Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lịch sử kênh đào nam bộ thời nhà nguyễn từ thế kỷ xviii đến giữa thế kỷ xix...

Tài liệu Lịch sử kênh đào nam bộ thời nhà nguyễn từ thế kỷ xviii đến giữa thế kỷ xix

.PDF
69
2273
61

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Đức Hảnh Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nam Bộ, vùng lãnh thổ trẻ nhất của lịch sử nước ta. Từ cuối thế kỷ XVII vùng đất này chính thức được xác lập chủ quyền ở khu vực Đồng Nai – Gia Định. Sang thế kỷ XVIII ,các thế hệ người Việt nối tiếp nhau khai phá mở rộng lãnh thổ dưới vai trò tổ chức bảo hộ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vùng đất châu thổ trong buổi bình minh của công cuộc khai phá của người Việt hầu như vô chủ. Người Khơme đã có mặt ở đây từ trước khi người Việt đến nhưng họ sống rải rác và ít ỏi ở khu vực Prey kono (Sài Gòn) và ở vùng đất giồng với những phum sóc cô lập thuộc tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh …ngày nay. Cuối thế kỷ XVII có thêm nhóm người Hoa đến khai phá ở Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho và ở Châu Đốc do Mạc Cửu đứng đầu. Như vậy, di dân người Việt từ vùng Ngũ Quảng vào đây là lực lượng đông đảo nhất đã cùng với các dân tộc khác như Hoa, Khơme, … cùng nhau khai phá vùng đất Nam Bộ . Trong suốt quá trình đó các dân tộc hầu như không có xung đột chỉ có hợp tác để chinh phục vùng đất hoang nhàn này. Đến giữa thế kỷ XVIII, chính thức là năm 1757 toàn bộ vùng đất Nam Bộ đã trở thành lãnh thổ Việt nam được chính quyền chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu) sắp đặt thành các đơn vị hành chính cụ thể. Về đặc điểm địa lý, Nam Bộ là khu vực có mật độ sông rạch dày đặc do hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long tạo thành. Đặc biệt là sông Cửu Long ở miền Tây Nam Bộ, khi chảy vào lãnh thổ Việt Nam theo hai nhánh lớn là sông Tiền, sông Hậu đã tạo ra hệ thống phụ lưu gồm chín cửa lớn đổ ra biển. Hầu hết các sông ngòi tự nhiên ở Nam Bộ đều chảy theo hướng Đông – Tây. Chính những đặc điểm cơ bản về tự nhiên này đã chi phối ít nhiều đến phương thức khai phá của người Việt ở đây. Đó là khai hoang mở đất để sản xuất nông nghiệp và khai thác nguồn lợi thuỷ sản. Những địa điểm đặt chân khai phá đầu tiên là dọc theo các dòng sông để từ đó hình thành các trung tâm kinh tế như Cù Lao Phố, Bến Nghé – Sài Gòn ở miền Đông, Mỹ Tho, Sa Đéc hoặc xa hơn nữa là Mang Khảm (Hà Tiên) thuộc Miền Tây Nam Bộ. Khi đã tận dụng được điều kiện thuận lợi của các dòng chảy tự nhiên trong buổi đầu khai phá và để tiếp tục tiến trình mở đất sâu vào nội địa, người ta đã thực hiện công việc đào kênh. Vì chỉ có thể mở rộng khai khẩn đất hoang ở địa bàn sông nước sình lầy bằng việc đào kênh nhằm dẫn thuỷ nhập điền, thaó chua rửa mặn và tạo ra dòng thuỷ đạo phục vụ nhu cầu đi lại, giao thương. Mặt khác, lịch sử đã ghi nhận trong quá trình khai phá, phát triển vùng đất này đã xảy ra nhiều xung đột, tranh chấp giữa Việt Nam với Chân Lạp hoặc giữa Việt Nam với Xiêm La. Với mục đích bảo vệ người dân khai phá, bảo vệ an ninh lãnh thổ, nhà Nguyễn đã nhiều lần phải động binh. Trong những lần xung đột ấy, thuỷ quân đóng vai trò quan trọng nhất. . Để tiếp ứng kịp thời cho các khu vực ở miền sông nước này, vua tôi nhà Nguyễn đã sớm hình thành ý tưởng và thực hiện đào những con kênh chiến lược như kênh Bảo Định,kênh Thọai Hà, kênh Vĩnh Tế … Như vậy, lịch sử khai phá và phát triển vùng đất Nam Bộ không những gắn liền với quá trình di dân lập ấp, phát triển kinh tế, xây dựng bộ máy cai quản… mà quá trình này còn gắn liền với việc đào kênh mở đất đẩy mạnh khai phá, tạo ra những con đường thuỷ nối liền giữa các khu vực phục vụ cho mục đích quân sự và cũng là phục vụ giao thương hành hóa… Một khi xung đột xảy ra quân đội nhà Nguyễn có thể hành quân nhanh chóng trên kênh đào để tiếp ứng kịp thời cho những vùng biên ải xa xôi. Từ thực tế đó, vấn đề tìm hiểu nghiên cứu hệ thống kênh đào Nam Bộ trong thời kỳ đầu của lịch sử khai phá thật sự là một điều cần thiết Những con kênh được ghi chép trong sử sách đều do nhà nước phong kiến tổ chức đào có số lượng ít và cũng dễ dàng khảo cứu. Nhưng còn hệ thống kênh do người dân tự tổ chức đào trên khắp các vùng đất ở Nam Bộ không lưu lại trong sử sách cho đến ngày nay chúng vẫn tồn tại gắn với tên người, một vùng đất… và truyển khẩu trong dân gian ? Tất cả những con kênh đó vẫn tồn tại và phát huy tác dụng cùng dòng chảy của thời gian và dòng chảy của lịch sử ở vùng đất Nam Bộ. Vì vậy, vai trò của kênh đào ở Nam Bộ trong thời kỳ nhà Nguyễn có ý nghĩa quan trọng, không thể coi là khiêm nhường và chưa được chú ý đến nhiều trong nghiên cứu khoa học. Việc tìm hiểu lịch sử kênh đào Nam Bộ là góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lịch sử khai phá phát triền vùng đất này. Không những thế kênh đào Nam Bộ còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sáng tạo trong lao động sản xuất, ý chí dân tộc trong mở mang bờ cõi, là minh chứng của lịch sử khai phá và chủ quyền dân tộc Việt Nam ở vùng đất này đối với thế giới. Đây chính là ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tài liệu thành văn có sớm nhất đề cập đến lịch sử kênh đào Nam Bộ là sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và các bộ sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí . Trước hết là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Sách này viết dưới thời Gia Long, hoàn thành vào năm 1820 và dâng lên vua ngự năm Minh Mệnh thứ nhất 1820 [10, tr9]. Từ 1820 đến nay Gia Định thành thông chí đã được tái bản nhiều lần,lần tái bản gần đây nhất là năm 1998 của nhà xuất bản Giáo dục nhân dịp kỷ niệm 300 năm lịch sử vùng đất Nam Bộ. Gia Định thành thông chí là bộ sách địa lý đầu tiên ghi chép về núi sông, con người, phong tục tập quán,… thuộc vùng đất Nam Bộ. Ở quyển II, mục Sơn xuyên chí (chép về sông, núi) có nội dung dài nhất, tác giả đã mô tả hầu hết các sông núi ở Nam Bộ. Có sáu kênh đào đã được Trịnh Hoài Đức nói đến ở những mức độ mô tả khác nhau. Trong đó kênh Vĩnh Tế được ghi nhận nhiều nhất. Sáu kênh đào trong sách Gia Định thành thông chí là : Kênh Ruột ngựa, kênh An Thông, kênh Bảo Định, kênh Rạch Chanh, kênh Vĩnh tế, và kênh Thoại Hà. Mô tả của Trịnh Hoải Đức về các kênh đào này cung cấp các thông tin về thời gian đào, lý do đào, người chỉ huy, lực lượng dân phu, diện tích đào (dài, rộng, sâu) và hiệu quả của các con kênh đối với lịch sử xã hội thời bấy giờ. Đây là những cứ liệu đầu tiên và cơ bản nhất về lịch sử các kênh đào Nam Bộ để sau này các bộ sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí “ dựa vào bộ sách này để soạn” [10, tr7] khi nói về sông núi Nam Bộ. Đại Nam thực lục của quốc sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học tái bản lần thứ nhất – NXB Giáo dục 2001) là bộ sử đồ sộ nhất của triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm (1821 – 1909). Sau Gia Định thành thông chí, Đại Nam thực lục là sách kế tiếp ghi chép về kênh đào Nam Bộ. Có bảy kênh đào ở Nam Bộ được nói tới trong bộ sách này. Ngoài sáu kênh đã được sách Gia Định thành thông chí mô tả trước đó, còn có kênh Tà Cú (Lợi Tế Hà) đào năm 1829 và kênh Long An Hà đào năm 1843 đã được đề cập đến. Bổ sung cho nội dung đã phản ánh về kênh đào trong sách Gia Định thành thông chí, bộ sử Đại Nam thực lục ghi chép cụ thể hơn về thời gian đào, các chỉ dụ của vua, tấu trình của quan lại địa phương về đào kênh… Đặc biệt là kênh Vĩnh Tế, trong sáu tập đồ sộ của Đại Nam thực lục đều có nói đến kênh này. Theo thống kê của chúng tôi có ít nhất 23 lần sách này phản ánh về kênh Vĩnh tế. Các sự kiện dày đặc nói về kênh Vĩnh tế tập trung vào các năm từ 1819 đến 1824 là thời gian đào kênh. Từ sau 1824 đến 1846 Đại Nam thực lục còn tiếp tục ghi chép thêm về việc đặt trạm dịch, thành lập bộ máy chính quyền dọc theo kênh và chiến sự giữa quân đội nhà Nguyễn với quân Chân Lạp, Xiêm La diễn ra ở khu vực kênh này. Có thể nói, bộ sử Đại Nam thực lục đã cung cấp những sử liệu gốc với nhiều nội dung phong phú của lịch sử kênh đào. Bộ sách đương thời thứ ba viết về kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí biên soạn đời Tự Đức. Theo bản dịch của viện sử học Việt Nam,Đại Nam nhất thống chí có năm tập,trong đó tập V gồm sáu quyển viết về địa chí của sáu tỉnh Nam Kỳ . Mục ghi chép về sông núi có phản ảnh về các kênh đào nhưng nội dung lại rất ngắn gọn, hầu như chỉ trích dẫn lại thông tin từ sách Gia Định thành thông chí hoặc của Đại Nam thực lục. Tuy nhiên, Đại Nam nhất thống chí cũng cung cấp những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu kênh đào như tên gọi các địa danh, các con sông, ngay cả một số kênh đào thời Tự Đức đã có thay đổi hoặc liệt kê các nhà trạm, chợ quán, cầu đò, thổ sản… Từ đó giúp người đọc hinh dung một bức tranh tổng thể về địa bàn sông nước, kênh rạch Nam Bộ thời bấy giờ. Có thể nói ba bộ sách nêu trên là những tư liệu gốc phản ảnh về lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn, đáp ứng cơ bản nội dung nguyên cứu của đề tài. Một số sách xuất bản ở giai đoạn sau có nội dung liên quan đến chủ đề kênh đào như: Lịch sử khẩn hoang Miền Nam của Sơn Nam; Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ Huỳnh Lứa chủ biên; Thủy nông ở đồng bằng sông Cửu Long của Lê Sâm, Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khai phá miền Hậu Giang của Nguyễn Văn Hầu...đã bổ sung thêm tư liệu để nghiên cứu. Sơn Nam trong Lịch sử khẩn hoang Miền Nam đã mô tả về việc đào kênh Bảo Định, kênh Ruột Ngựa, kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà và kênh Long An Hà. Tuy nhiên ông không xây dựng một chủ đề riêng về kênh đào thời nhà Nguyễn như kênh đào thời Pháp thuộc mà ông đã viết trong sách. Điểm mới trong cuốn sách khảo cứu này là tác giả đã nêu thống kê về số làng mạc được thành lập dọc theo kênh Vĩnh Tế và việc huy động tổ chức quản lý dân phu, dụng cụ lao động ...khi đào kênh Long An Hà. Ông cũng nêu quan điểm của mình là việc đào kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà là xuất phát tử mục đích quân sự của nhà Nguyễn. Cũng như Sơn Nam, các tác giả trong sách Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ - do Huỳnh Lứa chủ biên cũng đề cập đến việc đào kênh Ruột Ngựa, kênh An Thông, kênh Vũng Gù (Bảo Định), kênh Vĩnh Tế và Thoại Hà. Nội dung phản ánh về kênh đào trong sách này ít và và không có gì mới. vì đây không phải là chủ đề nghiên cứu của tác giả. Tuy nhiên, việc đưa kênh đào vào hoàn cảnh cụ thể của khu vực khai phá trong một khoảng thời gian không gian nhất định của các tác giả đã cho ta một cách tiếp cận mới rộng hơn khi nghiên cứu lịch sử kênh đào. Tác giả Nguyễn Văn Hầu khi khảo cứu về tiểu sử Thoại Ngọc Hầu đã giành riêng hai chương để nói về vai trò, công lao của vị công thần nhà Nguyễn này đối với công việc đào kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế. Xoay quanh chủ đề vai trò của Thoại Ngọc Hầu, tác giả đã đề cập đến những công việc chi tiết của đào kênh cũng như kỹ thuật cắm mốc, kỹ thuật đào ở nơi núi đồ có đá cứng, nhất là tình cảnh lao động đầy khó khăn nguy hiểm của quân dân khi tham gia đào kênh. Ngoài ra ông còn nêu những thông tin khảo cứu về bia Thoại Sơn, bia Vĩnh Tế Hà, bài Tế nghĩa trủng văn. Cũng như Sơn Nam, Nguyễn Văn Hầu đã nêu lên nhận định của mình về vai trò của kênh Vĩnh Tế và Thoại Hà gắn với lịch sử phát triển vùng đất miền tây sông Hậu. Ngoài các tài liệu nêu trên, kênh đào Nam bộ còn ít nhiều được đề cập đến trong các công trình chuyên khảo đăng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Xưa và Nay. Đáng chú ý là các bài viết: " Thân thế sự nghiệp Nguyễn Văn Thoại" của Lê Duy Anh, " Ai ban tên Vĩnh Tế Hà?" của Nguyễn Thiếu Dũng, “Sức sống cư dân Đồng bằng sông Cửu Long" của Sơn Nam, "Lịch sử kênh rạch Sài Gòn" của Lê Công Lý. “Quan hệ kinh tế của triều Nguyễn với Chân Lạp hồi nửa đầu thế kỷ XIX của Lâm Minh Châu ...Đây là những bài chuyên khảo có nội dung ngắn. Các sự kiện về kênh đào được các tác giả trích dẫn từ Gia Định thành thông chí hoặc Đại Nam thực lục để minh chứng làm sáng tỏ cho một vấn đề có liên quan đến kênh đào như: Nguyễn Thiếu Dũng xác định tên Vĩnh Tế Hà có từ khi nào? Lê Duy Anh đánh giá Nguyễn Văn Thoại có công lớn trong việc tổ chức đào kênh, trong đó có sáng kiến cắm mốc để đào cho thẳng đường kênh trong điều kiện kỹ thuật còn đơn giản thời bấy giờ. Lê Công Lý tập hợp nhiều tư liệu về kênh rạch Sài Gòn và lịch sử phát triển của chúng từ cội nguồn đến nay. Còn Lâm Minh Châu, chuyên khảo của ông đã khái lược mối quan hệ kinh tế của triều Nguyễn với Chân Lạp nửa đầu thế kỷ XIX thông qua vai trò của kênh đào Nam Bộ là con đường giao thương quan trọng trong mối quan hệ này. Qua những tài liệu trên, chúng tôi có thêm tư liệu tham khảo về chủ đề nghiên cứu, về quan điểm đánh giá lịch sử kênh đào Nam Bộ của các học giả ngày nay. Bên trên là các tài liệu có liên quan đến lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn. Những tư liệu gốc từ những bộ sử sách của triều Nguyễn ghi chép cùng thời hoặc sau hơn vài thập niên so với thời gian đào kênh “ Được người đương thời và đời sau đánh giá cao và tin cậy vào sử liệu của nó” [10. tr.10]. Các sách ở giai đoạn sau này, có thể thấy đó không phải là các tài liệu chuyên khảo về kênh đào Nam Bộ. Các tác giả chỉ nói đến kênh đào như là một sự kiện bên cạnh nhiều sự kiện khác mà thôi, có tài liệu khảo cứu khá chi tiết về một vấn đề có liên quan đến kênh đào, có tài liệu chỉ nói đến một cách sơ lược. Song, tất cả đều có ích đối với người nghiên cứu. Ngoài ra, trong quá trình nghiê cứu đề tài người viết còn tiếp cận đến những thông tin trên mạng Internet như ảnh chụp từ vệ tinh về địa hình Nam Bộ nơi có những kênh đào. Sau cùng là một số tư liệu điền dã được thu thập bằng hình ảnh bổ sung cho nội dung đề tài . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khi nghiên cứu về một vấn đề lịch sử, việc xác định rõ đối tượng nghiên cứu và không gian, thời gian xảy ra các sự kiện là điều cần thiết. Có như vậy, người nghiên cứu mới đi đúng vào trọng tâm vấn đề và tránh được sự lan man dàn trải. Trong đề tài này, người viết xác định đối tượng nghiên cứu là các kênh đào ở Nam Bộ thời nhà Nguyễn và vai trò của kênh đào đối với công cuộc khai phá, phát triển vùng đất Nam Bộ. Một điểm cần lưu ý đó là các kênh đào nghiên cứu trong đề tài này là kênh đào đã được ghi chép mô tả trong sử sách. Tư liệu thành văn viết về chúng nằm rải rác trong các loại sách mà chúng tôi đã nêu ra trong phần lịch sử nghiên cứu vấn đề. Chưa có một sách chuyên đề nào nghiên cứu riêng về lịch sử kênh đào Nam bộ. Đối với khái niệm kênh đào về mặt ngữ nghĩa, kênh đào hay sông đào đều có nghĩa như nhau. Vì vậy, trong các tài liệu khảo cứu có tác giả viết là kênh, kênh đào, người khác viết là sông đào. Thậm chí trong một cuốn sách lúc viết là kênh đào, chỗ khác lại chỉ gọi là sông như những con sông tự nhiên khác. Nhưng trong một nội dung mô tả về con sông ấy thì chính là sông đào. Hai là, tên của đề tài chúng tôi thống nhất gọi là Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn để nói chung cho cả thời các chúa Nguyễn (1558 - 1801) và các vua Nguyễn từ 1802 trở đi khi Gia Long đã thống nhất đất nước chính thức lập ra triều đại phong kiến nhà Nguyễn ở Việt Nam. Tuy vậy, chương hai của luận văn chúng tôi vẫn tách riêng để nghiên cứu cụ thể về lịch sử kênh đào thời các chúa Nguyễn và thời các vua Nguyễn. Bởi vì, khi trực tiếp nghiên cứu về kênh đào cần đặt chúng vào không gian, thời gian một cách cụ thể và chính xác; Mặt khác, phân biệt ra hai thời kỳ cũng là để tìm ra những điểm giống nhau, khác nhau, tính kế thừa của kinh nghiệm đào kênh...Đây là những đòi hỏi mang tính nguyên tắc của phương pháp nghiên cứu lịch sử Về không gian nghiên cứu là vùng đất Nam Bộ bao gồm Miền Đông và Miền Tây Nam Bộ ngày nay. Thời nhà Nguyễn, Nam Bộ có những tên gọi theo thời gian lịch sử khác nhau như Gia Định Trấn, Gia Định thành, Nam kỳ lục tỉnh... Về thời gian, các sự kiện nghiên cứu về kênh đào chỉ giới hạn trong khoảng từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. Đối với chủ đề thì thời gian này chỉ là một giai đoạn của lịch sử kênh đào Nam Bộ nói chung. Qua khảo cứu các tài liệu, chúng tối thấy rằng kênh đào sớm nhất ở Nam Bộ là kênh Bảo Định đào năm 1705 sau đó là một số kênh đào ở thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII. Sang nửa đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn xác lập, các kênh tiếp tục được đào ờ thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị. Kênh cuối cùng được nghiên cứu trong đề tài này là Long An Hà đào năm 1843 dưới thời vua Thiệu Trị. Cũng cần nói thêm, kênh đào ở Nam Bộ vẫn còn được thực hiện ở nửa sau thế kỷ XIX dưới thời Pháp thuộc và những thời kỳ sau nhưng không nằm trong giới hạn của thời gian nghiên cứu của đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài “Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, tôi sử dụng chủ yếu hai phương pháp chính của ngành học là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Các sự kiện phản ánh về kênh đào Nam Bộ được tra cứu, tái hiện theo trình tự thời gian và gắn liền với bối cảnh lịch sử khu vực có liên quan đến quá trình hình thành của nó. Trên cơ sở đó, rút ra những đặc điểm chung của kênh đào Nam Bộ như phương thức đào, hướng dòng chảy, vai trò tổ chức và quản lí của nhà nước phong kiến… đồng thời cũng nêu lên những nhận định của mình về vai trò của kênh đào đối với lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ như phục vụ cho các mục đích quân sự, kinh tế, văn hoá … Ngoài hai phương pháp trên, tôi còn ít nhiều sử dụng phương pháp điền dã khảo sát thực địa để trực tiếp quan sát ghi nhận những thông tin của kênh đào đang nghiên cứu trong thời điểm hiện nay. Từ phương pháp này, tôi có thể đối chứng kiểm định với những sự kiện về kênh đào trong giới hạn thời gian nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, qua quá trình điền dã đã ghi nhận được những hình ảnh hiện tại sống động về kinh tế - xã hội do những kênh đào vẫn đang tiếp tục phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội. 5. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (4 trang), mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 73 trang và chia thành ba chương như sau : Chương 1 : Tổng quan về điều kiện tự nhiên và quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ thời nhà Nguyễn (15 trang). Chương 2 : Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. (44 trang). Chương 3: Vai trò của kênh đào trong quá trình khai phá và phát triển vùng đất Nam Bộ thời nhà Nguyễn (14 trang) Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT NAM BỘ THỜI NHÀ NGUYỄN 1.1. Đặc điểm về địa lý tự nhiên, sông ngòi ở Nam Bộ Đặc điểm cơ bản về địa hình ở Nam Bộ là vùng núi và đồng bằng. Vùng núi, đất hơi cao tập trung ở miền Đông Nam Bộ và một vài ngọn núi thấp ở phía tây của đồng bằng thuộc các tỉnh An Giang, Kiên Giang ngày nay. Vùng đồng bằng Nam Bộ chiếm phần lớn diện tích đất đai, được hình thành do phù sa mới của sông Cửu Long và sông Đồng Nai bồi đắp với diện tích 39 950 km2 trên tổng diện tích 67 870 km2 của toàn Nam Bộ [23, tr.19]. Ở vùng núi, đất xám phù sa cổ chiếm diện tích quan trọng. Đây là loại đất có nhiều cát nên ít giữ nước. Ngoài ra còn có một số khu vực đất đỏ ba dan,do thành phần cấu tạo có nhiều sét nên giữ nước tốt. Bao phủ bề mặt vùng đất này là thảm thực vật có phong cảnh chung là xanh tươi về mùa mưa và khô cằn về mùa nắng. Vào thời kỳ khai phá của người Việt ở những thế kỷ XVII, XVIII nơi đây chủ yếu là rừng nguyên sinh đồng thời là địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số bản địa từ lâu đời. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long đất phù sa mới tạo thành. Phần lớn là diện tích đất phù sa lắng đọng trong môi trường nước ngọt, có độ màu mỡ cao, thích hợp cho canh tác trồng lúa và nhiều lọai cây khác [19, tr.20]. Bên cạnh đó, một diện tích khá lớn là đất phèn tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười, khu tứ giác Long Xuyên và vùng trung tâm bán đảo Cà Mau. Nơi đây,cỏ, lau, đưng, lác bao phủ cùng rừng tràm và những chằm phá mênh mông trong mùa nước nổi. Cảnh quan thiên nhiên nơi đây được mô tả cuối thế kỷ XIII trong Chân Lạp phong thổ ký của Châu Đạt Quan đưa chúng ta trở về với khung cảnh thiên nhiên nguyên sơ chưa hề được khai phá. Vì vậy khi lưu dân người Việt lần lượt đến vùng châu thổ này đều có chung ấn tượng sâu đậm đây là vùng đất mới không chỉ với con người mới đến mà mới với cả cảnh tượng thiên nhiên hoang sơ. Khí hậu Nam Bộ mang đặc tính chầt nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm vào khoảng 26 – 270C. Hai mùa mưa và mùa khô được phân biệt rõ rệt : Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch, lượng mưa trong mùa này chiếm gần 90% lượng mưa cả năm. Khoảng giữa mùa mưa nước sông Cửu Long từ đầu nguồn đổ về tràn ngập một vùng rộng lớn trên đồng bằng người ta còn gọi là mùa nước nổi, mùa sinh sôi nảy nở của các lòai cá tôm. Cảnh quan sông nước và cuộc sống con người ở đây cũng biến đổi cùng mùa nước này. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 là mùa thiếu nước, tương phản rõ rệt với mùa mưa. Mùa khô không thuận lợi cho canh tác nông nghiệp nhất là trồng cây ngắn ngày. Do thiếu nước nên đồng ruộng khô nẻ, mực nước sông lại hạ thấp, nếu không có những kênh đào dẫn thuỷ nhập điền thì nông dân không thể canh tác được. Sông ngòi ở Nam Bộ chủ yếu do hệ thống sông Cửu Long và sông Đồng Nai tạo thành. Quan trọng nhất là sông Cửu Long. Đây là một trong những con sông dài của thế giới và lớn nhất ở Đông Dương. Phần hạ lưu của sông Cửu Long chảy vào địa phận miền tây Nam Bộ dài khoảng 250 km theo hai nhánh lớn là sông Tiền và sông Hậu. Sông Tiền chảy men theo Đồng Tháp Mười, qua Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh. Từ Vĩnh Long trở đi sông chia thành nhiều nhánh phân toả trên một vùng rộng và chảy ra biển bằng sáu cửa : cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu. Con đường giao thương thời xa xưa để đi sâu vào nội địa theo sông Cửu Long là người ta đi vào từ cửa Tiểu. Châu Đạt Quan đến Chân Lạp hồi thế kỷ XIII, người Việt theo đường biển từ miền Trung vào rồi Dương Ngạn Địch…. Khi vào khai phá vùng Mỹ Tho – Long Hồ cũng đều phải nhập địa từ những cửa sông, nhất là từ cửa Tiểu. Sông Hậu là nhánh thứ hai của sông Cửu Long khi chảy vào Nam Bộ. Sông Hậu chảy qua Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ Sóc Trăng và ra biển bằng ba cửa : cửa An Định, cửa Bát Xác và cửa Tranh Đề. Đó là những nhánh lớn của sông Cửu Long chảy trong nội địa Nam bộ và đổ ra Biển Đông. Tuy nhiên sông Cửu Long còn rất nhiều phụ lưu, theo Vũ Tự Lập trong Địa lý tự nhiên Việt Nam có tới 286 phụ lưu [22, tr.20]. Nối sông Tiền với sông Hậu là sông Vàm Nao nằm ở gần biên giới Việt Nam – Cămpuchia, tuy ngắn nhưng sông này rất quan trọng trong thời khai phá. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí có nói đến sông này : “ Cửa trên ở về phía nam sông Tiền Giang, rộng 8 tầm, sâu 2 tầm, chảy về phia nam 75 dặm rưỡi đến cửa dưới hợp với sông Hậu Giang” [10, tr.57]. Đây là thuỷ đạo quan trọng nối mạch giao thông giữa hai nhánh sông lớn Cửu Long . Thuỷ quân nhà Nguyễn đã nhiều lần hành quân qua đây đề từ đó đi qua các kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế kịp ứng cứu cho Rạch Giá, Hà Tiên khi có chiến sự. Hệ thống sông Đồng Nai gồm sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Sông Đồng Nai là con sông quan trọng thứ nhì ở Nam Bộ dài khỏang 580km, do các nhánh sông Đa Dung, La Ngà, sông Bé hợp lưu từ vùng cao nguyên chảy xuống. Sông Đồng Nai gặp sông Sài Gòn ở Nhà Bè và từ đây thông ra biển bằng nhiều nhánh: Sông Đồng Tranh, sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp, sông Ngã Bảy. Sông Đồng Nai thời khai phá có tên là sông Phước Long. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí có đoạn miêu tả như sau: “…Sông rộng nước sâu, ngon ngọt trong vắt, là sông có tiếng nhất ở Gia Định. Gội đầu nấu trà tuy nước ở Kim Sơn Trung Lãnh, Ba Lăng, Bạch Hạc cũng không thể hơn được. Đọan cuối hợp với sông Tân Bình, thành sông Phước Bình chảy xuôi vào biển Cần Giờ” [10, tr.23 ]. Các sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai tạo thành mạng lưới giao thông đường thuỷ quan trọng ở khu vực miền Đông Nam Bộ kể từ buổi bình minh của công cuộc khai phá của người Việt cho đến bây giờ. Các vua đầu thời Nguyễn còn cho rằng Nam Bộ là đất hưng khởi để từ đây nhà Nguyễn khôi phục lại sự nghiệp. Đặc biệt là quan niệm về sông Phước Bình, khi chảy qua thành Gia Định gọi là sông Bến Nghé, vua quan nhà Nguyễn cho là con sông linh thiêng mỗi lần trong là báo trước điềm lành của xã tắc. Vì vậy Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn đã nhiều lần ghi nhận hiện tượng nước sông Bến Nghé đổi màu trong xanh là báo điềm lành, cho dù kinh đô Huế của triều đại này ở tận Miền Trung, trước cửa Ngọ Môn là sông Hương nhưng họ vẫn gởi gắm tâm linh về một dòng sông ở tận Miền Nam của đất nước [34, tập I, tr.950]. Ngoài hai hệ sông lớn trên đây, còn có hệ sông nhỏ ở miền Tây Nam Bộ đổ ra vịnh Thái Lan như sông Giang Thành, sông Cái Lớn, sông Mỹ Thanh, sông Ông Đốc … khác với hệ Cửu Long, những sông ở đây chảy theo hướng Bắc – Nam có tác dụng tháo chua rửa mặn cho vùng Cà Mau, Bạc Liêu và tứ giác Long Xuyên là những nơi đất phèn nặng khó canh tác nhất,đồng thời cũng tạo ra những đường thuỷ thông ra vịnh Thái Lan. Bên cạnh hệ thống sông ngòi, ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long còn có mạng lưới ngòi rạch tự nhiên và kênh đào chằng chịt nối liền các dòng sông, các khu vực với nhau thạo thành một hệ thống giao thông đường thủy rất thuận lợi trong khắp vùng đến nỗi người ta thường nói có thể ngồi thuyền đi khắp Nam Bộ mà không phải đặt chân lên đất liền. Sông ngòi tự nhiên được hình thành bởi quy luật của tự nhiên. Kênh đào do con người sáng tạo ra cũng dựa trên những quy luật của dòng chảy tự nhiên đồng thời bổ sung cho những khiếm khuyết của tự nhiên trước nhu cầu chinh phục tự nhiên của con người. 1.2. Sơ lược quá trình khai phá vùng đất Nam bộ từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX 1.2.1. Công cuộc khai phá từ cuối thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII Trước thế kỷ XVII, Nam bộ còn là vùng đất hoang dã với rừng rậm sình lầy; sông ngòi chằng chịt đầy cá tôm muông thú, nhưng thớt bóng người. Quang cảnh thiên nhiên này đã được Châu Đạt Quan mô tả trong sách Chân Lạp phong thổ ký ở thế kỷ XIII như là một thế giới biệt lập, vô chủ, chỉ có động thực vật nguyên sinh cùng với rừng rậm, sông sâu, đầy bí ẩn [31,tr.29]. Thậm chí mãi đến thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn trong sách Phủ biên tạp lục vẫn còn ghi nhận “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng hoang hàng ngàn dặm” [9, tr.243]. Người Khơme là cư dân chủ yếu ở Miền Tây và một phần Miền Đông thuộc lưu vực sông Bến Nghé. Họ sống rải rác trên những giồng đất cao trong những làng (sóc) biệt lập. Trong lưu vực sông Đồng Nai còn một số tộc người thiểu số sinh sống trên những vùng đồi núi. Nhóm dân tộc bản địa này, tuy đã tồn tại ở đây lâu đời nhưng dân số ít ỏi, cùng với trình độ kỹ thuật thấp kém, họ không đủ khả năng khai phá và làm chủ vùng đất này. Từ thế kỷ XVII, ở Nam Bộ bắt đầu xuất hiện một lớp cư dân mới. Đó là người Việt với nhiều thành phần nhưng chủ yếu là nông dân nghèo. Họ từ vùng Thuận Hoá, Quảng Nam của Miền Trung vào đây lập nghiệp “ Vì nghe nói có đất đai rộng lớn phì nhiêu nhưng chưa được khai thác” [22, tr.42]. Ban đầu là những cuộc di cư tự do, sau đó là do chúa Nguyễn đứng ra tổ chức và bảo trợ. Trong thế kỷ XVII, điểm quy tụ đầu tiên của di dân Việt là ở Mỗi Xuy (Bà Rịa) Đồng Nai và Sài Gòn. Người Việt có mặt ở những nơi đây ngày càng đông thêm do sinh đẻ tự nhiên và do làn sóng người di cư tiếp tục bổ sung thêm. Cuối thế kỷ XVII,di dân người Việt còn theo đường biển, ngược sông Tiền qua cửa Tiểu, cửa Đại tiến vào khai thác vùng Mỹ Tho ngày nay. Một bộ phận khác đi xa hơn đến tận Mang Khảm (Hà Tiên) sinh sống. Người Hoa cũng là nhóm cư dân mới, cuối thế kỷ XVII, họ được chúa Nguyễn cho phép vào định cư ở Mỹ Tho và Biên Hoà với khoảng 3000 người do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cầm đầu . Nhóm khác do Mạc Cửu thống lĩnh với khoảng 200 người đến khai phá vùng Mang Khảm (Hà Tiên). Có thể kể thêm một số lớn người Chăm gia nhập vùng đất Nam Bộ từ giữa thế kỷ XVII. Đây là số người Chăm đã di cư lên đất Chân Lạp từ thế kỷ trước, nay chuyển về định cư ở vùng núi Bà Đen (Tây Ninh). Đối với người Việt, đợt di dân lớn đầu tiên là vào cuối thế kỷ XVII, khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu) vào kinh lược đất Đồng Nai – Gia Định lập ra hai huyện Phước Long và Tân Bình. Đây là những đơn vị hành chính đầu tiên xác định chủ quyền của người Việt ở Nam Bộ. Trong dịp này Nguyễn Hữu Cảnh đã chiêu mộ dân từ Bố Chính (Quảng Bình) trở vào Nam đưa vào đây [ 34, tập I, tr111 ]. Những địa điểm đầu tiên đặt chân đến khai phá của cư dân người Việt trên đất Đồng Nai – Gia Định là các giồng đất hai bên bờ hoặc trên các cù lao của các sông. Đó là các sông Bái Điệp, sông Phước Long, sông Quang Hoá,… với các điểm tụ cư như Xích Lam, Phước Lễ, Tân Vạn, cù lao Tân Triều, cù lao Tân Chánh… Đặc biệt là Cù lao phố ở Biên Hoà khi người Hoa của nhóm Trần Thượng Xuyên đến đây đã lập nên một trung tâm buôn bán của cả khu vực. Phố cảng này tồn tại và phát triển mạnh trong thời gian nửa đầu thế kỷ XVIII cho đến 1772 thì bị tàn phá bởi chiến tranh Nguyễn - Tây Sơn. Trong các thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt cũng vào định cư và tiến hành khai phá dọc theo sông Vàm Cỏ Tây, sông Tiền và các cù lao trên sông. Những địa điểm đầu tiên được khai phá ở đây gồm Tân An, vùng Ba Giồng, vùng Gò Công… những người đi tìm đất mới cũng đã đến dải đất giồng ở vàm Rạch Gầm, Xoài Hột. Ở bờ nam sông Tiền, đầu thế kỷ XVIII, một bộ phận người Việt trong đó phần lớn là các tín đồ thiên chúa giáo đến khai phá ở Cái Mơn, Cái Nhum, Mỏ Cày. Khu vực Trà Vinh, Ba Thắc cũng có một ít người Việt đến ở lẫn lộn với người Khơme. Từ chợ cũ Mỹ Tho lên vùng Giồng Trấn Định, ngoài lưu dân người Việt đến đây từ sớm, còn có một bộ phận người Hoa do Dương Ngạn Địch cầm đầu đến định cư và khai phá. Chính họ là chủ nhân lập ra “ Mỹ Tho Đại Phố” là trung tâm buôn bán một thời của khu vực này. Vùng ven biển phía tây nam đồng bằng như Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau, vào những thập niên cuối thế kỳ XVII, cư dân người Việt đã đến sinh tụ cùng với người Khơme bản địa . Cũng trong thời điểm này, nhóm người Hoa do Mạc Cửu cầm đầu với khoảng 200 người đã đến đây cư ngụ mở cảng Hà Tiên (Mang Khảm) buôn bán, đồng thời chiêu mộ dân khai phá lập ra nhiều xóm thôn. Nhìn chung, cho đến cuối thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt đã đặt chân đến nhiều nơi trên vùng đất Nam Bộ. Tuy nhiên, các địa điểm định cư chưa được phân bố đều khắp, tập trung nhất là các khu vực Bà Rịa – Đồng Nai, Mỹ Tho – Bến Tre sau đó là khu vực hữu ngạn sông Tiền như Sa Đéc, Tân Châu, và vùng Rạch Giá, Hà Tiên. Về phương thức khai phá cơ bản được thực hiện theo hai hình thức : Một là người dân tự động khai phá, hai là chính quyền sử dụng binh lính khai phá ở những nơi đóng quân và lập đồn điền. Như đã nói, thành phần lưu dân người Việt đến Nam Bộ chủ yếu là nông dân nghèo, tuyệt đại bộ phận sống bằng nghề nông. Vì vậy, hình thức thứ nhất là đặc điểm chủ yếu. Trong các thế kỷ này việc khai phá đất đai thường diễn ra một một cách tự phát. Người dân dựa vào sức mình, không có sự hỗ trợ của chính quyền, họ tự liên kết với nhau gồm mấy gia đình, chọn những khu đất cao ráo, dễ làm, có đủ nước ngọt để khai phá trước. Cách làm này người xưa gọi là “móc lõm”, rồi tiếp tục mở rộng ra nối liền nhau thành một cánh đồng liền khoảnh. Vì đất hoang còn nhiều nên người ta chỉ chú trọng đến việc mở rộng diện tích khai phá, chưa chú ý đến việc thâm canh. Ruộng đất ở Nam Bộ có hai loại : - Sơn điền là ruộng cao, gần chân núi chủ yếu ở vùng Miền Đông Nam Bộ . - Thảo điền là ruộng vùng ngập nước sình lầy ở Miền Tây. Loại ruộng thảo điền cho sản lượng lúa cao hơn. Theo sách Gia Định Thành Thông Chí ruộng ở trấn Phiên An và trấn Biên Hoà gieo một hộc thóc thì thu 100 hộc lúa, ở trấn Vĩnh Thanh một hộc thóc giống thu hoạch 300 hộc lúa [10, tr.155]. Hình thức chính quyền nhà nước sử dụng binh lính khai phá đất đai canh tác ở khu vực trú quân và mộ dân để lập đồn điền cũng diễn ra trong thế kỷ XVIII, nhưng không được ghi nhận nhiều. Do nhu cầu đóng quân để giữ gìn an ninh lãnh thổ, việc đảm bảo lương thực cho quân đội là rất cần thiết. Nên nơi nào có đồn, bảo thì nơi đó binh lính phải được tổ chức khai hoang để trồng trọt nhằm đảm bảo một phần lương thực. Sử cũ có ghi vào năm 1705, Nguyễn Cửu Vân, một viên tướng của chúa Nguyễn trấn giữ vùng Phiên Trấn đã cho binh lính khai phá vùng Cù Úc (Vũng Gù) kéo dài từ tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây đến bờ bắc sông Tiền Giang. Cũng chính nơi đây Ông đã cho binh lính đào hào lấy đất đắp luỹ và nhân đường nước lưu thông đào sâu mãi thành kênh. Đây là khởi nguyên của kênh Bảo Định sau này khi Gia Long ra lệnh đào sâu rộng thêm vào năm 1819 [10, tr.45]. Việc lập đồn điền diễn ra muộn hơn vào cuối thế kỷ XVIII khi Nguyễn Ánh đặt sở đồn điền ở Gia Định (1790) bắt các cơ quan chính quyền, bất luận hành chánh hay quân sự đều phải mộ dân khai hoang lập đồn điền. Nhà nước cấp ngưu canh, điền khí và các loại giống cây để gieo trồng, thu hoạch xong rồi đem nộp vào kho [23, tr.63]. Thành quả lớn nhất trong công cuộc khai phá ở giai đoạn này là khai khẩn đất đai để sản xuất nông nghiệp. Lưu dân người Việt bằng chính nỗ lực phi thường của mình đã biến những vùng đất xưa kia bị bỏ hoang thành đất canh tác. Đất đai Nam Bộ phì nhiêu, người ít ruộng nhiều, lúa gạo sản xuất ra không những thoả mãn nhu cầu lương thực của nhân dân tại chỗ mà còn được đem bán đi các nơi khắp cả xứ Đàng Trong [23, tr.84]. Ngoài trồng lúa và các loại cây hoa màu khác, người dân Nam Bộ còn tận dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển các nghề khác nhau nhằm phục vụ cuộc sống xã hội như khai thác thuỷ sản, khai thác rừng làm muối, làm các nghề thủ công như nấu đường, dệt vải, làm đồ gốm, đóng thuyền… Sản xuất phát triển, hàng hoá dồi dào, phong phú với nhiều đặc sản từ đó xuất hiện nhiều trung tâm thương mại như Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Bãi Xàu, Hà Tiên và Bến Nghé – Sài Gòn. Sản phẩm của cư dân Nam Bộ như lúa gạo, cá khô, hồ tiêu… đã được trao đổi buôn bán với nước ngoài qua các cảng thị nêu trên. Một thành quả khác không kém quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với lịch sử dân tộc là song song với quá trình khai hoang mở đất của di dân người Việt chính là quá trình mở rộng lãnh thổ, xây dựng bộ máy chính quyền của các chúa Nguyễn trên đất Nam Bộ. Di dân người Việt thì tự do khai phá, lập làng, sau đó chính quyền mới lập sổ đinh, sổ điền, xác lập địa giới và bộ máy hương chức của làng xã. Tiến trình xác lập các khu vực hành chính từ làng xã đến tổng, huyện, phủ … được hình thành một cách tự nhiên theo quy luật phát triển của quá trình khai phá. Trong các thế kỷ XVII, XVIII chúa Nguyễn đã từng bước xây dựng chủ quyền lãnh thổ bằng việc lập ra các đơn vị hành chính ở những thời điểm cơ bản như sau : Năm 1689, “ Đặt phủ Gia Định, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục,… Mở rộng đất được được nghìn dặm được hơn 4 vạn hộ” [34, tập I, tr.111]. Hai dinh này rộng khoảng 30. 000 km2 [15, số 320, tr.13]. Năm 1708, thu phục xứ Hà Tiên: Trước đây Mạc Cửu thần phục Chân Lạp, nhưng thế lực Chân Lạp ngày càng suy yếu không đủ sức bảo hộ, Cửu bèn xin đặt Hà Tiên vào cương vực chúa Nguyễn cai trị. Chúa Nguyễn ưng thuận và phong Mạc Cửu chức tổng binh trấn Hà Tiên [34, tập I, tr.122]. Trấn Hà Tiên rộng khoảng 15. 000 km2 [15, số 320, tr.13]. Năm 1732, đặt châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ. Chính sử triều Nguyễn có ghi “chúa cho rằng Gia Định địa thế rộng rãi, sai khổn thần (quan phụ trách việc biên khổn) chia đất đặt châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ [34, tập I, tr.143]. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát sửa đổi hành chính chia đặt cả nước thành 12 dinh, khu vực Nam Bộ có 3 dinh “Ở Phúc Long gọi là Trấn Biên Dinh, ở Tân Bình gọi là Phiên Trấn Dinh, ở Định Viễn gọi là Long Hồ Dinh, các dinh đều đặt trấn thủ, cai bạ và ký lục để cai trị” [34, tập I, tr.153]. Riêng Hà Tiên biệt thành một trấn vẫn giao cho họ Mạc cai quản. Năm 1756, Chân Lạp xin hiến hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp. Năm 1757, Chân Lạp dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn . Các vùng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp, Tầm Phong Long là những khu vực thuộc Chân lạp quản lý nằm kẹt giữa phía tây là trấn Hà tiên và phía đông là Dinh Long Hồ của chúa Nguyễn. Vua Chân Lạp cắt dâng các vùng đất này là để trả ơn sự bảo hộ của quan quân chúa Nguyễn khi triều đình nước này xảy ra xung đột, tranh chấp. Về mặt diện tích, khu vực này rộng khoảng 25.000 km2 [15, số 320, tr.14]. Như vậy, đến thời điểm 1757 toàn bộ vùng đất Nam Bộ đã thuộc nhà Nguyễn,công cuộc khai phá trên danh nghĩa về mặt lãnh thổ hành chính về cơ bản đã hoàn thành. 1.2.2. Công cuộc khai phá nửa đầu thế kỷ XIX Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh tiêu diệt Tây Sơn, thống nhất quốc gia lập ra triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Các vua đầu thời nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đã thực hiện nhiều chính sách nhằm củng cố nền độc lập thống nhất của đất nước, phát triển kinh tế và xây dựng bộ máy hành chính tập quyền từ trung ương đến địa phương . Đối với Nam Bộ, nhà Nguyễn đã có những chính sách riêng biệt thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với vùng đất mà họ cho là nơi khởi nghiệp để lấy lại quyền lực. Một trong những chính sách của nhà Nguyễn ở đây là đẩy mạnh việc khẩn hoang và miễn giảm thuế cho dân để khuyến khích khẩn hoang, lập làng. Trong những năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn đã ban hành 25 quyết định về việc tổ chức khai hoang trên toàn quốc. Trong đó có 16 quyết định đã áp dụng ở nam Bộ [23, tr.98]. Nhiều chính sách khuyến khích khai hoang lập làng được áp dụng như : dành cho người khai hoang nhiều thủ tục dễ dãi trong việc mở đất lập làng, miễn thuế ba năm cho ruộng mới khai phá, cho nông dân mượn hoặc cấp lúa giống, trâu bò, … Nhà Nguyễn vẫn đẩy mạnh việc lập đồn điền dưới hai hình thức cho dân lập đồn điền và nhà nước tổ chức. Lập đồn điền cũng là biện pháp đẩy mạnh khai hoang, đồng thời cũng đáp ứng cho mục đích quân sự. Vì người sản xuất trong đồn điền là binh lính, dân đinh, khi có chiến sự xảy ra triều đình dễ dàng huy động lực lượng này tham chiến. Hình thức lập đồn điền rất phát triển dưới triều Minh Mạng. Nhà nước phong kiến còn dùng tù phạm để sản xuất trong các đồn điền, tính chất bán quân sự trong các đồn điền dân lập cũng rõ ràng hơn khi Minh Mạng đổi tên các đồn điền thành các phiên hiệu quân đội [23, tr.102]. Các đồn điền, dù được lập với binh lính, tù phạm hay dân thường, sau một thời gian từ 6 đến 10 năm đều biến thành làng xã bình thường [23, tr.121]. Điều này cho thấy mục đích cơ bản của việc lập đồn điền ở triều Nguyễn là để khai hoang. Về diện tích khai phá từ việc lập đồn điền trong thời gian nửa đầu thế kỷ XIX là bao nhiêu? chưa có tài liệu nào thống kê rõ ràng. Riêng thời Tự Đức là khoảng 30.000 mẫu [23, tr.124]. Có thể nói chính sách lập đồn điền của triều Nguyễn đã góp phần đẩy mạnh tiến trình khai hoang ở Nam Bộ. Ngoài lập đồn điền, nhà Nguyễn còn đẩy mạnh việc tổ chức chiêu mộ dân chúng đi khai hoang lập ấp. Đó là việc đưa dân đến khai phá ở những vùng biên ải xa xôi. Điển hình là dọc theo kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế, Thoại Ngọc Hầu đã khuyến khích dân chúng đến lập làng. Song song với việc lập ra các đồn (bảo) nhằm đảm bảo an ninh cho dân khai phá. Người khẩn hoang lúc bấy giờ có sáng kiến đào nhiều con kênh ngắn (gọi là cựa gà) đổ ra kênh Vĩnh tế nhằm tháo chua rửa mặn, mở rộng khai hoang ra phía hai bờ kênh. Theo Sơn Nam trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam thì đến 1838 dọc theo kênh Vĩnh Tế đã có 10 thôn được thành lập [27, tr.72]. Đây có thể là con số thống kê còn thiếu, vì một năm sau đó (1839) sử nhà Nguyễn đã ghi việc lập ra hai huyện mới tên là Hà Âm ở tả ngạn kênh Vĩnh Tế có 4 tổng với 1040 suất đinh, tổng điền thổ là 1150 mẫu và huyện Hà Dương ở hữu ngạn Vĩnh tế có 4 tổng 1480 suất đinh, 2080 mẫu ruộng [34, tập V, tr.617]. Mục đích việc tổ chức khai hoang của nhà Nguyễn ở Nam Bộ là nhằm mở mang đất canh tác để phát triển sản xuất lương thực đảm bảo nguồn thu thuế, đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển giai cấp địa chủ ở Nam Bộ làm chỗ dựa cho chính quyền. Hình thức khai hoang do dân tự tiến hành diễn ra liên tục và ở khắp nơi. Cũng như giai đoạn trước, những người dân tự đi tìm đất khai phá ở giai đoạn này gồm nhiều thành phần. Đa số là nông dân nghèo khổ, họ từ các tỉnh Miền Trung đi vào Nam, tiếp tục làn sóng di dân tự do như đã diễn ra từ các thế kỷ trước. Trong thành phần di dân còn có nhiều nông dân nghèo khổ đã sinh sống từ lâu ở Nam Bộ. Do nhiều nguyên nhân, họ bị mất đất hoặc không đủ đất canh tác ở những vùng đã khai phá hết không còn mở rộng được nữa… nên người ta kéo nhau đi lẻ tẻ từng gia đình hay có bà con thân thuộc rủ nhau đi đến những nơi còn rừng rậm đồng hoang tiếp tục khai phá. Nhìn chung trong nửa đầu thế kỷ XIX, hoạt động khẩn hoang do dân tự tiến hành diễn ra mạnh mẽ ở ven sông Phước Long, sông Tân Bình đến sông Tiền. Ở đây họ vừa mở rộng các vùng đất đã được khai phá trước, vừa tiến sâu vào những vùng đất còn hoang vu. Từ đó, các trung tâm định cư hình thành trong thế kỷ trước, nay đã được nối liền thành một vùng ruộng vườn chạy dài từ Bà Rịa, Biên Hoà đến Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, sự xâm nhập của người Việt vào vùng nam sông Hậu càng mạnh mẽ hơn. Họ định cư dọc theo bờ sông Hậu và đến cả những nơi đã có người Khơme sinh sống để cùng làm ăn như vùng ven sông Mạc Cần Đăng, sông Ba Thắc, Bãi Xàu…Trên vùng đất hoang ngập nước như Rạch Giá, Long Xuyên hoặc xa hơn nữa là dất Cà Mau bát ngát vùng ngập mặn và chằm phá mênh mông, sông rạch chằng chịt đã bắt đầu có di dân đến ở. Những người đi tiên phong đến những khu vực này, việc trước tiên là khai thác những nguồn lợi thiên nhiên sẵn có. Họ săn bắt khai thác lâm sản, lấy mật ong và nhất là đánh bắt cá tôm. Điểm tụ cư đầu tiên của cư dân thường là đầu những con rạch nhỏ. Dần dần có thêm nhiều gia đình khác đến ở đông thêm và từ đó xóm ấp hình thành. Thành quả cơ bản của công cuộc khai phá giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX là: diện tích khai hoang được mở rộng ở khắp vùng Nam Bộ. Đia ba Nam Kỳ năm 1836, tổng kết toàn bộ đất nông nghiệp ở đây là 630 075 mẫu [7, tr.52]. Tuy nhiên theo thống kê của Đại Nam nhất thống chí thì đất khai hoang ở lục tỉnh Nam Kỳ là 568 840 mẫu. Nguyên nhân của sự chênh lệch 2 số liệu trên cần tra cứu thêm. Theo Huỳnh Lứa [23, tr.130] là do diện tích đất bị bỏ hoang nhiều và kê khai đất của dân chưa đầy đủ (dấu diện tích để trốn thuế). Từ gia tăng của diện tích đất khai hoang dẫn đến sản xuất nông nghiệp phát triển, đặc biệt là trồng lúa với khoảng 300 000 ha [7, tr.182] sau đó đất trồng các loại cây khác như trồng cau (viên lang thổ) 27 2000 ha, đất trồng dâu (tang căn thổ) và mía (giá thổ) 7 650 ha… [7, tr.183]. Từ số liệu này ta có thể suy ra đặc điểm cơ cấu cây trồng thời bấy giờ. Thành quả tiếp theo là những biến đổi về kinh tế xã hội thể hiện trong một số mặt sau: Dân số Nam bộ gia tăng và phân bố rộng khắp Nam Bộ. Năm 1819 có 110. 400 dân đinh [34, tập I, tr.1001]. Năm 1847 tăng lên 165.598 dân đinh [23, tr.150]. Dân số tăng là biểu hiện tăng tỷ lệ thuận với diện tích đất được khai phá. Điều này khẳng định vai trò chủ chốt và trực tiếp tạo ra thành quả của công cuộc khai phá là của người nông dân trong suốt hơn 2 thế kỷ qua. Biến đổi về mặt kinh tế cũng phải kể đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Trong đó lúa gạo đã trở thành mặt hàng chính cung cấp cho các tỉnh Miền Trung với số lượng lớn. Vua Minh Mạng đã từng nhìn nhận vai trò của lúa gạo Nam Kỳ đối với vấn đề an ninh lương thực cả nước '' ...Trước nay từ Bình Định trở ra Bắc đều nhờ lúa gạo miền Nam; nếu giá gạo Gia Định lên cao thì gạo các nơi cũng có quan hệ đến quốc kế dân sinh'' [34, tập II, tr.343]. Ngoài lúa gạo, Nam Kỳ còn sản xuất ra nhiều mặt hàng thủ công nghiệp đáp ứng nhu cầu trong khu vực và trao đổi buôn bán với các nơi khác. Hàng hóa làm ra nhiều, đa chủng loại, đặc biệt là các loại hàng đặc sản khai thác ở miền sông nước và cả ở miền rừng núi. Từ đó, các chợ mọc ra ở khắp nơi. Giữa thế kỷ XIX ở Nam Bộ có 93 chợ [23, tr.155] các trung tâm buôn bán hình thành đặc biệt là Bến Nghé - Sài Gòn ngày càng đóng vai trò quan trọng cho cả vùng đất này, là nơi đô hội thuyền buôn cả nước cho nên trăm thứ hàng hóa đều họp về đây [10, tr.162]. Biến đổi về mặt xã hội nửa đầu thế kỷ XIX có thể thấy rõ nhất là sự phân hóa giai cấp. Hai giai cấp chủ yếu ở Nam Bộ lúc này vẫn là địa chủ và nông dân. Cùng với việc khai hoang phát triển, địa chủ ngày càng đông và lớn mạnh chiếm cứ nhiều ruộng đất. Trong khi đó, người nộng dân đông về số lượng nhưng xu hướng bần cùng hóa đang ngày càng đến với họ. Chính sử triều Nguyễn đã ghi ''Người giàu bao chiếm đến nghìn, trăm mẫu, người nghèo không tấc đất nào để trông nhờ'' [34, tập V, tr.653]. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa để dẫn đến những cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình ở vùng Gia Định, Hà Tiên, An Giang, Vĩnh Long nổ ra vào thập niên 30 đầu thế kỷ XIX. Tóm lại, công cuộc khai phá Nam bộ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX tiếp tục được khẳng định và phát triển. Triều Nguyễn với vai trò làm chủ đất nước đã đẩy mạnh thực hiện nhiều chính sách nhằm củng cố quyền lực và khai thác vùng đất này. Diện tích khai phá cũng như phân bố dân cư đã không ngừng mở rộng và rải đều hơn so với thời kỳ trước đó. Về mặt tổ chức bộ máy hành chính kể từ khi triều Nguyễn được xác lập đến đầu thế kỷ XIX, Nam Bộ đã thực sự trở thành những đơn vị hành chính ổn định gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên). Đến năm 1834, vùng đất này chính thức có tên là Nam Kỳ gồm 6 tỉnh (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Tuy còn non trẻ so với lịch sử phát triển lãnh thổ quốc gia nhưng Nam Bộ là vùng đất giàu tiềm năng nên đã sớm khẳng định vị trí quan trọng của mình đóng góp vào sự phát triển và ổn định của đất nước. Chương 2 LỊCH SỬ KÊNH ĐÀO NAM BỘ THỜI NHÀ NGUYỄN TỪ THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX 2.1. Kênh đào ở Nam Bộ thời các Chúa Nguyễn 2.1.1. Kênh Bảo Định Kênh Bảo Định còn có tên là Kênh Vụng [10,tr.45], theo sách Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ của Trương Vĩnh Ký thì gọi là kinh Vũng Gù [21, tr.33]. Đây là tên gọi đầu tiên của con kênh này khi được đào lần đầu vào năm 1705. Theo chúng tôi, kênh Bảo Định là kênh đào sớm nhất ở Nam Bộ thời nhà Nguyễn. Người tổ chức đào kênh là Nguyễn Cửu Vân một vị quan chỉ huy quân sự của chúa Nguyễn. Năm 1705 ông vâng mệnh chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu) đi đánh Chân Lạp để bảo hộ cho phe hoàng tộc Chân Lạp là Nặc Yêm thân với Đại Việt. Khi thắng trận trở về, Nguyễn Cửu Vân đóng quân ở Cù Áo (thuộc trấn Định Tường sau này). Tại đây, ông đã cho quân lính khai khẩn ruộng hoang lập đồn điền sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên tình hình an ninh ở đây không yên ổn vì quân giặc thường ra quấy rối sau lưng quân ta nên Nguyễn Cửu Vân đã tổ chức đắp lũy dài để phòng ngự. Chính từ việc đào đất đắp lũy dài để phòng ngự mà lịch sử con kênh ra đời. Dựa vào điều kiện tự nhiên sẵn có của hai con sông nhỏ Vũng Gù ở phía đông bắc (chi lưu của sông Hưng Hòa tức là sông Vàm Cỏ Tây) và sông nhỏ Mỹ Tho (chi lưu của sông Tiền) chảy hướng đông nam, Nguyễn Cửu Vân đã đào nối hai đầu cùng của hai sông trên “cho nước chảy liền nhau để làm hào ngăn ở ngoài cho chắc việc phòng hộ” [10, tr.45]. Kênh Vũng Gù lúc bấy giờ gắn liền với những địa danh như chợ Phú Lương là đầu cùng của sông nhỏ Mỹ Tho nơi xuất phát điểm của việc đào kênh tính từ phía nam và quán Thị Gai là đầu cùng của kênh Vũng Gù đồng thời cũng là điểm đầu của lũy đất phòng ngự tính từ phía bắc. Từ khi chiến lũy được đắp lên việc phòng thủ chắc chắn là được đảm bảo tốt hơn. Đồng thời hào nước khơi thông nối liền hai con kênh tự nhiên đã tạo nên một thủy đạo quan trọng từ sông Tiền qua sông Vàm Cỏ để người ta có thể đi tiếp về hướng Sài Gòn – Gia Định. Khi đào nên hào nước này chắc hẳn Nguyễn Cửu Vân đã biết được vai trò quan trọng của nó đối với giao thông khu vực, vì vậy ông đã tiếp tục tu bổ mở rộng thêm để ghe thuyền đi lại thuận tiện. Sách Gia Định thành thông chí có ghi “nhân đường nước chảy thông, lại đào cho sâu thêm, bèn thành đường kênh đi thuyền vậy”[10, tr.45]. Như vậy, kể từ 1705 kênh Vũng Gù (Kênh Bảo Định) đã hình thành và ngày càng phát huy vai trò của nó đối với giao thông đường thủy, mặc dù khởi điểm của việc đào
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan