Luận văn tốt nghiệp
1
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây tăng trưởng hết sức ấn
tượng, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới WTO và việc phát triển của thị trường chứng khoán đã và
đang làm xuất hiện một nhu cầu mới trên thị trường, đó là nhu cầu về dịch vụ
kiểm toán. Kiểm toán đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của
mình trong nền kinh tế.
Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình thu thập bằng chứng kiểm
toán. Bằng chứng kiểm toán có vai trò đặc biệt quan trọng, đó là cơ sở để đưa
ra ý kiến kiểm toán, sự thành công của cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết
vào việc thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán. Các kỹ thuật thu thập
bằng chứng được sử dụng trong toàn bộ phần hành kiểm toán, toàn bộ các
giai đoạn của quy trình kiểm toán. Hiểu biết về kỹ thuật thu thập bằng chứng
giúp ích nhiều cho kiểm toán viên trong việc lựa chọn phương pháp, kỹ thuật
kiểm toán chu trình, phần hành cụ thể một cách hiệu quả nhất và càng giúp
ích nhiều hơn nữa với sinh viên chuyên ngành kiểm toán mới tốt nghiệp. Việc
tìm hiểu kỹ thuật thu thập bằng chứng và việc áp dụng linh hoạt các kỹ thuật
này trong kiểm toán báo cáo tài chính đem lại kiến thức cụ thể về công tác
kiểm toán đồng thơì sẽ phát huy tác dụng lớn hơn nữa khi được áp dụng vào
công việc thực tế trong tương lai không xa.
Trong suốt quá trình thực tập tại công ty TNHH Grant Thornton Việt
Nam, được công ty tạo điều kiện để nghiên cứu tài liệu và được làm việc thực
tế, em đã lựa chọn viết luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Kỹ thuật thu thập
bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH
Grant Thornton thực hiện”.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
2
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Luận văn tốt nghiệp bao gồm các nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính;
Chương 2: Kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán báo cáo tài chính
do công ty TNHH Grant Thornton thực hiện;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng
kiểm toán.
Trong quá trình tìm hiểu và viết bài, em đã nhận được nhiều sự giúp
đỡ. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian và nhận thức, luận văn không thể
tránh khỏi các sai sót vì vậy em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp. Em
xin chân thành cảm ơn thầy giáo – Th.s Phan Trung Kiên và các anh chị trong
Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
3
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KỸ THUẬT THU THẬP BẰNG
CHỨNG KIỂM TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Bằng chứng kiểm toán và thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm
toán báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm về bằng chứng kiểm toán và phân loại bằng chứng kiểm
toán
Bằng chứng là một khái niệm hay được dùng trong lĩnh vực pháp lý,
dùng để chứng minh cho điều gì đó là đúng, là có thật. Bằng chứng thu thập
được góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của
luật pháp.
Trong lĩnh vực kiểm toán, theo chuẩn mực kiểm toán số 500, Bằng
chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập
được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán
viên hình thành nên ý kiến của mình. Theo chuẩn mực này bằng chứng kiểm
toán gồm cả thông tin nhân chứng và vật chứng mà kiểm toán viên thu thập
làm cơ sở cho nhận xét của mình về báo cáo tài chính được kiểm toán. Bằng
chứng kiểm toán rất đa dạng cả về loại bằng chứng, nguồn gốc hình thành và
cách thức thu thập. Mỗi loại bằng chứng có tác động khác nhau tới việc hình
thành ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên khi tiến hành thu thập bằng chứng
phải xem xét đến tính hiệu lực, tính đầy đủ và số lượng bằng chứng cần thu
thập. Bằng chứng kiểm toán cần phải được thu thập và đánh giá đúng nhằm
đảm bảo cho kết luận kiểm toán là xác đáng.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
4
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
* Phân loại bằng chứng kiểm toán
Theo nguồn gốc hình thành, bằng chứng kiểm toán được phân loại
thành:
- Bằng chứng thu thập từ đơn vị được kiểm toán: là các tài liệu kế toán lấy từ
đơn vị được kiểm toán. Loại bằng chứng này có độ tin cậy thấp nhất bởi đây
là loại bằng chứng do chính đơn vị được kiểm toán cung cấp, ảnh hưởng đến
tính khách quan của bằng chứng thu thập.
- Bằng chứng thu thập từ bên thứ ba như hoá đơn chứng từ của người bán,
giấy xác nhận từ người bán, giấy xác nhận từ ngân hàng… Loại bằng chứng
này có độ tin cậy cao hơn được thu thập từ bên thứ ba mang tính khách quan
hơn, tuy nhiên với việc thu thập bằng chứng này, kiểm toán viên phải đảm
bảo kiểm soát được quá trình thu thập bằng chứng đảm bảo bằng chứng thu
thập được không có sự thông đồng với nội bộ công ty khách hàng.
- Bằng chứng do kiểm toán viên trực tiếp thu thập: là loại bằng chứng do
chính kiểm toán viên tính toán thông qua kỹ thuật phân tích, thông qua quan
sát, phỏng vấn…Loại bằng chứng này thường có độ tin cậy cao nhất bởi nó
trực tiếp do kiểm toán viên tạo dựa trên thông tin của khách hàng do đó
không bị tác động bởi các bên khác.
Theo thủ tục kiểm toán được áp dụng, bằng chứng kiểm toán được chia
thành bằng chứng phỏng vấn, bằng chứng kiểm kê, bằng chứng xác nhận,
bằng chứng kiểm tra tài liệu, bằng chứng quan sát, bằng chứng phân tích,
bằng chứng tính chính xác số học.
Ngoài ra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể kiểm toán viên còn có thể
phải thu thập thêm các bằng chứng đặc biệt gồm: ý kiến của chuyên gia, giải
trình của nhà quản lý, tư liệu của kiểm toán viên nội bộ, tư liệu của kiểm toán
viên khác, tài liệu của các bên hữu quan.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
5
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Đối với các vấn đề kiểm toán viên không am hiểu sâu sắc, kiểm toán
viên có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Tuy nhiên kiểm toán viên
vẫn sẽ là người chịu trách nhiệm sau cùng cho ý kiến trên báo cáo kiểm toán
của doanh nghiệp.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thu thập các bằng
chứng cho thấy rằng nhà quản lý (giám đốc) thừa nhận trách nhiệm với việc
lập và phê chuẩn báo cáo tài chính thích hợp. Tuy nhiên, giải trình của ban
giám đốc không được dùng để thay thế cho các bằng chứng khác. Mặc dù giải
trình của giám đốc không có giá trị lớn trong việc thu thập bằng chứng nhưng
đây là một thủ tục quan trọng. Nếu người quản lý từ chối không cung cấp,
kiểm toán viên có thể xác định rằng phạm vi kiểm toán bị giới hạn và có thể
đưa ra ý kiến từ chối hoặc chấp nhận từng phần có loại trừ trên báo cáo tài
chính.
Trường hợp doanh nghiệp có tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ và hoạt
động của bộ phận này cũng như toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả, kiểm toán viên có thể xem xét, đánh giá để sử
dụng tư liệu của kiểm toán viên nội bộ như là một bằng chứng kiểm toán.
Với những doanh nghiệp mà trước đó đã qua nhiều lần kiểm toán bởi
các công ty kiểm toán khác, trong quá trình thu thập tài liệu, kiểm toán viên
có thể sử dụng tư liệu của kiểm toán viên tiền nhiệm nếu như được công ty
khách hàng đồng ý.
Kiểm toán viên cũng có thể sử dụng bằng chứng từ các bên hữu quan,
khi đó kiểm toán viên phải yêu cầu đơn vị trình bày rõ các yếu tố về các bên
hữu quan như: các chính sách được áp dụng, số liệu khối lượng nghiệp vụ thể
hiện dưới dạng giá trị và tỷ lệ phần trăm tương ứng. Tư liệu từ các bên hữu
quan có thể được tập hợp thông qua gửi thư xác nhận, soát xét các nghiệp vụ
đầu tư của đơn vị, xác minh các nghiệp vụ bất thường.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
6
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Bằng chứng kiểm toán đặc biệt chỉ yêu cầu thu thập trong một số
trường hợp tuy nhiên có vai trò quan trọng không kém các bằng chứng khác.
Bằng chứng kiểm toán đặc biệt do kiểm toán viên thu thập từ các bên khác
tuy nhiên kiểm toán viên vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng và cao nhất
do đó kiểm toán viên cần cân nhắc, đánh giá cẩn thận khi sử dụng các bằng
chứng đặc biệt này.
1.1.2. Yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán và các nhân tố ảnh hưởng tới
thu thập bằng chứng kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán số 500, “Kiểm toán viên phải thu thập đầy
đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp cho mỗi loại ý kiến của mình. Sự
“đầy đủ” và tính “thích hợp” luôn đi liền với nhau và được áp dụng cho các
bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các thủ tục thử nghiệm kiểm soát và
thử nghiệm cơ bản.” Bằng chứng do kiểm toán viên thu thập được dùng để
giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến trên báo cáo tài chính chính vì vậy mà bằng
chứng phải đảm bảo tính thuyết phục. Tính thuyết phục của bằng chứng được
quy định bởi hai tính chất: tính hiệu lực và tính đầy đủ.
Yêu cầu về tính hiệu lực của bằng chứng là khả năng chỉ độ tin cậy hay chất
lượng của bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng có hiệu lực là bằng chứng đáng
tin cậy và liên quan tới mục tiêu kiểm toán.
Tính đáng tin cậy của bằng chứng thu thập được lại chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố: nguồn gốc và bản chất của thông tin, tính thời điểm và tính
khách quan. Theo chuẩn mực kiểm toán số 500, “Độ tin cậy của bằng chứng
kiểm toán phụ thuộc vào nguồn gốc (ở bên trong hay bên ngoài); hình thức
(hình ảnh, tài liệu, hoặc lời nói) và từng trường hợp cụ thể. Việc đánh giá độ
tin cậy của bằng chứng kiểm toán dựa trên nguyên tắc sau:
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
7
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Bằng chứng có nguồn gốc từ bên ngoài đơn vị đáng tin cậy hơn bằng
chứng có nguồn gốc bên trong;
Bằng chứng có nguồn gốc bên trong đơn vị có độ tin cậy cao hơn khi
hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả;
Bằng chứng do kiểm toán viên tự thu thập có độ tin cậy cao hơn bằng
chứng do đơn vị cung cấp;
Bằng chứng dưới dạng văn bản, hình ảnh đáng tin cậy hơn bằng chứng
ghi lại lời nói;
Bằng chứng kiểm toán có sức thuyết phục cao hơn khi có được thông
tin từ nhiều nguồn và nhiều loại khác nhau cùng xác nhận. Trường hợp
này kiểm toán viên có thể có được độ tin cậy cao hơn đối với bằng
chứng kiểm toán so với trường hợp thông tin có được từ những bằng
chứng riêng rẽ.”
Thời điểm thu thập bằng chứng cũng ảnh hưởng tới tính đáng tin cậy
đặc biệt quan trọng đối với tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Có thể thấy rõ
điều này đối với việc kiểm kê tiền mặt, hàng tồn kho vào thời điểm cuối năm
(31 tháng 12) có độ tin cậy cao hơn so với trường hợp kiểm kê tại thời điểm
khác trong năm.
Tính khách quan của bằng chứng: bằng chứng càng khách quan thì có
độ tin cậy càng cao. Bằng chứng thu được từ nguồn độc lập bên ngoài được
xem là khách quan hơn so với bằng chứng có được từ nội bộ đơn vị.
Tính liên đới có thể hiểu rằng bằng chứng kiểm toán thu thập được phải
có liên quan tới mục tiêu kiểm toán.Chuẩn mực kiểm toán số 500 quy định:
“Bằng chứng kiểm toán phải được thu thập cho từng cơ sở dẫn liệu của báo
cáo tài chính. Bằng chứng liên quan tới một cơ sở dẫn liệu (như sự hiện hữu
của hàng tồn kho) không thể bù đắp cho việc thiếu bằng chứng liên quan tới
cơ sở dẫn liệu khác (như giá trị hàng tồn kho). Nội dung, lịch trình và phạm
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
8
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
vi của các thủ nghiệm cơ bản được thay đổi tuỳ thuộc vào từng cơ sở dẫn liệu.
Các thử nghiệm có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán cho nhiều cơ sở dẫn
liệu cùng một lúc (như việc thu hồi các khoản phải thu có thể cung cấp bằng
chứng cho sự hiện hữu và giá trị của các khoản phải thu đó).”
Yêu cầu về tính đầy đủ là khả năng chỉ số lượng hay quy mô cần thiết của
bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến, kết luận kiểm toán. Thông thường
không có thước đo chung cho tính đầy đủ do đó nó đòi hỏi sự suy đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Kiểm toán viên sẽ dựa trên mục đích của cuộc
kiểm toán để đề ra tiêu chuẩn về tính đầy đủ của bằng chứng.
Các yếu tố ảnh hưởng tới tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán gồm:
Tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán: Bằng chứng có độ tin cậy
càng thấp thì càng cần thu thập nhiều, một hay một số ít bằng chứng thu thập
không thể đủ để đưa ra nhận định xác đáng về đối tượng kiểm toán cụ thể.
Tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán cụ thể: Đối tượng kiểm toán
càng trọng yếu thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều. Các sai
phạm được xem là trọng yếu thường là sai phạm có giá trị lớn do đó có ảnh
hưởng lớn tới báo cáo tài chính.
Mức rủi ro của đối tượng kiểm toán cụ thể: Khoản mục có độ rủi ro cao
thì lượng bằng chứng thu thập càng nhiều và ngược lại. Trong kiểm toán ba
loại rủi ro thường được xét đến là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện. Với rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng kiểm toán viên chỉ thu thập
bằng chứng để đánh giá. Để đảm bảo mức độ rủi ro mong muốn, trên cơ sở
kết quả đánh giá rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên xác định
số lượng bằng chứng thích hợp.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
9
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Bảng 1.1. Quan hệ giữa rủi ro và số lượng bằng chứng
Trường hợp
1
2
3
4
5
Rủi ro kiểm
Rủ ro tiềm
Rủi ro kiểm
Rủi ro phát
Số lượng
toán
Cao
Thấp
Thấp
Trung bình
Cao
tàng
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Thấp
soát
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Trung bình
hiện
Cao
Trung bình
Thấp
Trung bình
Trung bình
bằng chứng
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
Chi phí thu thập bằng chứng kiểm toán: Chi phí kiểm toán có ảnh
hưởng lớn thu thập bằng chứng, chi phí thu thập bằng chứng càng lớn thì khả
năng kiểm toán viên sử dụng kỹ thuật đó càng ít, thay vào đó, kiểm toán viên
sẽ tìm những thủ tục thay thế bổ sung để thu thập bằng chứng. Việc thu thập
bằng chứng phải được thực hiện trong khoản thời gian hợp lý và với chi phí
có thể chấp nhận được.
1.2. Kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
Chức năng quan trọng của kiểm toán tài chính là xác minh và bày tỏ ý
kiến về bản khai tài chính của doanh nghiệp, việc thu thập bằng chứng là
công việc quan trọng để thực hiện chức năng này.
1.2.1. Kiểm kê
Kiểm kê là việc kiểm tra tại chỗ hoặc tham gia kiểm kê các loại tài sản
của doanh nghiệp. Bằng chứng thu thập được từ kiểm kê là loại bằng chứng
có hiệu lực cao bởi đây là loại bằng chứng do chính kiểm toán viên thu thập.
Ưu điểm của phương pháp này là kiểm kê cung cấp bằng chứng về sự
hiện hữu tài sản của doanh nghiệp mang tính khách quan nhất.
Nhược điểm của phương pháp này là với một số loại tài sản, kiểm kê
chỉ cho biết sự hiệu hữu của tài sản mà không cho biết về quyền sở hữu tài
sản đó. Phương pháp này chỉ áp dụng được với tài sản hữu hình như: hàng tồn
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
10
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
kho, tiền mặt, tài sản cố định hữu hình. Với hàng hoá, nguyên vật liệu, kiểm
kê không thể xem xét được phương pháp tính giá.
Hàng tồn kho thông thường là một khoản mục trọng yếu trên báo cáo
tài chính vì vậy theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 501 “kiểm toán viên
phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về sự hiện hữu và tình
trạng của hàng tồn kho bằng cách tham gia công việc kiểm kê hiện vật. Khi
đơn vị thực hiện kiểm kê, kiểm toán viên chỉ giám sát hoặc có thể tham gia
trực tiếp kiểm kê chọn mẫu hàng tồn kho, để thu thập bằng chứng về sự tuân
thủ các thủ tục kiểm kê và kiểm tra độ tin cậy của các thủ tục này.” “Trường
hợp kiểm kê hiện vật hàng tồn kho được tiến hành cùng một lúc tại nhiều địa
điểm thì kiểm toán viên phải lựa chọn địa điểm phù hợp để tham gia kiểm kê
tuỳ theo mức độ trọng yếu của loại hàng tồn kho và sự đánh giá về rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát đối với các địa điểm này.”
1.2.2. Kiểm tra tài liệu
Kiểm tra tài liệu là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu các thông tin
kế toán của khách hàng kiểm toán như sổ cái, sổ nhật ký, các chứng từ, hoá
đơn, vận đơn… Có hai kỹ thuật được sử dụng trong kiểm tra tài liệu:
Thứ nhất, từ một kết luận có trước, kiểm toán viên thu thập tài liệu làm cơ sở
cho kết luận cần khẳng định (vouching). Công việc này có thể hiểu rằng đầu
tiên kiểm toán viên lựa chọn một khoản mục để kiểm tra từ sổ sách kế toán
sau đó kiểm tra tới các chứng từ liên quan tới khoản mục đó. Cách làm này
cung cấp bằng chứng về tính có thực của khoản mục.
Thứ hai, kiểm tra tài liệu của một nghiệp vụ từ khi được phát sinh đến khi vào
sổ sách (tracing). Việc thực hiện kiểm tra tài liệu theo hướng này nhằm đảm
bảo rằng tất cả các nghiệp vụ xảy ra được ghi nhận đầy đủ trên sổ sách kế
toán.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
11
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Ưu điểm của việc tiến hành kiểm tra tài liệu là việc thực hiện tương đối
thuận lợi do tài liệu này thường có sẵn trong đơn vị, chi phí thu thập bằng
chứng thấp hơn so với các phương pháp kỹ thuật khác, thời gian tiến hành thu
thập tài liệu ngắn đảm bảo thời gian hoàn thành đúng tiến độ.
Nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là độ tin cậy của bằng
chứng không cao bởi đây là bằng chứng thu thập từ bên trong đơn vị.
1.2.3. Gủi thư xác nhận
Xác nhận là một quá trình thu thập và đánh giá thông tin trực tiếp từ
bên thứ ba về các thông tin của các khoản mục trên báo cáo tài chính. Phương
pháp này thường được áp dụng với khoản mục phải thu khách hàng hoặc
khoản mục nợ phải trả. Thư yêu cầu xác nhận do kiểm toán viên gửi trong đó
nói rõ sự uỷ quyền của đơn vị được kiểm toán và cho phép khách nợ trực tiếp
cung cấp thông tin cho kiểm toán viên.
Ưu điểm của việc lấy xác nhận là bằng chứng thu được có độ tin cậy
cao nếu được kiểm toán viên kiểm soát quá trình thu thập thư xác nhận. Tuy
nhiên, nhược điểm của phương pháp này là chi phí thực hiện tương đối cao và
thời gian tiến hành lâu. Xác nhận trực tiếp sẽ cung cấp bằng chứng kiểm toán
đáng tin cậy về sự hiện hữu của các khoản phải thu, phải trả và tính chính xác
của các số dư tuy nhiên không cung cấp đầy đủ bằng chứng về khả năng thu
hồi các khoản phải thu hoặc còn các khoản phải thu khác không được hạch
toán.
Thư yêu cầu xác nhận của kiểm toán viên có hai dạng:
Dạng khẳng định: trong đó kiểm toán viên yêu cầu người nhận phải gửi thư
lại dù thông tin cần xác nhận đúng hay sai. Xác nhận dạng khẳng định thường
được dùng với các khoản mục có quy mô lớn, với khách hàng lớn trong đơn
vị.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
12
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Dạng phủ định: kiểm toán viên chỉ yêu cầu người nhận gửi lại nếu thông tin
cần xác nhận sai. Xác nhận dạng phủ định thường được dùng với các thông
tin dạng nhỏ lẻ, quy mô không lớn, không mang tính trọng yếu.
Bằng chứng thu thập từ xác nhận khẳng định thường có độ tin cậy cao
hơn bằng chứng thu được từ xác nhận phủ định do thường xuất hiện rủi ro
trong xác nhận phủ định trong trường hợp có sự khác biệt giữa số liệu trên sổ
kế toán tại đơn vị được kiểm toán và đơn vị nhận được thư xác nhận nhưng
đơn vị này vì dù cố tình hay vô ý đã không gửi lại thư phúc đáp và khi đó
kiểm toán viên vì không nhận được thư phúc đáp nghiễm nhiên công nhận
thông tin đó là chính xác.
1.2.4. Kỹ thuật phỏng vấn
Phỏng vấn là quá trình kiểm toán viên thu thập thông tin qua việc thẩm
vấn những người có hiểu biết về vấn đề kiểm toán viên quan tâm. Phỏng vấn
liên quan đến việc đưa ra câu hỏi, ghi chép câu trả lời và diễn giải các câu trả
lời thu thập được. Quá trình thu thập bằng chứng qua phỏng vấn thường gồm
ba giai đoạn:
Lập kế hoạch phỏng vấn, Kiểm toán viên xác định được mục đích, đối
tượng và nội dung cần phỏng vấn, thời gian, thời điểm phỏng vấn…
Thực hiện phỏng vấn: Kiểm toán viên tiến hành phỏng vấn như đã
định. Phỏng vấn có thể chia thành hai loại:
Thứ nhất, phỏng vấn trực tiếp là khi kiểm toán viên đưa ra câu hỏi chờ câu trả
lời về sự vật, sự việc thực tế (câu hỏi mở).
Thứ hai, phỏng vấn gián tiếp khi kiểm toán viên đưa ra các câu hỏi đóng,
phỏng vấn gián tiếp hay được dùng khi kiểm toán viên không muốn để lộ
mục đích của cuộc phỏng vấn.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
13
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Câu hỏi phỏng vấn nên được chuẩn bị trước thành bảng hỏi trong đó
ghi tên người trả lời, liệt kê các câu hỏi. Các câu hỏi nên ngắn gọn và cần
được sắp xếp theo trình tự hợp lý, nếu việc trả lời câu hỏi cần nhiều thời gian
thì kiểm toán viên có thể gửi trước câu hỏi đến người được phỏng vấn. Thời
gian phỏng vấn không nên kéo dài quá lâu.
Kết thúc phỏng vấn: Kiểm toán viên đưa ra kết luận trên cơ sở thông
tin đã thu thập được cùng với đánh giá về tính khách quan và sự hiểu biết của
người được phỏng vấn.
Ưu điểm của kỹ thuật phỏng vấn là thu thập thông tin phản hồi một
cách nhanh chóng. Tuy nhiên độ tin cậy của thông tin không cao do đây là
bằng chứng thu thập dạng lời nói, dễ thay đổi và người được hỏi thường là
cán bộ công nhân viên tại đơn vị được kiểm toán. Đặc điểm của dữ liệu
phỏng vấn không hoàn toàn chính xác, không mang tính đại diện và có thể có
những thiên lệch. Điều này xuất phát từ những hạn chế liên quan tới thời gian
của cuộc phỏng vấn, kinh phí cho cuộc phỏng vấn, kỹ năng của người tiến
hành phỏng vấn và hiểu biết của người được phỏng vấn.
1.2.5. Quan sát
Là phương pháp được sử dụng để đánh giá một thực trạng hay hoạt
động của đơn vị được kiểm toán. Ví dụ, kiểm toán viên có thể quan sát việc
phân tách trách nhiệm giữa người nhận khoản thanh toán từ khách hàng và
người ghi nhận khoản thanh toán này trên sổ chi tiết tài khoản phải thu.
Kỹ thuật này chỉ cung cấp bằng chứng về phương pháp thực thi công
việc ở thời điểm quan sát, không chắc chắn có được thực hiện ở thời điểm
khác nhau. Bằng chứng thu thập được chưa thể hiện tính đầy đủ nên cần đi
kèm với các kỹ thuật khác.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
14
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
1.2.6. Tính toán
Kỹ thuật tính toán là quá trình kiểm toán viên kiểm tra tính chính xác
về mặt số học của việc tính toán và ghi sổ. Kỹ thuật này chỉ quan tâm tới tính
chính xác về mặt số học, không tính tới sự phù hợp của phương pháp tính
được sử dụng do đó kỹ thuật này thường được sử dụng kết hợp với các
phương pháp kỹ thuật khác như xác minh tài liệu, kiểm tra vật chất…
Bằng chứng thu thập được từ kỹ thuật tính toán có độ tin cậy cao về
mặt số học. Tuy nhiên các phép tính đôi khi khá phức tạp nên tốn thời gian
đặc biệt khi đơn vị có quy mô lớn và loại hình kinh doanh đa dạng.
1.2.7. Thủ tục phân tích
Kỹ thuật phân tích là quá trình so sánh, đối chiếu các mối quan hệ để
xác định tính hợp lý của các số dư tài khoản. Kỹ thuật phân tích gồm 3 nội
dung chính: dự đoán, so sánh, đánh giá.
Kỹ thuật phân tích sử dụng trong thu thập bằng chứng kiểm toán gồm 3
loại:
Thứ nhất, kiểm tra tính hợp lý: là việc thực hiện các so sánh cơ bản như so
sánh số liệu thực tế và số kế hoạch, số dự đoán, số liệu bình quân ngành.
Thứ hai, phân tích xu hướng là việc phân tích những thay đổi theo thời gian
của số dư tài khoản hay nghiệp vụ nhằm phát hiện ra những biến động bất
thường để kiểm tra.
Thứ ba, phân tích tỷ suất là việc so sánh những số dư tài khoản hay những
loại hình nghiệp vụ có mối quan hệ với nhau.
Ưu điểm của phương pháp này là cách làm tương đối đơn giản, có hiệu
quả cao vì tốn ít thời gian và chi phí kiểm toán mà vẫn đảm bảo cung cấp
bằng chứng về sự đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về mặt kế toán. Kỹ thuật
phân tích giúp kiểm toán viên đánh giá được tổng thể, không bị sa vào nghiệp
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
15
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
vụ cụ thể đồng thời giúp kiểm toán viên khoanh vùng, phát hiện ra những vấn
đề bất thường trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên khi sử dụng kỹ thuật phân
tích cần lưu ý các vấn đề sau:
- Mối quan hệ bản chất giữa các chỉ tiêu được so sánh chẳng hạn mối
quan hệ giữa định mức nguyên vật liệu và hao phí nguyên vật liệu;
- Với khoản mục hay tài khoản trọng yếu thì kỹ thuật phân tích là chưa
đủ do đó phải kết hợp với các kỹ thuật khác vì kỹ thuật phân tích chỉ khoanh
vùng trọng yếu;
- Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán yếu kém
thì cần thận trọng trong phân tích và nên kết hợp với nhiều kỹ thuật khác;
- Cần có hiểu biết về các mức chuẩn của ngành kinh doanh của đơn vị
được kiểm toán khi phân tích chênh lệnh.
Trong mỗi cuộc kiểm toán, bảy kỹ thuật thu thập bằng chứng trên luôn
được sử dụng một cách linh hoạt nhằm thu được hiệu quả công việc cao nhất.
Tùy theo từng khoản mục, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà kiểm toán viên có
thể lựa chọn kỹ thuật nào phù hợp nhất. Việc kết hợp các kỹ thuật thu thập
bằng chứng sẽ đảm bảo tính đầy đủ và tính thích hợp của bằng chứng kiểm
toán thu thập được.
1.3. Phương pháp thu thập bằng chứng trong quy trình kiểm toán báo
cáo tài chính
“Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần
được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kiểm toán của kiểm toán chứng
từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ
tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”. Như vậy để
thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến này, kiểm toán viên cần thu
thập bằng chứng sử dụng phương pháp kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân
đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu lô gích) và kiểm toán ngoài chứng từ (kiểm
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
16
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
kê, kiểm nghiệm, điều tra). Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình thu
thập bằng chứng kiểm toán, thu thập bằng chứng về các bản khai tài chính.
Đối tượng của kiểm toán là bản khai tài chính: bảng cân đối kế toán,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả kinh doanh. Các đối tưọng kiểm
toán này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do vậy quá trình kiểm toán là việc
hình thành các trắc nghiệm, sử dụng liên hoàn các phương pháp kiểm toán cơ
bản để đưa ra ý kiến. Hai loại thử nghiệm được sử dụng trong kiểm toán báo
cáo tài chính là thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm tuân thủ. Thử nghiệm cơ
bản được thực hiện nhằm thẩm tra các thông tin được biểu hiện bằng tiền
phản ánh trên đối tượng kiểm toán. Thử nghiệm cơ bản được coi là thử
nghiệm then chốt trong mọi cuộc kiểm toán. Thử nghiệm tuân thủ được dựa
trên kết quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, thử nghiệm này chỉ được thực
hiện khi hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và được đánh giá là hoạt động có
hiệu quả. Hai loại thử nghiệm này có quan hệ chặt chẽ với nhau, khi hệ thống
kiểm soát nội bộ được đánh giá hiệu quả, thử nghiệm tuân thủ được thực hiện
và sẽ giảm thiểu số lượng thử nghiệm cơ bản được thực hiện. Ngược lại khi
hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả, thử nghiệm cơ bản sẽ được tăng
cường để đảm bảo độ tin cậy vào kết luận kiểm toán.
Việc áp dụng các phương pháp kiểm toán hình thành nên các trắc
nghiệm trong kiểm toán. Tuỳ yêu cầu và đối tượng cụ thể các phép kết hợp
giữa các phương pháp kiểm toán cơ bản cũng khác nhau cả về số lượng và
trình tự kết hợp từ đó hình thành 3 loại trắc nghiệm: trắc nghiệm công việc,
trắc nghiệm trực tiếp số dư, trắc nghiệm phân tích. Trắc nghiệm công việc
hướng tới xác định tính đúng đắn trong tổ chức hệ thống kế toán: mức đạt yêu
cầu về thủ tục và độ tin cậy của các thông tin con số kế toán. Trắc nghiệm đạt
yêu cầu còn được gọi là trắc nghiệm kiểm soát, dựa trên kỹ thuật phỏng vấn,
quan sát, xác minh tài liệu đánh giá hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
17
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
Trắc nghiệm độ tin cậy thường được sử dụng với kỹ thuật tính toán lại để
kiểm toán viên có thể khẳng định mức độ thoả mãn mục đích đảm bảo độ tin
cậy của thông tin của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trắc nghiệm trực tiếp số dư
là việc kết hợp đối chiếu lôgic, phân tích đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và
kiểm tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số dư cuối kỳ. Trắc nghiệm
phân tích xem xét mối quan hệ kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ tiêu
kinh tế bằng việc sử dụng ba loại hình phân tích chủ yếu: đánh giá tính hợp
lý, phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất.
Trắc nghiệm
Trắc nghiệm
đạt yêu cầu
Trắc
nghiệm
công việc
Trắc nghiệm
độ vững
chãi
Trắc nghiệm
trực tiếp số
dư
độ vững
Trắc
chãi
nghiệm
phân
Trắc nghiệm
tích
đạt yêu cầu
Trắc
nghiệm
độ vững
chãi
Bằng chứng đầy đủ, có hiệu lực với chi phí
kiểm toán thấp
Sơ đồ 1.1. Các trắc nghiệm kiểm toán
Cuộc kiểm toán gồm 3 giai đoạn: lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán,
kết thúc kiểm toán.
Trong giai đoạn đầu tiên lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên chuẩn
bị điều kiện cơ bản của cuộc kiểm toán. Giai đoạn này ảnh hưởng tới chất
lượng và hiệu quả của toàn bộ cuộc kiểm toán. Bằng chứng thu thập trong
giai đoạn này cần có thông tin khái quát để kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm
toán. Kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng về thông tin cơ sở của khách
hàng kiểm toán; thông tin về các nghĩa vụ pháp lý và bằng chứng thu được từ
thủ tục phân tích từ đó đánh giá mức độ trọng yếu và rủi ro. Phương pháp
kiểm toán được sử dụng trong giai đoạn này kết hợp cả kiểm toán chứng từ và
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
18
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
ngoài chứng từ. Ví dụ để có được thông tin cơ sở của khách hàng, kiểm toán
viên kiểm toán ngoài chứng từ, kỹ thuật phỏng vấn, kỹ thuật thu thập tài liệu,
điều tra nhằm tìm hiểu ngành nghề kinh doanh, kỹ thuật quan sát được sử
dụng góp phần giúp kiểm toán viên trực tiếp có nhận định ban đầu, kỹ thuật
kiểm tra tài liệu từ hồ sơ kiểm toán trước giúp kiểm toán viên hiểu về bản
chất của sự biến động. Kỹ thuật thu thập tài liệu sử dụng hiệu quả trong việc
thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng như: giấy phép
thành lập, điều lệ công ty, báo cáo tài chính, biên bản họp hội đồng cổ đông…
Thủ tục phân tích được sử dụng nhằm thu thập hiểu biết về nội dung báo cáo
tài chính, những biến động quan trọng về kế toán và hoạt động kinh doanh.
Thủ tục phân tích thường gồm hai loại cơ bản: phân tích ngang và phân tích
dọc. Trong giai đoạn lập kế hoạch, thiết kế chương trình kiểm toán đòi hỏi
những phán xét nghề nghiệp của kiểm toán viên. Các kỹ thuật thu thập tài liệu
được sử dụng hết sức đa dạng ngay từ giai đoạn này. Tuy nhiên bằng chứng
thu thập trong giai đoạn này chỉ mang tính tổng quát làm cơ sở để kiểm toán
viên tiếp tục thực hiện trong giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn tiếp theo là thực hiện kế hoạch kiểm toán, đây là quá trình sử
dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán
cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đây là quá trình kiểm tra một cách
tích cực và chủ động kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra ý kiến
xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính trên cơ sở
bằng chứng kiểm toán đầy đủ và đáng tin cậy. Việc thu thập bằng chứng
trong giai đoạn thực hiện kiểm toán gồm các bước sau:
Thứ nhất thực hiện thủ tục kiểm soát, nếu kiểm toán viên cho đưa ra
đánh giá ban đầu là hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị hoạt động hiệu quả
thì kiểm toán viên sẽ tiến hành thu thập bằng chứng về việc thiết kế và hoạt
động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trắc nghiệm đạt yêu cầu sẽ được thực
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
19
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
hiện với mục đích thu thập bằng chứng đảm bảo về sự tin cậy của hệ thống
kiểm soát nội bộ. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng ở bước công việc này
gồm: quan sát, phỏng vấn, thực hiện lại, kiểm tra từ đầu đến cuối.
Thứ hai là thực hiện thủ tục phân tích, kỹ thuật được sử dụng chủ yếu
là kỹ thuật phân tích: phân tích tỷ suất, phân tích xu hướng nhằm đưa ra cái
nhìn khái quát vế từng khoản mục. Kiểm toán viên chủ yếu thu thập bằng
chứng từ thủ tục phân tích để thấy tính hợp lý, tìm nguyên nhân chênh lệch.
Thứ ba là thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết. Giai đoạn này đựa trên
kết quả của trắc nghiệm công việc và thủ tục phân tích ở trên, kiểm toán viên
trực tiếp thu thập bằng chứng có liên quan tới một khoản mục cụ thể.
Các kỹ thuật được sử dụng trong kiểm tra chi tiết khá linh hoạt, đa
dạng. Tuỳ theo đặc điểm, mức trọng yếu, rủi ro của khoản mục mà kiểm toán
viên lựa chọn kỹ thuật thu thập tài liệu thích hợp. Kiểm toán viên thực hiện
thủ tục kiểm tra chi tiết sử dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng khác nhau
áp dụng cho từng khoản mục thích hợp như với khoản phải thu khách hàng,
kiểm toán viên lựa chọn gửi thư xác nhận tới khách hàng; với hàng tồn kho,
kiểm toán viên tiến hành kiểm kê. Kỹ thuật xác minh tài liệu, kỹ thuật phỏng
vấn cũng được sử dụng tương đối nhiều.
Giai đoạn kết thúc kiểm toán là việc tổng hợp, phân tích kết quả có
được từ giai đoạn thực hiện kiểm toán để đưa ra đánh giá xác đáng về báo cáo
tài chính. Kỹ thuật phân tích được sử dụng để kiểm toán viên có cái nhìn
chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Trước khi phát hành báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên còn cần phải
thu thập thêm những bằng chứng về những vấn đề sau:
Khoản nợ ngoài ý muốn
Nợ ngoài ý muốn là khoản nợ tiềm tàng mà cần được ghi trong phần ghi
chú. Để tìm các khoản nợ ngoài ý muốn, kiểm toán viên sử dụng các kỹ thuật
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
Luận văn tốt nghiệp
20
GVHD: Th.S Phan Trung Kiên
sau: phỏng vấn ban giám đốc về khoản nợ ngoài ý muốn chưa được ghi sổ,
kiểm tra tài liệu, gửi thư xác nhận và phân tích tính hợp lý của phí tổn.
Các sự kiện phát sinh sau niên độ
“Sự kiện phát sinh sau ngày kết toán là các sự kiện thuận lợi hoặc bất lợi;
xảy ra giữa thời điểm kết toán và thời điểm công bố báo cáo tài chính”. Kiểm
toán viên cần thu thập các bằng chứng về các sự kiện phát sinh sau niên độ để
đánh giá mức độ ảnh hưởng của nghiệp vụ, sự kiện này tới báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên thường sử dụng các kỹ thuật sau: phỏng vấn ban quản trị,
kiểm tra tài liệu.
Đinh Thị Quỳnh Anh
Lớp: Kiểm toán 46A
- Xem thêm -