu
khiến. (Dẫn lại của Đỗ Hữu Châu [4, tr.262])
Brown và Levinson xây dựng lý thuyết lịch sự trên khái niệm thể diện.
Thể diện được Brown và Levinson định nghĩa là: “hình ảnh- về -ta công
14
- Xem thêm -