Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015
Mục lục
I.
Cơ sở lý luận..................................................................................................................3
1. Khái niệm chung:.......................................................................................................3
2. Phân loại......................................................................................................................3
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất..........................................................................5
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
Yếu tố ảnh hưởng về cung cầu vốn vay................................................................5
Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng.........................................................................7
Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế...............................................................................8
Ảnh hưởng của các chính sách của Nhà nước đến lãi suất.................................8
Ảnh hưởng của nợ xấu ngân hàng đến lãi suất..................................................11
Những thay đổi trong đời sống xã hội................................................................11
Các nhân tố khác.................................................................................................12
4. Vai trò của lãi suất...................................................................................................12
II.
Thực trạng lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất giai đoạn 2011 – 2015
14
1. Năm 2011...................................................................................................................14
1.1
1.2
1.3
Diễn biến lãi suất.................................................................................................14
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất và biện pháp của chính phủ:.....................18
Đánh giá hiệu quả của các biện pháp chính phủ:...............................................19
2. Năm 2012..................................................................................................................22
2.1
2.2
2.3
2.4
Diễn biến lãi suất.................................................................................................22
Nguyên nhân biến động lãi suất.........................................................................25
Biện pháp của Chính phủ....................................................................................26
Đánh giá biện pháp của Chính phủ.....................................................................27
3. Năm 2013..................................................................................................................27
3.1
3.2
3.3
3.4
Diễn biến lãi suất.................................................................................................27
Nguyên nhân biến động lãi suất.........................................................................32
Chính sách chính phủ..........................................................................................32
Đánh giá biện pháp của Chính phủ và tác động.................................................32
4. Năm 2014..................................................................................................................33
4.1.
4.2
4.3
4.4
Diễn biến lãi suẩt.................................................................................................33
Nguyên nhân biến động lãi suất.........................................................................36
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:...................................................................36
Các biện pháp và đánh giá các biện pháp của Chính phủ:.................................37
5. Năm 2015..................................................................................................................38
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
5.1
5.2
5.3
5.4
III.
Diễn biến lãi suất.................................................................................................39
Nguyên nhân biến động lãi suất.........................................................................41
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất....................................................................42
Biện pháp của chính phủ.....................................................................................43
Đề xuất giải pháp.....................................................................................................45
1. Định hướng điều hành lãi suất của Chính phủ trong thời gian tới............................45
2. Đề xuất giải pháp chung............................................................................................47
2
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
I.
1.
Cơ sở lý luận
Khái niệm chung:
Dưới quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lãi suất là giá cả cho vay, là chi
phí về việc sử dụng vốn và những chi phí để sử dụng các dịch vụ tài chính khác.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá
trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần
vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là giá mà người đi vay phải trả để được sử
dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì
hoãn chi tiêu.
2.
2.1
2.2
-
Phân loại
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với khoản tín dụng ngắn hạn
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với khoản tín dụng trung hạn
Lãi suất dài hạn áp dụng đối với khoản tín dụng dài hạn
Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được
Lãi suất danh nghĩa Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời
-
điểm nghiên cứu hay là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín dụng và
-
ghi rõ trên công cụ nợ.
Lãi suất thực lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát
-
hay là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho
vay nhận được.
2.3 Căn cứ vào phương pháp tính lãi
-
Lãi suất đơn: lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suất kỳ hạn vay.
Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong
thời hạn sử dụng tiền vay
2.4 Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
Lãi suất cố định là lãi suất được ấn định 1 mức cụ thể trong hợp đồng vay vốn,
không chịu tác động của những biến động lãi suất thị trường. Lãi suất này sẽ không
thay đổi trong suốt thời gian vay vốn tại ngân hàng. Thông thường áp dụng trong
-
cho vay ngắn hạn.
Lãi suất thả nổi lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ, biến đổi theo thời gian.
Mức điều chỉnh và kỳ điều chỉnh lãi suất sẽ theo thỏa thuận giữa khách hàng và
3
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
ngân hàng (không trái với pháp luật) và được quy định rõ trên hợp đồng vay vốn.
Thông thường, kỳ điều chỉnh lãi suất là 3 tháng/lần, 6 tháng/lần, hoặc 1 năm/lần.
Mức điều chỉnh lãi suất thường được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lớn hơn
hoặc bằng 12 tháng (tùy mỗi ngân hàng)+ biên độ nhất định (nhưng không vượt quá
mức khống chế trần lãi suất của ngân hàng nhà nước); hoặc bằng lãi suất cho vay
công bố của ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh. Thông thường áp dụng cho vay
trung và dài hạn.
2.5 Căn cứ vào loại tiền vay
Lãi suất nội tệ là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ
Lãi suất ngoại tệ là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ
2.6 Lãi suất ngân hàng thương mại
Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người
gửi tiền trên số tiền ở tàu khoản tiền gửi tiết kiệm
Lãi suất cho vay ngân hàng là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi
-
đi vay từ ngân hàng, tùy vào tính chất của món vay và thời gian vay vốn.
Lãi suất chiết khấu được áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và
được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng.
Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung
gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn
chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng thương mại. Nó cũng được tính bằng tỷ
lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân
hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng
trung ương ấn định và thông thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong
trường hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng, nhằm
kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ngân hàng trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết
khấu bằng hoặc thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng.
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà ngân hàng trung ương thực hiện hành vi cấp vốn
-
cho ngân hàng thương mại.
Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng trung ương quy định được các ngân hàng
-
thương mại sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên
thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ
4
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho
các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương.
3.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất luôn biến động và phụ thuộc vào các nhân tố
kinh tế vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác.
3.1 Yếu tố ảnh hưởng về cung cầu vốn vay
Lãi suất thực chất là giá cả của khoản tiền vay, vì vậy nó được quyết định bởi quan
hệ cung cầu vốn vay trên thị trường. Khi các doanh nghiệp, Chính phủ phát hành chứng
khoán nợ , ví dụ như phát hành trái phiếu để huy động vốn, cung trái phiếu cho thị trường
và do đó, cầu quỹ cho vay được tạo nên. Còn khi các chủ thể có vốn tiết kiệm mua trái
phiếu sẽ hình thành cầu trái phiếu và cung ứng vốn cho thị trường. Cung tiền tệ là tổng
thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên thị trường. Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của
các đơn vị ,cá nhân ,tổ chức để làmphương tiện giao dịch trao đổi hàng hoá ,dịch vụ.
3.1.1 Cầu quỹ cho vay :
Cầu quỹ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng
-
của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
Cầu quỹ cho vay biến động ngược chiều với lãi suất. Vì lẽ đó, đường cầu biểu diễn
mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quỹ cho vay là đường dốc xuống. Độ dốc càng
thoải phản ánh mức độ nhạy cảm càng cao của lượng cầu quỹ cho vay đối với mỗi
phần trăm lãi suất thay đổi.
Cầu quỹ cho vay được cấu thành từ:
Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình: nhằm mục đích đầu tư và
trang trải các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Nhu cầu vay vốn của khu vực Chính phủ: nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt ngân
sách Nhà nước.
Nhu cầu vay vốn của các chủ thể nước ngoài (bao gồm doanh nghiệp, Chính phủ
nước ngoài, các tổ chức trung gian tài chính nước ngoài).
Sự ảnh hưởng của lăi suất tới mỗi bộ phận cấu thành nên cầu quỹ cho vay :
Đối với Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình : Trong điều kiện
các yếu tố ngoại sinh ( lạm phát dự tính, khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội
đầu tư) không đổi, nhu cầu vốn của doanh nghiệp và của hộ gia đình rất nhạy cảm
với biến động của lăi suất.
5
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
Đối với Nhu cầu vay vốn của khu vực Chính phủ: Nhu cầu này độc lập với sự biến
động của lăi suất.
Đối với Nhu cầu vay vốn của các chủ thể nước ngoài : Nhu cầu của loại chủ thể
này phản ứng với sự chênh lệch lăi suất giữa hai quốc gia và phụ thuộc rất nhiều
vào mức độ mở cửa và khả năng di chuyển vốn.
3.1.2 Cung quỹ cho vay
Cung vốn vay là khối vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác trong xã
hội. Cung vốn vay được tạo bởi các nguồn sau:
Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình. Đây là bộ phận quan trọng nhất của quỹ cho
vay.
Trong điều kiện bình thường, tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu
lãi suất tăng sẽ làm tăng nhu cầu tiết kiệm và ngược lại. Tuy nhiên mức độ nhạy
cảm này còn tùy thuộc vào tình trạng của nền kinh tế như thói quen tiết kiệm và
tiêu dùng của công chúng.
Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp dưới hình thức quỹ khấu hao có
bản, lợi nhuận chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng. Nguồn vốn này biến động
cùng chiều với lãi suất tuy không nhạy cảm như nhiều nguồn vốn trên.
Các khoản thu chưa sử dụng đến của ngân sách nhà nước. Bộ phận này chỉ chiếm
một phần nhỏ trong tổng quỹ cho vay của nền kinh tế và không phụ thuộc vào lãi
suất.
Nguồn vốn của các chủ thể nước ngoài có thể là chính phủ, có thể là doanh nghiệp,
có thể là dân cư nước ngoài. Sự biến động của nguồn vốn này cùng chiều với sự
biến động của lãi suất.
Như vậy, cung vốn vay được tạo bởi số vốn dư thừa chưa sử dụng đến của các hộ
đình, các doanh nghiệp và chính phủ và nước ngoài. Trong điều kiện các nhân tố
khác (lạm phát dự tính, của cải...) không thay đổi, cung vốn vay tăng khi lãi suất
giảm và ngược lại. Đường cung vốn vay biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất và
lượng cung vốn vay là đường dốc lên. Độ dốc càng thoải thể hiện cung vốn vay
càng nhạy cảm với lãi suất.
6
Lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất tại Việt Nam 2011-2015
Đường cung và cầu vốn vay cắt nhau tại điểm cần bằng, hình thành nên mức lãi
suất cân bằng trên thị trường (là mức lãi suất mà thị trường luôn hướng tới). Đó là
mức lãi suất làm lượng cung vốn vay bằng với lượng cầu vốn vay
3.2 Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự báo sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có
xu hướng tăng do. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh
nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng, đòi hỏi lãi suất
danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành
phần tích kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hóa hoặc vàng, ngoại tệ mạnh, đầu tư vốn
ra nước ngoài. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực làm tăng lãi suất.
Hiệu ứng Fisher: Khi lạm phát kỳ vọng tăng lên sẽ dẫn đến tỷ lệ lợi tức kì vọng đối
với việc cho vay giảm xuống, làm cho cung vốn vay giảm. Ngoài ra, chi phí thực của việc
vay mượn giảm, cầu của vốn tín dụng tăng lên.
3.3
7
3.4 Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
-
Ảnh hưởng đến cung vốn vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên,
công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng, họ muốn
đầu tư vào những tài sản thay thế có cơ hội sinh lời cao, vì vậy cung vốn vay tăng
lên, lãi suất có xu hướng giảm.
Ảnh hưởng đến cầu vốn vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh, nhất là trong
-
giai đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, đầu tư sẽ đem lại mức sinh lời cao
hơn, doanh nghiệp sẵn lòng vay vốn hơn. Cầu tiền vay tăng lên, đường cầu dịch
chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.
3.5
Ảnh hưởng của các chính sách của Nhà nước đến lãi suất
Mục tiêu của nền kinh tế phát triển: Tạo ra sản lượng cao , tăng nhanh
tổng sản phẩm quốc dân , đạt tỷ lệ thất nghiệp thấp, đảm bảo ổn định giá cả trong
điều kiện thị trường tự do hoạt động. Để đạt được mục tiêu trên , Nhà nước phải
sử dụng các công cụ bằng các chính sách có thể điều chỉnh tốc độ và phương
hướng của hoạt động kinh tế.
Chính sách tài chính: Bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khóa. Chi
tiêu của chính phủ là một nhân tố then chốt định mức tổng chi tiêu. Khi nhà nước
thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng (tăng chỉ tiêu của Chính phủ và giảm
thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ,
từ đó ảnh hưởng đến lãi suất. Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng
tổng cầu, khi chính phủ giảm thuế, làm cho thu nhập nhiều hơn được dành cho chỉ
tiêu và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chỉ tiêu, tiêu dùng . Mức cao hơn
của tổng sản phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ, lãi suất tăng.
-
Ảnh hưởng của thâm hụt NSNN
Bội chi ngân sách nhà nước làm tăng cung trái phiếu chính phủ, giảm thị giá trái
-
phiếu, làm tăng cầu quỹ cho vay do vậy mà làm tăng lãi suất.
Bội chi ngân sách nhà nước sẽ tác động đến mức lạm phát, làm gia tăng lạm phát
gây áp lực làm tăng lãi suất.
Thay đổi về thuế
Khi chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập hơn được sẵn sang để chi tiêu và
làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chi tiêu, tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản
phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.
Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc
giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu tư vào máy móc, nhà
máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch
chuyển về bên phải, lãisuất tăng lên.
Chính sách tiền tệ: Với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng
Trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một
quốc gia. Với công cụ lãi suất, ngân hàng Trung ương có thể điều tiết hoạt động
của nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau: Ngân hàng có thể quy định lãi
suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhắm thực
hiện được mục tiêu giảm lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
NHTW thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: ngân hàng Trung ương
tái chiết khấu các chứng từ do ngân hàng thương mại xuất trình với điều kiện ngân
hàng phải trả một lãi suất nhất định do ngân hàng Trung ương đơn phương quy
định. Mỗi khi lãi suất chiết khấu thay đổi, có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí
cho vay của ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng, do đó khuyến khích hay cản trờ nhu cầu vay vốn. Vì vậy thông qua việc
điều chỉnh lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích mở rộng
hay làm giảm khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế.
Do thay đổi lãi suất chiết khấu, ngân hàng Trung ương có thể tác động gián tiếp
vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết khấu cao hay thấp sẽ làm thay đổi lượng
vay của ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối
cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường. Ngân hàng trung ương thực hiện
chính sách thị trường mở: có nghĩa là ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua
bán giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chính của chính sách thị
trường mở là điều hòa cung cầu về các chứng phiếu có giá, để tác động vào các
ngân hàng thương mại trong việc cung cầu tiền tệ, cung ứng tín dụng.
Ngân hàng Trung ương tăng hay giảm mức dự trữ bắt buộc: khi tỉ lệ dự
trữ tăng lên tức là ngân hàng Trung ương quyết định giảm bớt số vốn khả dụng của
ngân hàng, kéo theo những khó khăn ngân quỹ cho các ngân hàng, hạn chế tín
dụng của ngân hàng và ngược lại. Do đó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất
trên thị trường.
Chính sách thu nhập: đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu mức
giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị
thực tế tăng, bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do vậy
điều này tương tự như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức
giá được giữ cố định, làm lãi suất giảm. Ngược lại một mức giá cao hơn làm giảm
cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm tăng lãi suất. Như vậy một sự thay đổi về
chính sách gia cả cũng làm thay đổi lãi suất. Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của
chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị sản phẩm tại mọi mức giá,
giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm.
Ảnh hưởng của chính sách tỉ giá đến lãi suất: Bao gồm các biện pháp liên
quan đến việc hình thành quan hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với một
ngoại tệ khác, nhất là đối với các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. Tỷ giá sẽ tác
động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một nước.
Khi nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng
chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận
giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỉ giá
ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi
tăng lên, lãi suất giảm. Vì vậy khi thấy đồng nội tệ sút giá, ngân hàng Trung ương
sẽ theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, nâng lãi
suất trong nước, làm cho đồng nội tệ mạnh hơn.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nên
công nghiệp trong nước có thể bị sự cạnh tranh tăng lên của nước ngoài, kích thích
nhập khẩu. Lượng tiền tệ tăng do một tỉ giá thấp, với một lượng vốn đầu tư nhất
định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư vào sản xuất, lãi suất tăng lên.
Như vậy khi có sự cạnh tranh tăng lên giữa nên công nghiệp trong nước với công
nghiệp nước ngoài, có thể gây áp lực buộc ngân hàng trung ương phải theo đuổi
một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn nhằm hạ thấp tỷ giá.
3.6 Ảnh hưởng của nợ xấu ngân hàng đến lãi suất
Nợ xấu là nguyên nhân chủ yếu tác động lên thị trường lãi suất: Nợ xấu gây
mất vốn, làm giảm thanh khoản tại một số ngân hàng
Khó khăn của ngân hàng là tìm cách giảm tỷ lệ nợ xấu, hạn chế rủi ro cho hệ
thống nên buộc phải sàng lọc đối tượng vay vốn.( một trong những cách hiệu quả
là tăng lãi suất cho vay và áp dụng một số quy định về đối tượng cho vay)
Khi nợ xấu tăng, các NHTM không chỉ không thu hồi được nguồn vốn đã cho vay,
mà còn phải tăng huy động để tiếp tục hoạt động kinh doanh, tăng trích lập dự phòng rủi
ro, đảm bảo thanh khoản, giảm tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ, thậm chí để đảo nợ...
3.7 Những thay đổi trong đời sống xã hội
Sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống
xã hội. Tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến độn tài chính quốc tế, các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư… đều có tác
động nhất định đến lãi suất trong nước.
3.8
-
Các nhân tố khác
Các chính sách và sự can thiệp của nhà nước
Mức độ rủi ro của món vay
Thời hạn của món vay
4.
Vai trò của lãi suất
Lãi suất là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền nhàn
rỗi trong xã hội tập trung vào quỹ tín dụng. Lãi suất là công cụ để đo lường "sức
khỏe" của nền kinh tế. Vai trò của lãi suất thể hiện trên cả tầm vĩ mô và vi mô.
Xét trên tầm vĩ mô, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ,
góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ nhất, nhà nước có thể thông qua lãi suất tín dụng để thực hiện điều chỉnh
lượng cung ứng tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản lượng để thực hiện điều
tiết nền kinh tế (ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát triển sản xuất).
Thứ hai, lãi suất tín dụng tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác
động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của
dân cư. Khi lãi suất tín dụng tăng cao, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, gửi tiết
kiệm nhiều hơn và doanh nghiệp sẽ thận trọng trong các hoạt động đầu tư vì vậy
tổng cầu và tổng cung đều có xu hướng giảm. Ngược lại, lãi suất tín dụng hạ thấp
khuyến khích tiêu dùng, các khoản gửi tiết kiệm sẽ hạn chế hơn trong khi đó
doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tổng cung và
tổng cầu đều có xu hướng tăng cao.
Thứ ba, lãi suất tín dụng được sử dụng làm công cụ điều hòa cung cầu ngoại
tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Nâng cao lãi suất tín dụng sẽ hút
ngoại tệ vào trong nước làm tăng cung ngoại tệ. Hạ thấp lãi suất tín dụng sẽ đẩy
ngoại tệ ra ngoài nước, làm giảm cung và tăng cầu ngoại tệ.
Thứ tư, trong chừng mực nhất định, người ta có thể sử dụng lãi suất để thực
hiện điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực nhằm đảm bảo sự thích ứng của nền
kinh tế với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước có thể thực
hiện cho vay với lãi suất ưu đãi cho những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề,
khu vực kinh tế được khuyến khích nhờ vậy có thể kích thích sự phát triển của
những ngành nghề và những khu vực này nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xét trên góc độ vi mô, sự ảnh hưởng của thay đổi lãi suất tín dụng thể hiện ở
hai góc độ:
Một là, lãi suất tín dụng là công cụ thực hiện các hoạt động của các trung
gian tài chính trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh để đảm bảo tính tự chủ tài
chính của các tổ chức này, tạo ra nguồn lực tài chính để các tổ chức này tồn tại và
phát triển.
Hai là, lãi suất tín dụng tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp và đời sống của dân cư.
II.
1.
Thực trạng lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất giai đoạn 2011 – 2015
Năm 2011
Năm 2010 là một năm đầy biến động với nền kinh tế thế giới và VN cũng
chịu không ít những ảnh hưởng: bối cảnh kinh tế vĩ mô VN có nhiều bất ổn, lạm
phát ở mức cao lên đến 2 con số, thị trường tài chính dậy song, thị trường bất động
sản kém ổn định, them vào đó là đồng đô la Mỹ biến động mạnh, giá vàng cao kỉ
lục … nên đến năm 2011, tình hình biến động vẫn tiếp diễn và những dấu hiệu
phục hồi kinh tế còn rất chậm nên cũng không tránh khỏi những khó khăn cho hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là những cú sốc về lãi suất. Có thể nói năm 2011 cũng
là một năm đánh dấu sự thay đổi cơ cấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.1 Diễn biến lãi suất
a. Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn:
Biều đồ 1.1: Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn năm 2011
Nguồn: cafef
Qua biểu đồ ta thấy lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn duy trì ờ mức rất
cao, được NHTW điều chỉnh tăng dần làm các thời điểm trong năm. Ngày 17/2
NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn từ 9%/năm lên 11%/năm. Đến ngày 8/3/2011
NHTW đã có Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu là 12%/năm. Lần thứ hai kể từ đầu năm NHNN tăng một số loại lãi suất điều
hành. Trong lần điều chỉnh này lãi suất tái chiết khấu tăng mạnh từ 7% lên
12%/năm. Như vậy, ngay từ đầu năm NHNN đã tăng các loại lãi suất cơ bản, thể
hiện rõ quyết tâm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát của NHNN. Kể từ đầu
tháng 4, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn lại tăng lên 13%. Đây là lần thứ
3 NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn với tổng mức điều chỉnh là 4%, từ 9% lên 13%.
Việc tăng lãi suất này đã có tác động tiêu cực đến mặt bằng lãi suất trong ngắn
hạn, là yếu tố gây mất ổn định thị trường tiền tệ, nhưng về trung và dài hạn sẽ góp
-
phần nâng cao tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
Từ ngày 1/5 NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn lên 14%/năm, thay cho mức 13%/năm
-
áp dụng từ ngày 1/4.
Từ ngày 10/10/2011 NHNN điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên
15%/năm. Việc tăng liên tục các loại lãi suât được coi là một thông điệp nữa của nhà
nước nhằm thực hiện thắt chặt tiền tệ, khiến các NHTM khó tiếp cận nguồn vốn từ
NHNN với chi phí cao, buộc các NHTM phải tự chủ hơn, tìm kiếm nguồn huy động
vốn từ bên ngoài, hạn chế cung tiền. Ngoài ra khi nền kinh tế đang có tăng trưởng
tín dụng nóng thì việc dùng lãi suất cao sẽ khiến kéo cầu kinh tế xuông, giảm sức
nóng của nền kinh tế, giảm tiêu dùng và kiềm chế lạm phát.
b. Lãi suất huy động:
Thời điểm đầu năm lãi suất huy động vốn VNĐ phổ biến ở mức 13.5-14%, đến thời
điểm tháng 6, lãi suất huy động bình quân tại các NHTM là khoảng 15-15.5%/năm.
Tại các địa phương thậm chí lãi suất huy động ngầm có thể lên đến 19%/năm.
Tháng 7 ghi nhận việc vượt trần lãi suất của các ngân hàng không chỉ VNĐ mà lan
sang cả USD, cao hơn mức 3%/năm so với quy định, nhưng đến cuối tháng 8, lãi
-
suất giảm dần còn 16-17%/năm, tuy nhiên đây vẫn là mức rất cao.
Đến tháng 9, NHNN đã có những biện pháp mạnh nhằm hạ lãi suất về mức ổn định
hơn, đặc biệt là việc NHNN có các biện pháp mạnh tay hơn trong việc thực hiện quy
định lãi suất huy đông trần 14%/năm được đưa ra từ hồi tháng 3/2011 áp dụng cho
tất cả các kì hạn. Cơ chế này được thiết lập nhằm ổn định thị trường, định hướng thị
trường theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt trong tình trạng nền kinh
tế đang có nhiều bất ổn, lạm phát cao.
c. Lãi suất cho vay
Do lãi suất huy động ở mức cao kéo theo lãi suất cho vay tổng quan năm 2011 cũng
ở mức rất cao. Quý I/2011, lãi suất cho vay bình quân là 16.23%/năm, tăng khoảng
1-1.5% so với cuối năm 2010, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới,
-
khi lượng tín dụng cho vay giảm mạnh, tiền mặt trở lên khan hiếm.
Theo số liệu của NHNN chính thức công bố tình hình tiền tệ, tín dụng trong tháng
5/2011 được đưa ra ngày 6/6, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng
18,3%/năm, tăng 3% so với cuối năm 2010, thậm chí còn tăng lên 18,73% vào tháng
8/2011. Theo báo cáo của NHNN, mức lãi suất cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất
bao gồm bất động sản, chứng khoán hay tiêu dùng còn cao hơn mức lãi suất trung
bình từ 3 - 5%.
Biều đồ 1.2: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay năm 2011
-
Nguồn: NHNN
Thời điểm tháng 7/2011 lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất lên đến 25%/năm,
đồng USD lên đến 6-8%/năm. Nguyên nhân là do lạm phát tăng cao vì vậy lãi suất
thực âm, khó huy động vốn, các ngân hàng phải áp dụng tăng lãi suất huy động để
tăng sức hấp dẫn, lãi suất danh nghĩa cần tăng cao đủ để bù đắp tỷ lệ lạm phát (lên
đến 22%), kéo theo lãi suất cho vay tăng cao. Đến cuối tháng 8, lãi suất cho vay
giảm còn 20-22%/năm. Tháng 8/2011 NHNN giám sát chặt chẽ và ra quyết định
giảm mức lãi suất cho vay còn 17-19%/năm. Mức lãi suất đã giảm tuy nhiên vẫn
còn tương đối cao nên khả năng tiếp cận tín dụng cũng không dễ dàng, khá khắt
khe.
d.
Lãi suất liên ngân hàng
Biểu đồ 1.3: lãi suất bình quân liên ngân hàng năm 2011
LÃI SUẤT BÌNH QUÂN LIÊN NGÂN HÀNG NĂM 2011
18.00
16.00
14.00
qua đêm
1 tuầầ n
một tháng
ba tháng
6 tháng
12.00
10.00
8.00
6.00
4.00
2.00
0.00
1-Jan 2-Feb 3-Mar 4-Apr 5-May 6-Jun 7-Jul 8-Aug 9-Sep 10-Oct11-Nov12-Dec
Nguồn: NHNN
Từ biểu đồ cho thấy nhìn lãi suất liên ngân hàng trong năm 2011 duy trì ở
mức khá cao, có dao động không đều: khá ổn định trong 6 tháng đầu năm và có
xu hướng tăng dần, dao động mạnh trong 6 tháng cuối năm. Cụ thể trong 6 tháng
đầu năm lãi suất duy trì khá ổn định ở mức 12-14%, trong tháng 2, lãi suất một
tuần giảm đột ngột từ 13,28% xuống còn 11,57% nhưng sau đó lại nhanh chóng
tăng lên mức 13,18% trong tháng 3 và duy trì ổn định, ít dao động. Các loại lãi
suất 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng không có thay đổi lớn, ổn định đều luôn khoảng trên
13%. Lãi suất một tuần có một số khoảng thời gian tăng nhẹ, vượt lên trên lãi suất
một tháng vào tháng 3 và tháng 5.
Thời gian từ tháng 6 đến tháng 9 lãi suất có khá nhiều biến động, lãi suất 6
tháng đột ngột tăng cao vào tháng 7 ở mức 14.92%, lãi suất qua đêm và một tuần
có xu hướng giảm nhẹ vào tháng 8 xuống lần lượt 10,88% và 12,66%. Một lí do
đáng nói cho nguyên nhân này là do trong tháng 8, ông Nguyễn Văn Bình nhậm
chức thống đốc NHNN đã có những biểu hiện quyết tâm cao trong việc tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng, hạ lãi suất, bình ổn thị trường vàng, ngoại tệ rõ rệt. Tuy
nhiên, các loại lãi suất 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng có tăng nhẹ nhưng vẫn khá đồng
đều dao động trong mức 13-14%.
Trong ba tháng cuối năm, nhìn chung các loại lãi suất kì hạn đều có xu hướng
tăng nhẹ, duy trì ở mức 12-14% tuy nhiên có sự tăng cao đột ngột của lãi suất 6
tháng đỉnh điểm cao nhất trong năm vào tháng 11 tăng lên 16,10% (tăng 1,2% so
với tháng 10) nhưng đến tháng cuối cùng giảm nhẹ xuống còn 14,58%.
Qua đó, ta thấy lãi suất liên ngân hàng năm 2011 nhìn chung không có quá
nhiều biến động, sự tăng giảm đột ngột quá lớn không nhiều, đa số duy trì ổn định
ở mức 12-14%, có một số thời điểm lãi suất qua đêm lớn hơn lãi suất 1 tuần hoặc
thậm chí lớn hơn lãi suất 3 tháng, đa phần lãi suất 6 tháng luôn duy trì ở mức cao
hơn cả. Có một số thời điểm, lãi suất kì hạn 6 tháng theo ngày còn lên tới 36,58%,
nhiều ngày khác có mức cao trên 20%. Xét về tổng thể, lãi suất liên ngân hàng cả
năm rất cao so với các năm khác.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất và biện pháp của chính phủ:
-
Với bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam bất ổn, lạm phát tăng cao, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết 11về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực thiện kế
hoạnh phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước trong năm 2011
nhằm kiểm soát lạm phát,ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong đó có
chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng.
-
Trước tình hình đó, hệ thống các ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, bất lợi khi
các luồng vốn chu chuyển trong nền kinh tế không được khả quan, dễ dàng, chính
phủ thắt chặt các chính sách tiền tệ. Tuy nhiên khi tăng mức lãi suất tái chiết khấu
và tái cấp vốn khiến các NHTM khó tiếp cận nguồn vốn từ NHNN, dẫn đến tăng
-
mức lãi suất huy động vốn lên cao.
Tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng gia tăng đều đặn từ đầu năm do kinh tế biến
động, nhiều doanh nghiệp thua lỗ không thể trả đúng hạn cùng với sự xuống dốc của
thị trường bất động sản khiến các khoản vay ngân hàng đến hạn trả đều không có
khả năng thanh toán. Nhiều ngân hàng bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản . Theo
thống kê từ tháng cuối 3/2011, nợ xấu toàn hệ thống tăng cao so với cuối năm 2010,
đặc biệt nợ nhóm 3 tăng khoảng 38%, nợ nhóm 4 tăng gần 30%, nợ nhóm 5 tăng
12%. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng giảm do không thu hồi được nợ.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến lãi suất thị trường liên ngân hàng trở
-
nên hết sức “nóng”, trở thành những khoản giao dịch phải chịu lãi suất cao.
Trong một năm có nhiều bất ổn về kinh tế vĩ mô, khi nguồn huy động vốn của các
NHTM bị hạn chế, buộc phải tăng mạnh lãi suất từ dân cư, khiến các NHTM sa vào
cuộc đua lãi suất. Tháng 5/2011 lãi suất huy động VND lên đến 20%/năm, lãi suất
cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay phi sản xuất từ 2528%/năm. Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh
-
khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao.
Để hạ tình trạng căng thẳng trên, vào những tháng cuối năm, ngân hàng nhà nước đã
bơm ròng hơn 18.000 tỷ đồng với kì hạn 14 ngày là chủ yếu vào thị trường OMO.
Tuy nhiên để vay được vốn của NHNN thông qua nghiệp vụ OMO thì các NHTM
phải có trái phiếu CP như là tài sản cầm cố nên không giúp ích nhiều cho tình trạng
thiếu vốn của thị trường tiền tệ do các ngân hàng nhỏ không có nhiều trái phiếu để
tham gia hoạt động này. Trên thực tế chỉ có một số các NHTM nắm giữ phần lớn
lượng trái phiếu Chính phủ đang lưu hành.
1.3 Đánh giá hiệu quả của các biện pháp chính phủ:
a.
Ưu điểm:
Chính sách trần lãi suất huy động bước đầu làm giảm lãi suất cho vay vào
thời điểm cuối năm 2011. NHNN đã có những biện pháp kiên quyết trong việc áp
dụng mức lãi suất trần với các NHTM, xử phạt nghiêm nếu phát hiện các NHTM
vi phạm quy định lãi suất trần, góp phần làm cho lãi suất ngân hàng những tháng
cuối năm 2011 ổn định và giảm dần.
Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn được coi là các công cụ lãi suất
của NHNN để điều hành, ổn định thị trường tiền tệ. Việc tăng lãi suất đồng nghĩa
với việc thắt chặt tiền tệ là một biện pháp cần thiết để ngăn chặn lạm phát, ổn định
vĩ mô, ngoài ra còn giúp ổn định tỷ giá, việc tăng lãi suất đồng nghĩa với việc
đồng nội tệ sẽ có giá trị hơn, dẫn đến giảm nhu cầu nắm giữ ngoại tệ. Chẳng hạn
lãi suất tái cấp vốn cao thì NHTM thay vì chiết khấu giấy tờ có giá họ sẽ bán ngoại
tệ cho NHNN để lấy tiền đồng vì chi phí đối với việc bán ngoại tệ sẽ thấp hơn việc
vay vốn từ NHNN.
Đối với những NHTM nhỏ gặp khó khăn về thanh khoản, NHNN đã có
những động thái tự nguyện và tích cực trong việc ủng hộ chiến lược tái cấu trúc hệ
thống của NHNN. Điển hình là quyết định đầu tiên về hợp nhất ba ngân hàng: Đệ
Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB) trong
tháng 12/2011 đã không làm xáo động đến hệ thống ngân hàng cũng như tâm lý
khách hàng của những ngân hàng này. Việc giải quyết những khó khăn cơ bản của
các NHTM nhỏ là biện pháp hữu hiệu trong việc kiểm soát lãi suất và góp phần
làm cho lãi suất ngân hàng những tháng cuối năm 2011 trở nên ổn định và giảm
dần.
Vấn đề thanh khoản của các ngân hàng cũng đã được cải thiện đáng kể khi
NHNN đã mua khoảng 5 - 7 triệu USD trong năm 2011 và cung cấp các khoản cho
vay tái chiết khấu đối với các NHTM nhỏ nhằm giúp các ngân hàng này giải quyết
vấn đề thanh khoản của mình.
Các tác động của việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ giúp đồng tiền được ổn
định dần, tăng trưởng tín dụng chậm lại, chi tiêu dùng và đầu tư chậm lại. Điều
này sẽ góp phần kìm hãm lạm phát.
b.
Nhược điểm:
Việc NHNN thực hiện các chính sách nhằm thắt chặt tiền tệ lại làm tăng lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi tại các NHTM. Nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh giữa các NHTM, thực tế NHNN đã quy định mức trần cho lãi suất huy động vốn
cho các NHTM là 14% theo Thông tư 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011. Tuy nhiên vẫn
chưa đạt hiệu quả khi đứng trước tình hình kém thanh khoản, nhiều NHTM nhỏ vẫn tìm
mọi cách để “lách” quy định của NHNN, chưa thể chấm dứt các cuộc chạy đua lãi suất
huy động ngầm. Mức lãi suất huy động và cho vay vẫn liên tục tăng đều trong năm (như
phân tích và biểu đồ ở trên). Tình hình chỉ khá hơn cho đến khi NHNN có những động
thái kiên quyết mạnh tay hơn vào cuối năm.
Với sự thắt chặt của chính sách tiền tệ và sự khan hiếm tiền của các NHTM, dòng
tín dụng chính thức bắt đầu bị chặn lại trong khi thị trường bất động sản vẫn đang tiếp tục
đóng bang làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí và lòng tin của người dân và nhà đầu tư
đến khả năng ổn định của nền kinh tế.
Sự căng thẳng về lãi suất trong việc duy trì trần lãi suất đã làm gia tăng nợ xấu của
các NHTM. Đặc biệt, các NHTM nhỏ gặp căng thẳng về thanh khoản nhưng lại không
thể huy động được vốn do không có lợi thế cạnh tranh, các ngân hàng này cũng là những
ngân hàng thường có tỷ lệ cho vay bất động sản lớn. Khi dư nợ tín dụng không tăng thì
nợ xấu sẽ gia tăng từ các khoản cho vay bất động sản và sự phá sản của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa do không tiếp cận được vốn tín dụng, điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ
thống NHTM.
Kết luận
Có thể thấy trong năm 2011 vừa qua, những chính sách về lãi suất đã có ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế, mặc dù sự biến động quá nhiều của lãi suất đã gây
một cú sốc lớn cho các doanh nghiệp, nhưng không thể phủ nhận rằng nó đã góp
phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. theo Báo
cáo Triển vọng phát triển châu Á 2011, Chính phủ Việt Nam được dự báo sẽ duy
trì chính sách thắt chặt tài chính và tiền tệ cho đến khi lạm phát sụt giảm, niềm tin
vào tiền đồng được củng cố và dự trữ ngoại tệ tiếp tục được tăng cường Từ những
biện pháp cải thiện tình hình có những tích cực và cũng còn tồn tại những nhược
điểm, NHNN Việt Nam cần tiếp tục có những chiến lược và lộ trình phù hợp trong
thời gian tới, điều chỉnh lãi suất phù hợp cùng với mục tiêu ổn định nền kinh tế.
- Xem thêm -