Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Lịch sử dân tộc...

Tài liệu Lịch sử dân tộc

.PDF
57
458
111

Mô tả:

lịch sử dân tộc
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÀI TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI ĐỀ TÀI NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA NHÀ LÊ SƠ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC Giảng viên: Trần Thuận Thực hiện: Nguyễn Minh Tuấn. MSSV 1256040096 1 MỤC LỤC 1. Khái quát về nhà Lê sơ…………………………………………………….…….6 2. Những cống hiến của nhà Lê sơ đối với lịch sử dân tộc……………….………6 2.1. Hành chính Đại Việt thời Lê sơ………………………………….…….6 2.1.1. Chính quyền trung ương……………………………………………….7 2.1.1.1. Lục bộ………………………………………………………….…….7 2.1.1.2. Lục tự……………………………………………………….………..8 2.1.1.3. Các cơ quan chuyên môn…………………………..……….………..8 2.1.2. Chính quyền địa phương……………………………...………….…….9 2.2. Kinh tế…………………………………………………………………..10 2.2.1. Nông nghiệp……………………………………………………….…..10 2.2.1.1. Đẩy mạnh nghề nông………………………….……….……………10 2.2.1.2. Lập đồn điền…………………………………………….…………..11 2.2.1.3. Di dân và khẩn hoang………………………………………………11 2.2.1.4. Chế độ ruộng đất……………………………………………………12 2.2.1.5. Trị thủy và làm thủy lợi…………………………………………….13 2.2.2. Thủ công nghiệp…………………………………...…………………14 2.2.2.1. Thủ công nghiệp nhân dân…………………………………………14 2.2.2.2 Cục Bách công………………………………………………...…….15 2.2.2.3. Các nghề thủ công nghiệp………………………………………….15 2.2.3. Thương mại…………………………………………………………...17 2.2.3.1. Nội thương…………………………………………………………..17 2.2.3.2. Ngoại thương………………………………………………………..18 2.3. Giáo dục………………………………………………………….……..20 2 2.3.1. Hệ thống trường học………………………………….………………21 2.3.2. Sách giáo khoa………………………………………………………..21 2.3.3. Hệ thống khoa cử……………………………………………….…….22 2.3.3.1. Thi Hương………………………………………….….……………22 2.3.3.2. Thi Hội…………………………………………..………………….23 2.3.3.3. Thi Đình………………………………………..………….………..23 2.3.4. Tư tưởng trọng hiền tài (1428- 1527) thông qua hệ thống văn bia tại Văn Miếu………………………………………………………..………24 2.3.4.1. Đôi nét về Văn Miếu – Quốc Tử Giám và hệ thống bia đá – Quốc Tử Giám……………………………………………………….……24 2.3.4.2. Tư tưởng trọng hiền tài thời Lê Sơ thông qua hệ thống văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám…………………………………….………..25 2.3.4.2.1. Vai trò của hiền tài đối với Quốc gia………………………..……25 2.3.4.2.2. Coi trọng đào tạo và kén trọng nhân tài qua khoa cử…..………...26 2.3.4.2.3. Chế độ đãi ngộ và tôn vinh hiền tài……………………...……….27 2.3.4.2.4. Yêu cầu đối với hiền tài và trách nhiệm của hiền tài đối với quốc gia……………………………………………………………..……...28 2.3.4.3. Nhận xét chung……………………………………………………..29 2.3.5. Ba nhà văn hóa xuất sắc: Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên, Lương Thế Vinh…………………………………………………………….31 2.4. Luật pháp………………………………………………………………32 2.5. Xã hội………………………………………………………….………..35 2.6. Nghệ thuật……………………………………………………….……..37 2.6.1. Văn học……………………………………………………………….37 3 2.6.1.1. Khái quát………………………………………………………...…37 2.6.1.2. Tác gia và tác phẩm tiêu biểu………………………….……..……37 2.6.1.3. Nguyễn Trãi Vinh quang và thảm kịch của một bậc thiên tài...........39 2.6.2. Kiến trúc…………………………………………….……………..…40 2.6.2.1. Kiến trúc cung đình: ……………………………….………...…….40 2.6.2.2 . Kiến trúc tôn giáo:………………………………………..…..……40 2.6.2.3. Kiến trúc lăng mộ………………………………………..….……...42 2.6.3. Điêu khắc…………………………………………………….……….42 2.6.3.1 .Điêu khắc lăng mộ …………………………………………...……43 2.6.3.2. Chạm Khắc Trang trí……………………………………..……..45 2.6.3.3. Nghệ Thuật Gốm………………………………………..…………46 2.6.3.4. Tượng Rồng ở Thành Bậc Cửa Điện Kinh Thiên………..……….46 2.6.4. Hội họa………………………………………………………..……..46 2.6.5. Âm nhạc……………………………………………………..………48 2.7. Khoa học……………………………………………………..……….49 2.7.1. Toán học…………………………………………………….………49 2.7.2. Y học……………………………………………………….……….50 2.7.3. Thiên văn, lịch pháp và thủy văn…………………………………...50 2.7.4. Người Việt ở nước ngoài……………………………………………51 2.8. Nho giáo………………………………………………………………51 2.9. Sử học………………………………………………………...……….52 2.10. Mở rộng lãnh thổ………………………………………..…….……52 2.10.1. Đánh Chiêm Thành………………………………………..………52 2.10.2. Đánh Bồn Man…………………………………………..………...53 4 2.10.3. Đánh Lão Qua………………………………………………………..53 3. Nhận định…………………………………………………………………54 Phụ lục: Một số hình ảnh về thời Lê sơ……………………………………55 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………..57 5 1. Khái quát về nhà Lê sơ Nhà Lê sơ là giai đoạn đầu của nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝 1428– 1527), một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh. Sau nhiều thế kỷ độc lập và văn hiến nhờ những tướng tài, vua giỏi, và trí thức lớn của các đời từ Ngô tới Trần, Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự xưng vua, lấy hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước là Đại Ngu. Như vậy là sau triều Trần một triều đại mới bắt đầu: triều đại nhà Hồ (Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ) Đến ngày 19 tháng 11 năm 1406, nhà Minh vượt qua biên giới đánh về Thăng Long. Đến ngay 10 tháng 01 năm 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự chống quân Minh của nhà Hồ bị phá vỡ.Tháng 6 năm 1407 cuộc kháng chiến của quân nhà Hồ bị thất bại, nước ta rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Nhưng rồi khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (1418) đưa tới những chiến thắng vang dội khiến quan quân Minh phải rút về nước; nền độc lập dân tộc được phục hồi, một triều đại mới được thành lập. Ánh sáng của tự chủ tự do đã lại trở về với Đại Việt, với kinh đô cũ Thăng Long được triều Lê Sơ cho một tên gọi mới là Đông Đô để phân biệt với Lam Kinh ở Thanh Hóa, còn gọi là Tây Đô hay Tây Kinh. Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ, đây là thời kỳ các vua Lê nắm trọn được quyền hành, cũng là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều vua Thái Tổ (1428-1433), Thái Tông (1434-1442), Nhân Tông (1443-1459), Thánh Tông (1460-1497), Hiến Tông (1497-1503) đất nước Đại Việt dần dần được hồi phục và phát triển lên một đỉnh cao mới về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục…. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt chưa bao giờ cường thịnh bằng thời này. 2. Những cống hiến của nhà Lê sơ đối với lịch sử dân tộc 2.1. Hành chính Đại Việt thời Lê sơ Hành chính Đại Việt thời Lê sơ, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần, mang tính quan liêu và chuyên chế cao độ. Từ thời Lê Thánh Tông, có sự sắp xếp lại bộ máy nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ cấp địa phương. Bộ máy tổ chức thời Lê Thánh Tông là bộ máy quân chủ chuyên chế quan liêu được tổ chức khá chặt chẽ và hoàn chỉnh. 6 2.1.1. Chính quyền trung ƣơng Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân. Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách 3 mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã, thôn. Bộ máy chính quyền thời Lê Thái Tổ cơ bản theo mô hình thời Trần. Giúp việc trực tiếp cho hoàng đế là trung khu gồm các quan tả, hữu tướng quốc, tam thái (thái sư, thái uý, thái bảo), tam thiếu (thiếu sư, thiếu uý, thiếu bảo), tam tư (tư mã, tư không, tư khấu), bộc xạ. Dưới trung khu là hai ban văn, võ. Đứng đầu ban văn là quan đại hành khiển. Các bộ, ngành thuộc văn ban là bộ Lại, bộ Lễ, khu mật viện, hàn lâm viện, ngũ hình viện, ngự sử đài, quốc tử giám, quốc sử viện, nội thị sảnh, và các cơ quan khác gọi là quán, cục, hay ty. Đứng đầu các bộ là quan thượng thư. Đứng đầu ban võ là đại tổng quan. Tiếp đến là các chức đại đô đốc, đô tổng quản, tổng quản, tổng binh, tư mã. Ban võ gồm 6 quân điện tiền và 5 quân thiết đột. Tổng số quan lại thời Hồng Đức là 5.370 người, trong đó quan lại trong triều 2.755 người Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức. 2.1.1.1. Lục bộ Thời Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến năm 1466, Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ: - Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước; - Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo; 7 - Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh; - Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp; - Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo; - Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền. Mỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng, gồm Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa. Đứng đầu các khoa là Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Giúp việc cho Lục bộ là Lục tự. 2.1.1.2. Lục tự Gồm có: - Đại lý tự: cơ quan phụ trách hình án. Xét xong án chuyển sang Bộ Hình để tâu lên vua quyết định - Thái thường tự: cơ quan phụ trách lễ nghi, âm nhạc cung đình - Quang lộc tự: phụ trách hậu cần đồ lễ trong các buổi lễ của triều đình - Thái bộc tự: cơ quan phụ trách xe ngựa của vua và coi sóc chuồng ngựa của vua - Hồng lô tự: Tổ chức việc xướng danh những người đỗ trong kỳ thi đình; lo an táng đại thần qua đời và tiếp đón các ông hoàng ngoại quốc - Thượng bảo tự: Cơ quan coi việc đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh thi Hội 2.1.1.3. Các cơ quan chuyên môn Lê Thánh Tông tổ chức thêm một số cơ quan chuyên môn không lệ thuộc vào 6 Bộ, bao gồm: - Thông Chính ty: cơ quan phụ trách chuyển đạt giấy tờ của triều đình xuống và nhận đơn từ của nhân dân tâu lên vua. Đứng đầu là Thông chính sứ, trật Tòng tứ phẩm. 8 - Quốc Tử Giám: cơ quan giáo dục cao nhất trong cả nước. Đây là trường đại học của triều đình có nhiệm vụ đào tạo nhân tài cho quốc gia. Đứng đầu là Tế tửu, trật chánh tứ phẩm. - Quốc sử viện: cơ quan chép sử của triều đình. Nhà vua nói gì, làm gì, sử quan đều phải ghi chép cẩn thận và trung thực. Đứng đầu là Quốc sử viện Tu soạn, trật chánh bát phẩm - Khuyến nông và Hà đê xứ: Hai cơ quan coi việc nông nghiệp và trông nom về thủy lợi. 2.1.2. Chính quyền địa phƣơng Năm 1428, Lê Lợi khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (tuân theo Trời), chia đất nước thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (đều ở vùng Bắc bộ) và Hải Tây (từ Thanh Hóa trở vào). Dưới đạo là trấn, dưới trấn là lộ, dưới lộ là châu và huyện. Cấp hành chính địa phương thấp nhất là xã. Xã lại chia làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân. Đứng đầu chính quyền các đạo là chức hành khiển (phụ trách cả dân sự lẫn quân sự). Đứng đầu các trấn là các an phủ sứ, các lộ là tuyên phủ sứ, các châu, huyện là tri châu hay tri huyện, các xã là xã quan (từ thời Lê Thánh Tông đổi thành xã trưởng). Đến năm Quang Thuận thứ 5 (1464) thời vua Lê Thánh Tông, Đại Việt được chia thành 1 phủ và 13 đạo "thừa tuyên"; năm 1490 đổi gọi phần lớn các "thừa tuyên" là "xứ"; sang thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực đổi gọi các đơn vị cấp cao nhất là "trấn". Các đơn vị hành chính cao nhất gồm gồm: Phủ Trung Đô (phủ Phụng Thiên), Thanh Hóa, Nghệ An,Thuận Hóa, Thiên Trường (Sơn Nam), Hải Dương (Nam Sách), Sơn Tây (Quốc Oai), Bắc Giang (Kinh Bắc), An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên (Ninh Sóc), Lạng Sơn. Từ năm 1471 mở rộng đất đai phía nam, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam. Tuy địa giới có một số điều chỉnh và riêng Sơn Tây không còn là đơn vị cấp cao nhất, một nửa trong số các đơn vị hành chính lớn nhất thời kỳ này (Hải Dương, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam) có tên gọi được dùng làm tên các đơn vị hành chính lớn nhất (tỉnh) của Việt Nam hiện nay. Bộ máy chính quyền của mỗi đạo thừa tuyên gồm 3 ty: đô tổng binh sứ ty (phụ trách quân sự), thừa tuyên ty (phụ trách các việc dân sự), hiến sát ty (phụ trách các việc thanh tra, giám sát). 9 Các quan địa phương được ban ngạch cao nhất là chánh tứ phẩm, hưởng lương 48 quan mỗi năm. Tổng số quan lại địa phương thời Hồng Đức là 2.615 người 2.2. Kinh tế Lê Thánh Tông còn quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển khá mạnh. 2.2.1. Nông nghiệp Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, đời sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ. Để nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền; cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt. Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những chính sách tích cực, nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong nước. Nhân dân thời Lê có câu thơ: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn 2.2.1.1. Đẩy mạnh nghề nông Ngay từ năm 1427, khi đang vây hãm thành Đông Quan, Lê Lợi đã có chủ trương sẽ cho 25 vạn trong tổng số 35 vạn quân về quê cày cấy sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ giữ lại 10 vạn quân làm lính triều đình. Cùng năm, ông lệnh cho những người chạy loạn trở về quê quán cày cấy và xử tội nặng những người bỏ nghề nghiệp. Xây dựng xã hội lấy nông nghiệp làm gốc nên nhà Lê chủ trương tận dụng triệt để ruộng đất, không để hoang hóa. Năm 1428, sau khi quân Minh về nước, Lê Thái Tổ lệnh cho con em các tướng và các đầu mục về quê nhận ruộng đất cày cấy. Năm 1429, ông lại ra lệnh: vườn của các quan ở kinh thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi. Việc miễn giảm tô thuế trong những năm đầu của nhà Lê đã góp phần kích thích nông nghiệp phát triển đáng kể, khôi phục sau 20 năm chiếm đóng của nhà Minh. 10 Lê Thánh Tông cũng tiếp thu tư tưởng của Lê Thái Tổ, quy định trong Luật Hồng Đức: nếu ruộng đất công có chỗ bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội 2.2.1.2. Lập đồn điền Do ruộng đất bị bỏ hoang nhiều sau chiến tranh, nhà Lê áp dụng chính sách khuyến khích dân khẩn hoang và lập đồn điền để tận dụng sức lao động của các tù binh và người phạm tội. Việc khai hoang được bắt đầu từ thời nhà Lý; việc lập tổ chức đồn điền và đặt quan chánh phó đồn điền thực hiện từ thời nhà Trần. Nhà Lê kế tục các triều đại trước, cho các tù binh người Minh và người Chiêm Thành khi khai phá những vùng đất mới, lập thôn xóm. Các công thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trần Lạn… được cấp tù binh để đi khai hoang. Những vùng đất mới được thành lập mang tên vệ, sở được hình thành ở ven sông thuộc huyện Hưng Nguyên, Thiên Bảo, Diễn Châu… Sang thời Lê Thánh Tông, chính sách đồn điền được thực hiện rộng rãi. Vua ban chiếu lập đồn điền, mở rộng quy mô các đồn điền tại các địa phương, tận dụng sức lao động của người lưu vong, tội đồ. Tới năm 1481, trong cả nước có 43 đồn điền: - Vùng Bắc Bộ có 30 sở - Thanh Hóa có 5 sở - Nghệ An có 4 sở - Thuận Hóa có 2 sở - Quảng Nam có 2 sở Các đồn điền ở Bắc Bộ thường nhỏ và mang tên xã; trong khi các đồn điền từ Thanh Hóa trở vào rộng lớn hơn và mang tên huyện, do những vùng đất này còn nhiều nơi chưa được khai thác. 2.2.1.3. Di dân và khẩn hoang Không chỉ tận dụng sức lao động của tù binh và người phạm tội, nhà Lê còn chú trọng tới lực lượng lao động là nông dân tại các địa phương để mở mang những vùng đất hoang. Thời Lê Thánh Tông hình thành hai loại ruộng mới là “ruộng chiếm xạ” và “ruộng thông cáo”. 11 Ruộng thông cáo là ruộng bỏ hoang ở các làng xã được triều đình cho phép cày cấy sau khi tâu báo lên. Người khai phá phải ở cùng phủ, huyện, xã. Họ được hưởng lợi trên ruộng cày cấy đó và truyền cho con cháu nhưng không được biến thành ruộng tư hữu mà vẫn thuộc sở hữu triều đình Ruộng chiếm xạ cũng là ruộng khẩn hoang nộp thuế. Tùy sức người đi khai phá, làm được trên diện tích bao nhiêu thì được hưởng lợi sau khi nộp thuế và có thể xin với bộ Hộ làm ruộng tư. Với chính sách khẩn hoang và cho phép người nông dân được sở hữu ruộng tư, nhà Lê đã khuyến khích được sức sản xuất nông nghiệp tăng đáng kể, giảm bớt mâu thuẫn trong xã hội về ruộng đất. Do chính sách khuyến khích dân, những vùng ven biển Yên Quảng, Sơn Nam và Thuận Hóa trở vào vốn thưa dân ngày càng đông người đến sinh sống. 2.2.1.4. Chế độ ruộng đất Chế độ ruộng đất thời Lê sơ chia hai loại chính là ruộng công và ruộng tư. Ruộng công gọi là quan điền. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc điền. Các thân vương hoàng tộc có thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500 mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất phẩm được cấp 200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế). Tuy nhiên, Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục cho rằng: ruộng đất trên thực tế có không đủ để thực hiện chính sách lộc điền này, do đó chính sách chỉ thực hiện được một phần, do đó trên danh nghĩa các quý tộc và quan lại được hưởng 10 phần song thực tế chỉ được cấp phát bằng khoảng 1/5 trên giấy tờ. Một bộ phận khác trong ruộng công, đất công và đất hoang được kê khai, đo đạc và chia cho các hạng từ tướng, quân, quan, dân tới cả người già yếu, cô quả ở các địa phương được hưởng. Đó gọi là chế độ quân điền. Chế độ quân điền có tác dụng ổn định trật tự xã hội, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Ruộng tư thời Lê sơ chủ yếu nằm trong tay các quý tộc, quan lại và địa chủ chiếm hữu. Một bộ phận nhỏ khác trong tay nông dân có ruộng tự canh tác, nếu có nhiều ruộng, họ lại trở thành địa chủ. 12 2.2.1.5. Trị thủy và làm thủy lợi Khí hậu nhiệt đới gió mùa khiến nước Đại Việt thường bị lũ lụt vào mùa mưa và hạn hán và mùa khô. Do đó đắp đê và làm thủy lợi là yêu cầu cấp bách của sản xuất nông nghiệp. Thời Lê Thái Tông, năm 1438, vua cho đào và khơi các kênh ở Trường Yên, Thanh Hóa, Nghệ An. Năm 1449, Lê Nhân Tông lệnh cho Cục bách tác đào sông Bình Lỗ từ Lãnh Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2500 trượng (10 km). Năm 1467, Lê Thánh Tông lệnh cho Bộ Hộ khai hoặc lấp các đường nước ở ruộng, không để ruộng bị úng hoặc hạn. Cùng năm, ông sai khai các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An,Thuận Hóa. Thời Lê Thánh Tông, việc đắp đê sông và đê biển được chú trọng hơn các thời trước. Tại Ninh Bình, năm 1472 vua cho đắp đê bằng đá ở huyện Yên Mô từ phía bắc cửa Thần Phù đến bờ phía nam cửa Cờn và con đê đắp bằng đất từ xã Côi Trì huyện Yên Mô tới bờ nam xã Bồng Hải huyện Yên Khánh. Con đê chống nước mặn đắp trong niên hiệu Hồng Đức được gọi là đê Hồng Đức dài gần 25 km, hiện vẫn còn dấu tích tại phía bắc huyện Hải Hậu. Năm 1503, Lê Hiến Tông sai khai cừ An Phúc xuống cừ Thượng Phúc để lấy nước tưới ruộng cho dân. Bên cạnh các công trình lớn, các công trình nhỏ phục vụ chống hạn thường xuyên được thực hiện. Việc tu sửa đê và làm thủy lợi được đưa vào quy định của triều đình. Năm 1475, Lê Thánh Tông ra sắc lệnh về sửa đắp đê điều và đường xá. Cùng năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy. Trình độ sản xuất nông nghiệp thời Lê sơ tuy có được nâng lên so với các đời trước nhưng nhìn chung không có chuyển biến quan trọng. Nông nghiệp vẫn điển hình là trình độ kỹ thuật của nền sản xuất tiểu nông dựa trên sức lao động và kinh nghiệm lâu đời, với những công cụ thô sơ, nhỏ bé. Những công trình thủy lợi lớn do triều đình tổ chức thực hiện cũng như các công trình nhỏ do nhân dân góp sức đã góp phần hạn chế được tác hại của thiên tai và đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp trong nước 13 2.2.2. Thủ công nghiệp Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác. Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất. Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách tác, chuyên sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh. 2.2.2.1. Thủ công nghiệp nhân dân Nghề phụ của nông dân Dù không sản xuất thường xuyên nhưng hình thức này cũng khá quan trọng trong đời sống xã hội. Khi nông nhàn, người nông dân thường làm những công việc dệt vải, làm nón, đan lát... Sản xuất sản phẩm chủ yếu để giải quyết nhu cầu gia đình, một số khác phục vụ thị trường địa phương. Sự kết hợp giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp này phản ánh tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp của kinh tế thời kỳ này Phƣờng hội, làng nghề chuyên nghiệp Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng đương thời có: - Sơn Tây: huyện Bất Bạt có nghề làm dầu, gai, đay; huyện Tam Nông có nghề làm chè tai mèo, sáp vàng sáp trắng, làng Nguyên Thán dệt vải, huyện Tiên Phong dệt lụa. - Sơn Nam: huyện Thanh Oai, Bộ La Thái Bình dệt lụa, huyện Kim Bảng làm the; Hải Triều Thái Bình đệt chiếu, xã Hoàng Mai huyện Thanh Trì và xã Bình Vọng huyện Thượng Phúc nấu rượu sen, rượu cúc, xã Đông Thái nấu rượu nếp. Những làng rượu này rất nổi tiếng, để tiến cống triều đình và dùng trong các dịp lễ đón bốn mùa. - Kinh Bắc: làng Bát Tràng, Gia Lâm làm bát chén; làng Huệ Cầu huyện Văn Giang nung vôi 14 - Nghệ An: huyện Tương Dương dệt vải thưa, huyện Thạch Hà làm the mỏng - Quảng Nam: xã Tư Minh huyện Tuy Viễn làm tơ gai, xã Miên Sơn huyện Tuy Viễn dệt lụa màu huyền - Lạng Sơn: châu Yên Bác có nghề làm gấm thêu, các chất thơm. Sản phẩm dùng làm đồ tiến cống. 2.2.2.2 Cục Bách công Cục Bách công là hình thức tổ chức sản xuất thủ công nghiệp của triều đình. Đây là nơi chuyên sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho cung vua như tiền, vũ khí, các đồ nghi trượng, đồ dùng vua quan, đồ trang sức... Các thợ thủ công tham gia Cục Bách công gọi là công tượng. Họ là những thợ giỏi trong nhân dân được triều đình trưng tập. Hàng năm, triều đình cử người về các địa phương cùng các quan phủ, huyện có nhiệm vụ đề cử những thợ lành nghề lên Cục Bách công. Công tượng là chế độ lao động cưỡng bức, tổ chức thành đội ngũ như quân lính. Từ thời Lê Thánh Tông chia công tượng làm hai ban luân phiên nhau, một nửa sản xuất, một nửa về quê làm ruộng. Do chế độ công tượng có tính trói buộc người thợ thủ công nên họ không hứng thú với công việc trưng tập của triều đình. Do đó nhiều người đã phản ứng bằng cách trốn tránh, đến chậm hoặc thoái thác. Vì vậy Luật Hồng Đức đã có những điều khoản trị tội họ. Ngoài công tượng, trong Cục Bách tác còn có các công nô là những người bị tội đồ, bị sung vào đây sản xuất với thân phận nô tỳ. Sản xuất của Cục Bách tác chỉ phục vụ riêng cho cung đình, sản phẩm không phục vụ nhân dân, không trở thành hàng hóa, do đó không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa 2.2.2.3. Các nghề thủ công nghiệp Nghề gốm Gốm Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. 15 Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước... được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. Bát Tràng: Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát (Thanh Hóa) di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường (phường đất trắng), sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường (nơi làm bát). Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói... Men trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Nghề dệt Nghề dệt có ở Việt Nam từ hơn 1000 năm trước thời Hậu Lê. Tại kinh thành Thăng Long có các phường dệt nổi tiếng như Thụy Chương, Nghi Tàm. Tại Hải Dương có 3 ấp nổi tiếng là Mao Điền (huyện Cẩm Giàng), Hộ Am và ấp Bất Bế (huyện Đồng Lai, nay là huyện Vĩnh Lại). Thời Lê sơ, các thợ dệt đã làm được hàng sợi bông trông gần như dạ và nỉ hiện đại gọi là “nuy đoạn” hoặc “nhung thúc”. Đến thế kỷ 20, các cửa hàng bán đồ tế lễ dùng loại nhung này để cắt chữ dán câu đối hoặc bọc ngoài các đôi hia cúng thần. Phủ Quốc Oai đã sản xuất thứ hàng này gồm đủ màu xanh, tím, vàng, biếc không kém chất lượng hàng của Trung Quốc Nghề sơn Nghề sơn đã có từ khá lâu đời, nhưng đến thời Hậu Lê thì được phát triển thêm một bước. Sơn dùng trang trí ở hầu hết các đền thờ dinh thự ở đồng bằng Bắc Bộ. Sản phẩm nối tiếng xuất phát từ làng Bình Vọng, huyện Thường Tín (Hà Nội) với ông tổ là Trần Lư. Nghề chạm khắc đá 16 Nổi tiếng nhất là làng Kính Chủ thuộc phủ Kinh Môn (Hải Dương). Hầu hết đàn ông tại làng Kính Chủ đều biết nghề chạm đá. Nguyên liệu sẵn có, khai thác thuận tiện làm cho làng nghề có công việc quanh năm. Không chỉ phục vụ nhu cầu tại địa phương, làng nghề này còn sản xuất cối đá, trục lúa, đá phiến... giao cho thương nhân chở theo đường thủy đến các địa phương khác hoặc nhận đi làm công trình ở các nơi khác Nghề in mộc bản Bắt đầu từ thời Lý (thế kỷ 12) nhưng đến thời Lê Sơ, nghề này mới đi vào quy củ. Nổi tiếng nhất là 2 làng Hồng Lục và Liễu Tràng (phủ Hạ Hồng, Hải Dương). Sự thăng tiến về trình độ của nghề này có ghi nhận sự du nhập kỹ thuật của Trung Quốc 2.2.3. Thƣơng mại Nhà vua khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sảm quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải có giấy phép, về cũng phải có giấy phép. Quan lại vô cớ tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội 2.2.3.1. Nội thƣơng Kinh đô Thăng Long là trung tâm buôn bán lớn nhất và sầm uất nhất. Do có ưu thế về vị trí, những người buôn bán muốn đến Thăng Long bằng đường bộ hay đường sông đều thuận tiện. Trục giao thông chính trong nước là sông Nhĩ Hà (sông Hồng), đoạn chảy qua nội thị dài gần 5 km. Bên hữu ngạn sông Nhĩ Hà có nhiều bến đò liền sát với phố phường tạo ra một mạch giao thương chính nối Thăng Long với các thị trường các địa phương khác. Hệ thống sông Tô Lịch – Kim Ngưu, trong nhiều thế kỷ vẫn ăn thông với sông Nhĩ Hà và Hồ Tây, có tác dụng là hệ thống giao thông nội thị hiệu quả cho nội thương. 17 Ngoài Thăng Long và một vài thị trấn là trung tâm buôn bán, hầu hết là các chợ nằm ở các địa phương. Mỗi xã có một chợ hoặc một vài xã lân cận có một chợ chung. Chợ họp hàng ngày hoặc theo những ngày nhất định trong tháng gọi là ngày phiên chợ. Họp chợ là dịp để những người trong địa phương và các lái buôn từ xa tới buôn bán trao đổi sản phẩm - chủ yếu là trao đổi giữa nông phẩm và sản phẩm thủ công. Thời Lê Thánh Tông ra quy định các làng mở chợ sau phải định ra phiên sau ngày phiên chợ của các làng xung quanh để tránh việc tranh chấp ăn chặn mối hàng của các lái buôn. Làng nào phạm luật sẽ bị phạt. Do dân cư ngày càng đông đúc và nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn, năm 1477, Lê Thánh Tông ra quy định về việc chia chợ. Theo đó, các quan phủ, huyện, châu phải xem xét thực trạng, nếu việc chia chợ là thuận tiện cho việc buôn bán của dân thì làm bản tâu lên xin phép triều đình. Luật Hồng Đức có quy định cấm những hành động sách nhiễu và thu thuế quá cao đối với các chợ. Điều 186 chương Vi chế ghi: « Những người coi chợ trong kinh thành mà sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xung, đánh 50 roi, biếm 1 tư; lấy thuế chợ quá nặng biếm 2 tư, mất chức coi chợ và bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân, tiền phạt trả cho người cáo giác. Nếu lấy thuế chợ không đúng luật thì đánh 80 trượng và dẫn đi rao trong chợ 3 ngày » 2.2.3.2. Ngoại thƣơng Nhà Hậu Lê cũng như nhiều triều đại phong kiến phương Đông khác có chính sách hạn chế ngoại thương, một phần lý do xuất phát từ nhu cầu tự vệ để ngăn ngừa do thám của nước ngoài và mặt khác do tư tưởng trọng nông, muốn gắn chặt người dân với đồng ruộng, không cho người dân rời đồng ruộng và quê hương đi buôn bán. Chính vì vậy, triều đình đã có nhiều biện pháp kiểm soát ngoại thương chặt chẽ, nhất là với hoạt động của tư nhân. Đường biển Trên cửa khẩu dọc biên giới miền duyên hải, triều đình lập cơ quan kiểm soát ngoại thương rất khắt khe. Những nhà buôn ngoại quốc đến Đại Việt buôn bán phải vào những nơi quy định như Vân Đồn, Càn Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thông Lãnh, Phú Lương, Tam Kỳ, Trúc Hoa, không được tự ý vào các trấn. Các thuyền ngoại quốc vào buôn bán chỉ được ra vào hạn chế tại một số cảng, chủ yếu là Vân Đồn. Tại các cửa biển có các quan Sát hải sứ kiểm soát tàu bè, các An phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát buôn bán và đi lại. 18 Nhân dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hoá của người nước ngoài hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, từ 50 quan đến 200 quan Đường bộ Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và sự phát triển của kinh tế hàng hoá khiến hoạt động buôn bán lén lút với nước ngoài vẫn diễn ra, với sự tham gia của các quan lại trong triều. Nhiều quan lại nhà Lê – cũng như quan lại nhà Minh từ Trung Quốc - đã tận dụng cơ hội đi sứ để mua hàng hoá về bán trong nước kiếm lời. Những vụ điển hình như Chánh sứ Lê Vĩ sang Trung Quốc năm 1434 mua trên 30 gánh hàng hoá về; năm 1435 sứ bộ của Chu Bật sang Trung Quốc về phải dùng tới 1000 phu gánh gồng hàng hoá và hành lý. Năm 1448, có tin nhà Minh hội khám để bàn vấn đề tranh chấp biên giới, Lê Khắc Phục, Nguyễn Mộng Tuân, Đào Công Soạn… được lệnh đi hội khám. Cuối cùng nhà Minh lỡ hẹn không đến, đoàn quan lại bèn mang tiền mua hàng hoá từ Trung Quốc chở nặng mang về. Có những vụ việc bị phát giác và bị xử lý như trường hợp Thái Quân Thực và Nguyễn Tông Trụ năm 1435 mang nhiều bạc sang Trung Quốc trong chuyến đi sứ, khi về bị vua Lê Thái Tông tịch thu hết chia cho các quan Để hạn chế việc quan lại mua bán hàng hoá với Trung Quốc, nhà Lê ra quy định: sứ thần nào mang hàng về sẽ bị khám xét, thu và trưng bày trong triều để bêu làm xấu hổ rồi mới cho mang về. Việc khám xét dù thành thường lệ nhưng việc mua bán của các quan vẫn phổ biến. Công thương nghiệp của Trung Quốc thời nhà Minh khá phát triển, nhưng cũng gặp phải sự ngăn cấm của triều đình nhà Minh. Nhiều người Hoa vẫn lén lút qua lại biên giới buôn bán với người dân Việt. Sự ngăn cấm ngặt nghèo của nhà Minh sau đó khiến một bộ phận người Hoa vượt biên giới sang rồi không dám trở về, ở lại sinh sống tại Đại Việt. Do đó sau nhiều năm, hình thành một tầng lớp người Hoa chuyên kinh doanh buôn bán ngày càng đông Hậu quả Sự ngăn cấm khắt khe của triều đình khiến ngoại thương phát triển rất kém. Thuyền buôn các nước vào thưa thớt, các chợ miền biển như Kỳ Lừa (Lạng Sơn), Móng Cái, Vạn Ninh, Vân Đồn (An Bang)… suy giảm dần. Năm 1467, thuyền buôn Xiêm La đến Vân Đồn dâng biểu bằng vàng lá và hiến sản vật quý để xin thông thương nhưng bị vua Lê Thánh Tông từ chối. 19 Chính sách nghiêm ngặt đó là trở lực kìm hãm sự phát triển kinh tế hàng hoá, làm cho quá trình tách rời thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp và quá trình phát triển của các đô thị rất khó khăn 2.3. Giáo dục Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám, ở kinh thành Thăng Long mở trường học, các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát. Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ và 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên. Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương pháp giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng. Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484, các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới Nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ. Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan