Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công nghệ thông tin Kỹ thuật lập trình Kỹ thuật lập trìnhtìm hiểu quá trình phát triển của hoạt hình 3d và cách thức xâ...

Tài liệu Kỹ thuật lập trìnhtìm hiểu quá trình phát triển của hoạt hình 3d và cách thức xây dựng các plug in hỗ trợ cho phần mềm

.PDF
37
421
67

Mô tả:

Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Khoa Công nghệ thông tin -----  ----- BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Đề tài: Tìm hiểu quá trình phát triển của hoạt hình 3D và cách thức xây dựng các plug-in hỗ trợ cho phần mềm 3D Maya Giáo viên hướng dẫn: Lê Tấn Hùng Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thương Huyền Lớp: CNPM – K47 Hà Nội, 2/2007 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Mục lục Mục lục................................................................................................................................ 1 Danh mục các hình ............................................................................................................. 2 Lời mở đầu .......................................................................................................................... 3 Phần I – Quá trình phát triển của hoạt hình 3D................................................................. 4 1. Lịch sử xuất hiện và quá trình phát triển của hoạt hình 3D trên thế giới ............... 4 2. Quá trình phát triển của sản xuất phim hoạt hình 3D ở Việt Nam và những kết quả đạt được........................................................................................................................... 8 3. Những khó khăn trong quá trình sản xuất phim hoạt hình ở Việt Nam và cách khắc phục ...................................................................................................................... 12 Phần II – Quy trình và các kỹ thuật bổ sung cho quá trình làm phim hoạt hình 3D ........ 16 1. Quy trình làm phim hoạt hình 3D ......................................................................... 16 2. Một số công cụ trong quá trình sản xuất phim hoạt hình ..................................... 21 2.1 Bộ mô hình hóa ............................................................................................. 21 2.2 Bộ biên tập chất liệu ..................................................................................... 23 2.3 Bộ tạo cảnh ................................................................................................... 26 2.4 Bộ render ....................................................................................................... 29 3. Phương thức xây dựng những plug-in hỗ trợ cho Maya ....................................... 30 3.1 Maya API ...................................................................................................... 30 3.2 Đưa một plug-in vào Maya ........................................................................... 31 3.3 Xây dựng một plug-in ................................................................................... 32 3.4 Ví dụ xây dựng một plug-in đơn giản ........................................................... 34 Phần III – Tài liệu và các trang web tham khảo............................................................... 36 Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 1 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Danh mục các hình Hình 1 - Phenakistoscope – Joseph Plateau, 1832 .............................................................. 4 Hình 2 - Humorous phases of funny faces; nhà sản xuất và thiết kế, J. Stuart Blackton ... 5 Hình 3 - Gertie, the dinosaur............................................................................................... 5 Hình 4 - Steamboat Willie .................................................................................................. 6 Hình 5 - Toy story 1995 ...................................................................................................... 7 Hình 6 - Tron 1982 ............................................................................................................ 7 Hình 7 - Final Fantasy X ..................................................................................................... 7 Hình 8 - Chuyện hai chiếc bình (2003) ............................................................................... 9 Hình 9 - Voi và vẹt (2004) .................................................................................................. 9 Hình 10 - Giấc mơ của ếch xanh (2005) ........................................................................... 11 Hình 11 - Happy feet (2006 ) ............................................................................................ 15 Hình 12 - The Simpsons ................................................................................................... 16 Hình 13 - Wallace & Gromit ............................................................................................ 16 Hình 14 - Lưu đồ thực hiện ............................................................................................... 17 Hình 15 – Storyboard ........................................................................................................ 18 Hình 16 - Hình lục giác và khi kéo dài ............................................................................. 21 Hình 17 - Đường ống lục giác đã được đánh bóng ........................................................... 22 Hình 18 - Màu sắc trên một khối cầu khi không có kết cấu áp lên ................................... 24 Hình 19 - Kết cấu màu sắc trên khối cầu .......................................................................... 24 Hình 20 - Kết cấu màu sắc và kết cấu va chạm trên khối cầu .......................................... 24 Hình 21 - Kết cấu màu sắc, kết cấu va chạm và kết cấu vô hướng trên khối cầu ............. 25 Hình 22 - Mô hình chiếu sáng phẳng trên một khối cầu ................................................... 26 Hình 23 - Cars (2006) ....................................................................................................... 27 Hình 24 - Cảnh khi được chiếu sáng bằng nguồn sáng vô hạn ......................................... 28 Hình 25 - Cảnh khi được chiếu sáng bằng nguồn sáng vô hướng .................................... 28 Hình 26 - Cảnh khi được chiếu sáng bằng nguồn sáng rọi ............................................... 28 Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 2 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Lời mở đầu Hoạt hình 3D Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên tuy chưa thể nói là hoàn toàn thành công nhưng đã ghi nhận những cố gắng của những người tham gia làm phim. Với mục đích ban đầu là tìm hiểu cách thức làm phim hoạt hình 3D đồng thời cố gắng xây dựng một plug-in nhằm hỗ trợ cho quá trình làm phim, tài liệu này chỉ là kết quả của quá trình khảo sát ban đầu về thực tế làm phim hoạt hình 3D ở Việt Nam hiện nay và cách thức để xây dựng những plug-in. Phạm vi của đề tài chỉ áp dụng cho phần mềm 3D được sử dụng nhiều nhất hiện nay trong làm phim hoạt hình là Maya bởi tính phổ dụng và khả năng tạo ra những hiệu ứng tuyệt vời của nó. Chính vì mục đích như vậy nên tài liệu này tập trung vào hai mảng chính: 1) Khảo sát và tìm hiểu quá trình phát triển của hoạt hình 3D ở trên thế giới và ở Việt Nam. Chỉ ra những khó khăn trong thực tế của nền sản xuất hoạt hình 3D Việt Nam thu nhận được trong thực tế tìm hiểu và đề ra một số biện pháp khắc phục. 2) Cách thức xây dựng những plug-in hỗ trợ cho Maya Khi thực hiện đề tài này, em xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy Cô trong bộ môn Công Nghệ Phần Mềm, đặc biệt là thầy Lê Tấn Hùng đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình xác định, tìm hiểu và thực hiện đề tài. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của đạo diễn Hà Bắc, hãng phim Giải Phóng đã đưa ra những kinh nghiệm trong quá trình làm phim hoạt hình 3D, hướng dẫn quá trình thực hiện và cung cấp những tài liệu cần thiết để em có thể hoàn thành tốt đề tài này. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thương Huyền Lớp: CNPM – K47 Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 3 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phần I – Quá trình phát triển của hoạt hình 3D 1. Lịch sử xuất hiện và quá trình phát triển của hoạt hình 3D trên thế giới Điều gì đã mang lại cho những bức ảnh tĩnh một sức sống mới? Điều gì đã tạo nên một bước chuyển biến mới trong lĩnh vực điện ảnh thông qua một cách thể hiện sáng tạo và độc đáo? Cái gì đã tạo cho những người yêu điện ảnh một cảm giác vừa hư vừa thực khi xem phim? Đó chính là chuyển động. Chuyển động ở đây không bao hàm những khái niệm chuyển động chung chung mà chính là cách thức tạo ra chuyển động cho những đối tượng tưởng như không bao giờ có thể cử động được. Từ đó sản sinh ra một ngành nghệ thuật không thể tách rời với kỹ thuật: Animation. Hoạt hình, bao gồm cả hoạt hình vẽ tay cũng như hoạt hình có sử dụng đồ họa máy tính, có một lịch sử dài và phong phú kéo dài trong gần một thế kỷ của những kinh nghiệm và sự tiến bộ. Để hiểu rõ hơn hoạt hình 3D xuất hiện như thế nào, chúng ta phải tìm hiểu về những hình thức hoạt hình trước đó. Nếu không có những hình thức hoạt hình này thì chúng ta không thể có một ngành công nghiệp sản xuất hoạt hình 3D mạnh mẽ như hiện nay. Ban đầu, người ta đã phát triển một kỹ thuật của hoạt hình vẽ trên giấy được gọi là Phenakistoscope. Phát minh này cho phép những bức vẽ đơn giản dịch chuyển liên tiếp nhau và sẽ trông giống như là chuyển động thật vậy. Hình 1 - Phenakistoscope – Joseph Plateau, 1832 Bước phát triển tiếp theo trước khi chúng ta đạt được kỹ thuật hoạt họa như hiện nay do công của J.Stuart Blackton. Ông đã tạo ra một phim hoạt hình ngắn gọi là “Những pha hài hước của những khuôn mặt cười” – “Humorous phases of funny faces”. Bộ phim này được tạo ra bằng các khuôn mặt vẽ đơn Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 4 Báo cáo thực tập tốt nghiệp giản trên một tấm bảng đen rồi chụp lại, bằng cách xóa nét vẽ cuối cùng và tạo ra một nét vẽ mới rồi chụp một bức ảnh khác, đã cho phép ông ghép nối những bức ảnh với nhau làm những bức ảnh dường như có sự sống. Hình 2 - Humorous phases of funny faces/Vitagraph; nhà sản xuất và thiết kế, J. Stuart Blackton Winsor McCay đã tạo ra một bước phát triển tiếp theo khi tạo ra phim “Gertie, the trained dinosaur” tạm dịch là “Gertie, con khủng long đã thuần hóa”. Mặc dù đây là một bộ phim ngắn nhưng thực sự nó chứa đến 10.000 bức vẽ. Nó đã được công chiếu rộng rãi trong các nhà hát và trong một sự kiện lớn về đa phương tiện vào năm 1914. Đây là một trong những bộ phim hoạt hình đầu tiên được sự hoan nghênh của rất nhiều người. Hình 3 - Gertie, the dinosaur Năm 1923 là một năm bản lề của lịch sử phim hoạt hình khi Walt và Roy Disney thành lập studio sản xuất phim hoạt hình, một trong những studio được thành lập nhằm sản xuất phim hoạt hình. Cũng trong thời gian này, hãng Warner Brothers bắt đầu sáng tạo ra những nhân vật nổi tiếng thế giới như vịt Donald, Pluto và Betty. Một sự kiện trọng đại không kém vào thời điểm này là bộ phim “Steamboat Willie” đã đưa Mickey Mouse đến với công chúng. Bộ phim này là bộ phim đầu tiên có đưa âm thanh vào, nó đã đạt được những thành công rất vang dội và tạo ra cho Walt Disney một vị thế như ngày nay. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 5 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hình 4 - Steamboat Willie Tính từ thời điểm này về sau, chúng ta có thể thấy các phim hoạt hình được tạo ra ngày càng nhiều, riêng hãng Disney đã sản xuất ra hơn 30 bộ phim hoạt hình dài tập với một số lượng bản vẽ không thể đếm hết được. Các hãng phim hoạt hình khác cũng đã tạo ra những phim hoạt hình của riêng họ như là “The Jetsons” và “Flintstones”. Nhưng vào năm 1995, một sự kiện diễn ra đã thay đổi truyền thống làm phim hoạt hình trong nhiều năm. Đó là sự ra đời của phim hoạt hình “Toy story”, bộ phim là một thành công vang dội khi là phim hoạt hình 3D đầu tiên và kéo dài trong 1 giờ 20 phút. Nhưng trước khi bộ phim này được trình chiếu, có một số hãng phim đã sử dụng máy tính để tạo ra những hình ảnh trong phim của họ như “Tron”, bộ phim có 15 phút là do những hình ảnh được tạo ra bằng máy tính, là một trong những bộ phim đầu tiên sử dụng kỹ thuật này. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 6 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hình 5 - Toy story 1995 Hình 6 - Tron 1982 Cho đến thời điểm này, bao nhiêu bộ phim hoạt hình 3D đã ra đời như “Toy story 2”, “Shrek”, “Shrek 2”, “Final Fantasy” ... nhưng những mốc nổi bật đánh giá những chặng đường phát triển của phim hoạt hình 3D luôn ghi dấu tên tuổi những hãng phim như Warner Brothers, Disney, ... và những hãng phim này xứng đáng là một phần không thể thiếu của lịch sử sản xuất phim hoạt hình. Hình 7 - Final Fantasy X Một cảnh trong phim “Final Fantasy X” – một bộ phim thành công vang dội về các hiệu ứng đạt được trong quá trình sử dụng phần mềm 3D Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 7 Báo cáo thực tập tốt nghiệp 2. Quá trình phát triển của sản xuất phim hoạt hình 3D ở Việt Nam và những kết quả đạt được Nền sản xuất phim hoạt hình Việt Nam cũng có một quá trình phát triển tương tự như nền hoạt hình của châu Á khi bị ảnh hưởng của phong cách sản xuất phim hoạt hình ở châu Âu và châu Mỹ. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của nó chậm và lạc hậu hơn rất nhiều. Nếu tính đến thời điểm hiện nay, khi mà các nước láng giềng như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đã có những bộ phim hoạt hình được nhiều người đánh giá cao thì ở Việt Nam, riêng việc phục vụ nhu cầu xem phim hoạt hình trong nước cũng không đáp ứng được cả về chất lượng lẫn số lượng. Đó là cái nhìn toàn cảnh đối với phim hoạt hình Việt Nam hiện nay, tuy không thể sánh bằng các nước trong khu vực nhưng cũng đã ghi dấu những cố gắng rất lớn của những đạo diễn, họa sĩ, nhà biên kịch ... trong nước. Vì thế, việc ra đời bộ phim hoạt hình 3D đầu tiên của Việt Nam được xem là một thành công rất lớn và một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển hiện nay. Nền sản xuất phim hoạt hình Việt Nam đã từng không được coi trọng chỉ với một số nhỏ cơ sở sản xuất và một đội ngũ sản xuất ít chịu đổi mới về tư duy sáng tạo cũng như phương cách làm việc. Vì thế, những bộ phim hoạt hình Việt Nam chủ yếu mang nặng hoặc là tính dạy dỗ, giáo dục trẻ con của người lớn hoặc là những vấn đề của người lớn được đưa vào phim như chiến tranh, nạn nhân của hạnh phúc gia đình... Do vậy, vấn đề cần cải tiến đầu tiên không hẳn là kỹ thuật làm phim mà chính là sự sáng tạo và sự truyền cảm của người làm phim khi làm phim hoạt hình cho thiếu nhi. Nếu biết rằng, một nước có dân số ít hơn và nhiều nét văn hóa tương đồng với nước ta như Nhật Bản mà có tới 435 hãng phim hoạt hình, mỗi tuần sản xuất từ 80 đến 100 phim (khoảng 3.500 phim mỗi năm), chiếm 90% phim hoạt hình phục vụ trẻ em trong nước và xuất khẩu tràn ngập thế giới, thì số lượng phim hoạt hình của ta hiện nay quả là nhỏ bé. Đó là chưa kể, phim hoạt hình Việt Nam với những nhân vật phản diện là cáo, chó sói, chuột... đã quá quen thuộc đến nhàm chán đối với khán giả nhỏ tuổi. Những câu chuyện mang tính chất ngụ ngôn đơn giản, khiên cưỡng, lộ liễu đến mức các em chưa xem đã biết. Những cố gắng đổi mới của các nhà làm phim Việt Nam luôn được ghi nhận và sự kiện đáng ghi nhớ đầu tiên là vào năm 2003 khi ra mắt bộ phim hoạt kỹ thuật 3D đầu tiên tại Việt Nam. Bộ phim mang tên “Chuyện hai chiếc bình” do hãng phim tư nhân AREKA (thuộc công ty người cùng phát triển doanh nghiệp B&C, chuyên nghiên cứu và phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống) hoàn thành ngày 25/7/2003. Đây là bộ phim hoạt hình đầu tiên của Việt Nam áp dụng kỹ xảo 3D và đã tham dự liên hoan phim ngắn toàn quốc vào đầu tháng 8/2003. Bộ phim dài 12 phút và từng được phát hành đĩa VCD, DVD và phát sóng trên VTV nhưng rồi cũng rơi vào quên lãng vì doanh thu của bộ Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 8 Báo cáo thực tập tốt nghiệp phim không đủ gây tiếng vang để thôi thúc nhiều người đầu tư vực dậy nền hoạt hình Việt Nam. Hình 8 - Chuyện hai chiếc bình (2003) Bộ phim có kết cấu đơn giản, tiết tấu nhanh. Bộ phim còn gợi cho người xem nhều cảm xúc về chân lý và giá trị đích thực của sự tồn tại, về những ứng xử mang tình người trong những khoảnh khắc khó khăn trong cuộc sống. Bộ phim này đã ứng dụng nhiều kỹ xảo công nghệ hiện đại đang được ứng dụng trên thế giới, có tính đột phá về phương diện thiết kế, kết xuất và kiến tạo hoạt cảnh. Những mô hình từ đơn giản đến phức tạp, những hoạt cảnh, những mô phỏng động lực học, những hiệu quả khác như camera, ánh sáng, vật liệu và hiệu quả môi trường đều được thực hiện hoàn toàn trên kỹ thuật số hóa không gian 3D. Với ưu thế vượt trội về công nghệ kỹ xảo làm phim so với các phương pháp làm phim truyền thống trong nước, bộ phim là một cách nhìn mới trong việc phát triển ứng dụng máy tính vào thực hiện sản xuất phim tại Việt Nam. Ngoài bộ phim “Chuyện hai chiếc bình”, hãng AREKA còn cho ra đời bộ phim nhiều tập “Voi và vẹt”. Hình 9 - Voi và vẹt (2004) Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 9 Báo cáo thực tập tốt nghiệp So với bộ phim ban đầu “Chuyện hai chiếc bình”, các phần phim lần này được tiến hành có nhiều thuận lợi hơn hẳn: đã tích lũy được các kinh nghiệm làm phim, hội tụ được nhiều người có kinh nghiệm làm việc, có đơn vị tài trợ ... Tuyển tập phim được hoàn thành sau hai tháng và phát hành rộng rãi vào khoảng 7/2004. Có thể nói từ “Chuyện hai chiếc bình” đến “Voi và vẹt” là một quá trình đi từ một bộ phim hoạt hình ba chiều thử nghiệm đến một bộ phim hoạt hình ba chiều thực sự với một trình đọ làm phim cao hơn hẳn. Tuyển tập phim bao gồm một serie phim ngắn xoay quanh hai nhân vật ngộ nghĩnh Voi và Vẹt, mỗi phim chỉ có độ dài từ một đến hai phút. Không lời thoại cũng như không có mở đầu hay kết thúc câu chuyện như chúng ta thường xem, mỗi phim chỉ như một lát cắt ngẫu nhiên của cuộc sống trẻ thơ được soi rọi dưới một cái nhìn hài hước, hóm hỉnh. Nhẹ nhàng, bình dị, từng tập phim là những trò chơi đùa của những đứa trẻ tinh nghịch, thông minh: chơi trận giả, tìm kho báu, đá bóng, chơi bowling, trượt băng, vẽ tranh...; hay những cách giải quyết rất trẻ con trước một tình huống nào đó trong cuộc sống. “Voi và vẹt” là bộ phim hoạt hình ba chiều thứ hai được công bố tại Việt Nam và là bộ phim hoạt hình ba chiều được phát hành rộng rãi lần đầu tiên (bộ phim thứ nhất mới chỉ trình chiếu trong liên hoan phim). Con số hơn 100.000 đĩa VCD bán được trong thời gian phát hành là 15 ngày đầu tiên đã đánh dấu thành công bước đầu không hề nhỏ của “Voi và vẹt” Mãi đến hơn một năm sau, năm 2005, hãng phim hoạt hình Việt Nam phối hợp với hãng phim Giải Phóng đã mạnh dạn đầu tư công nghệ để thực hiện bộ phim 3D “Giấc mơ của ếch xanh”. Đây là một bộ phim ghi nhận công sức của nhóm làm phim trong 1 năm trời – một thời gian tương đối dài so với thời gian làm phim của các nước trên thế giới. Nhưng bù lại, bộ phim này đạt được một kỹ thuật làm phim khá điêu luyện và đã tạo nên những cảnh có hiệu ứng rất đẹp. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 10 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hình 10 - Giấc mơ của ếch xanh (2005) Sau “Chuyện hai chiếc bình” và “Voi và vẹt”, “Giấc mơ của ếch xanh” là một bộ phim hoạt hình 3D khá chuyên nghiệp. Các nhà làm phim đã đánh giá nó giống như một công trình nghiên cứu hơn là một công trình đầu tư bởi tính thử nghiệm của hãng phim Giải Phóng, viện phim Việt Nam và đạo diễn Hà Bắc trong việc áp dụng một công nghệ làm phim mới. Với những cố gắng trong quá trình thực hiện, bộ phim đã thành công ngoài dự kiến với sự kết hợp tài tình giữa kỹ xảo điện ảnh và hoạt hình, giúp tạo nên những hình ảnh 3D đẹp và sống động. Đặc biệt, phần âm thanh mang đậm tính dân tộc và được dàn dựng theo lối cổ truyền, bộ phim không chỉ thu hút được sự yêu thích của các khán giả nhỏ tuổi mà ngay cả những khán giả khó tính nhất cũng cảm thấy hài lòng. Và đâu là tương lai của phim hoạt hình Việt Nam? Theo thông tin mới nhất, series “Truyện khu vườn”, sản phẩm phim hoạt hình 3D đầu tay của xưởng phim hoạt hình Vinamation thuộc hãng phim tư nhân Dofilm đã là phim hoạt hình 3D đầu tiên được mua độc quyền khi được công ty Vinamit đầu tư. Dự kiến tập một mang tiêu đề “Phát minh của Mít” sẽ được phát sóng trên Đài truyền hình Sài Gòn vào mùng 3 tết Đinh Hợi. “Truyện khu vườn” là những câu chuyện về các nhân vật trong hình ảnh trái cây, xây dựng theo tiêu chí “giải trí đi trước, giáo dục đi sau”. Theo dự kiến, phim sẽ được thực hiện 1 tập/tháng và sau đó tăng tốc lên 2 tập/tháng. Và ở Hà Nội, đã có những nhóm được thành lập để làm phim hoạt hình 3D mặc dù chưa giới thiệu được một sản phẩm cụ thể nào. Họ là những con người không chuyên nhưng có lòng say mê làm phim và được thể hiện mình trong một lĩnh vực mới. Bên cạnh những hãng phim chuyên nghiệp như Trung tâm Sản xuất phim Hoạt hình của VFC, Hãng phim hoạt hình Việt Nam, ... những con người say mê với lĩnh vực hoạt hình 3D là một tín hiệu rất đáng mừng cho nền hoạt hình Việt Nam trong tương lai. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 11 Báo cáo thực tập tốt nghiệp 3. Những khó khăn trong quá trình sản xuất phim hoạt hình ở Việt Nam và cách khắc phục Hoạt hình Việt Nam không phải không có những cố gắng cũng như kết quả đạt được đáng ghi nhận. Với những “Giấc mơ của ếch xanh”, “Chuyện hai chiếc bình”, “Voi và vẹt”, ... có thể nói đây là những bước đi ban đầu tuy đang còn rất chập chững nhưng là những bước đi đầu tiên đưa đến những thành công sau này. Vậy vấn đề chính là ở đâu khi ai cũng muốn đưa nền hoạt hình Việt Nam ngang bằng với các nước trong khu vực nhưng lại đứng trước một khoảng cách khá xa mà không đơn giản để vượt qua? Liệu đó có phải là vấn đề về kinh phí hay là về kỹ thuật? Trước đây, để làm một phim hoạt hình theo phương pháp truyền thống các hoạ sĩ hoạt hình phải thực hiện hàng ngàn bức vẽ, thủ công và phải mất rất nhiều công sức và thời gian. Từ hình ảnh do người hoạ sỹ vẽ ra cho đến khi trở thành hình ảnh trong phim phải qua rất nhiều công đoạn (vẽ động tác, làm sạch, xen kẽ, đi nét, tô mầu...) nên dễ xảy ra các lỗi kỹ thuật như: hình không khớp, rung, mầu tô không đều... Thêm vào đó, các động tác máy camera trong phim khá hạn chế, phần kỹ xảo trong phim sẽ rất khó thực hiện. Kỹ thuật này được áp dụng trong quá trình sản xuất phim hoạt hình ở Việt Nam trong một thời gian dài và chỉ mới được thay đổi trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, cách thức sản xuất phim hoạt hình theo kiểu truyền thống này không thể thay đổi một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, việc ứng dụng kỹ thuật 3D vào làm demo, quảng cáo, đồ họa kiến trúc đã rất phổ biến ở Việt Nam từ lâu nhưng mãi đến năm 2003, hãng AREKA mới tiên phong trong việc dùng kỹ thuật 3D vào sản xuất phim hoạt hình. Với kỹ xảo 3D, toàn bộ các công đoạn làm phim hoạt hình sẽ được thực hiện trên máy vi tính, sử dụng lợi thế của không gian ba chiều để tạo mô hình và bối cảnh cho nhân vật. Ưu điểm lớn nhất của kỹ thuật 3D là hoàn toàn có thể dựng nên một trường quay ảo với bối cảnh, ánh sáng, camera thậm chí có thể thực hiện được những cảnh mà phim truyện điện ảnh cũng không thực hiện được. Những người làm phim sẽ hoàn toàn chủ động xử lý tình huống để tạo ra những hình ảnh sinh động. Thời gian để làm một phim hoạt hình ngắn hơn, lực lượng sản xuất cũng ít hơn và tất nhiên kinh phí sẽ thấp hơn so với một phim hoạt hình thông thường. Chắc chắn công nghệ làm phim 3D sẽ đem đến một bước tiến mới trong kỹ thuật làm phim hoạt hình Việt Nam nói riêng cũng như ở các thể loại phim khác nói chung. Và hãng phim hoạt hình của Bộ văn hóa – thông tin đã có những việc đầu tư thích hợp để ứng dụng công nghệ này vào quá trình làm phim. Vào quý I/2004, hãng phim này đã cho lắp đặt, vận hành hệ thống máy móc làm phim 3D. Với hệ thống thiết bị hiện đại này, một số công đoạn thủ công trước đây sẽ được thực hiện trên máy vi tính như: tô màu, vẽ động, phối hợp giữa phông và cảnh động. Máy móc còn giúp các nhà làm phim thực hiện những cảnh kỹ xảo, tạo hiệu quả nghệ thuật tối đa, đem lại những bất ngờ mới cho người xem. Bên cạnh kỹ thuật 3D, công Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 12 Báo cáo thực tập tốt nghiệp nghệ mới còn cho phép thực hiện những bộ phim họat hình 2D nhưng có chất lượng vượt trội hơn hẳn so với hệ thống làm phim hoạt hình 2D hiện nay. Vậy vấn đề kỹ thuật không phải là một vấn đề chủ chốt cần phải giải quyết hiện nay bởi với những kỹ thuật mới và những trang thiết bị hiện đại, các nhà làm phim hoàn toàn có khả năng biến thành hiện thực những ý tưởng của mình. Với dây chuyền công nghệ làm phim hiện đại và nếu các nhà làm phim biết cách tạo các cơ hội hợp tác với nước ngoài thì Việt Nam sẽ có những bộ phim hoạt hình hay. Vậy vấn đề có phải nằm ở kinh phí được cung cấp cho làm phim hoạt hình? Việc đầu tư hệ thống trang thiết bị làm phim 3D trị giá 7 tỉ đồng cho thấy kinh phí cung cấp cho làm phim không quá eo hẹp. Với kinh phí cho một tập phim của một bộ phim dài tập khoảng 200 triệu đồng thì kinh phí dành cho một bộ phim hoạt hình khoảng 160 triệu. Có nhiều người cho đây là một con số khiêm tốn nhưng nếu nhìn nhận lại, với một đội ngũ làm phim như hiện nay thì dù kinh phí cung cấp nhiều hơn cũng chưa chắc đã tạo ra được một bộ phim ghi dấu ấn trong lòng khán giả. Và với những kỹ thuật hiện đại còn cho phép giảm đáng kể kinh phí sản xuất. Vậy thực chất vấn đề ở đây là gì? Đó chính là chất lượng của đội ngũ làm phim hoạt hình và cách thức truyền đạt ý nghĩa của một bộ phim. Nếu nhìn lại tất cả những bộ phim hoạt hình mà Việt Nam đã sản xuất, kể cả phim hoạt hình 2D lẫn 3D thì có thể thấy rõ ràng rằng phim hoạt hình Việt Nam thực sự không đáp ứng được nhu cầu của các em thiếu nhi. Hoạt hình Việt Nam từ trước tới nay đều bị phê phán là “giáo điều”, quá chú trọng mặt giáo dục tư tưởng cho người xem, mà quên đi tầm quan trọng của sức hấp dẫn của một bộ phim hoạt hình nói riêng và nền điện ảnh nói chung. Làm sao có thể chuyển tải được bài học bổ ích cho người xem khi không thể cuốn hút họ xem hết phim? Trong giai đoạn hiện nay, bằng việc áp dụng những công nghệ mới, những hình ảnh trong phim đã được nâng cao rất nhiều về chất lượng nhưng vẫn chưa thoát được điểm yếu về “nội dung”. Vấn đề kịch bản có thể là vấn đề muôn thủa của điện ảnh nói chung và hoạt hình nói riêng. Kịch bản hoạt hình, với đối tượng chính là trẻ em, lẽ ra phải hướng về trẻ em. Nhưng có thể các nhà làm phim đã không thử đặt câu hỏi trẻ em thực sự trông chờ và đòi hỏi gì ở một bộ phim hoạt hình. Kho tàng phim hoạt hình thế giới rộng lớn như vậy nhưng các nhà làm phim hoạt hình Việt Nam vẫn chưa chịu học hỏi cách viết kịch bản sao cho vừa hấp dẫn vừa độc đáo chứ không thể chỉ dựa vào kho tàng truyện cổ tích dân gian. Kho tàng truyện cổ dân gian khá là lớn nhưng liệu còn tính hấp dẫn của bộ phim không khi mới xem phần đầu đã đoán ra được phần kết của câu chuyện? Yếu tố sáng tạo, giải trí, hài hước và thư giãn ít khi được để ý đến. Thay vào đó, các nhà làm phim cứ cho rằng việc “dạy dỗ” trẻ con là một điều tối cần thiết nên cứ nhất định đưa những bài học đạo đức vào phim. Thực ra việc làm này rất tốt và rất đáng được hoan nghênh nhưng vì việc chuyển tải một cách khô khan và gượng ép nên hiếm khi đến được đối tượng trẻ em. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 13 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hiện nay, Trung Tâm Sản Xuất Phim Hoạt Hình thuộc VFC đang tập trung thực hiện 100 tập của bộ phim hoạt hình lịch sử xoay quanh đất và người Thăng Long – Hà Nội. Nhưng liệu đây sẽ là một bộ phim có khán giả không khi mà Trung Tâm Sản Xuất Phim Hoạt Hình này chưa từng sản xuất được một bộ phim lẻ hấp dẫn, thành công về doanh thu? Studio Pixar đã từng chỉ sản xuất những bộ phim lẻ thành công trước khi họ có quyết định chuyển sang làm những phim hoạt hình bộ. Vì thế, các nhà sản xuất phim hoạt hình cần phải xem xét kỹ trước khi tiến hành bởi nếu không thành công, bộ phim một sự lãng phí rất lớn về chi phí và nhân lực. Để khắc phục những hạn chế trên đây và nhất là những “khoảng trống” về phim thiếu nhi của điện ảnh Việt Nam, trước hết cần đột phá vào hai khâu quan trọng nhất là quan niệm của người sáng tác và định hướng của nhà quản lý. Các nhà làm phim cần thay đổi cách nghĩ, cách làm phim cho trẻ em để có sự đồng điệu giữa ý tưởng của người sáng tác và nhu cầu thẩm mỹ của người hưởng thụ. Cũng như mọi sản phẩm khác, khán giả chỉ xem, mua hoạt hình khi nhu cầu của họ được thỏa mãn. Có lẽ đã đến lúc các nhà làm phim hoạt hình Việt Nam chịu lắng nghe nhu cầu của khán giả nhỏ tuổi, trước khi bỏ tiền và công sức ra làm những bộ phim chỉ để chiếu một lần trên truyền hình, tham dự các giải thưởng rồi chỉ để đấy, chờ đợi kinh phí làm phim tiếp theo. Một vấn đề nữa thường thấy trong phim hoạt hình 3D của Việt Nam nói riêng và phim hoạt hình 2D nói chung là vấn đề về âm thanh. Trong các bộ phim hoạt hình, ta thường thấy những người lồng tiếng chủ yếu là người lớn dù đó là nhân vật trẻ con hay là một con vật nào đó. Có thể những nhà làm phim không chú ý đến vấn đề này nhưng khi xem phim, nhất là trẻ em sẽ không thấy sự tương đồng và làm cho trẻ em cảm thấy bộ phim không dành cho mình. Thêm vào đó, cách tạo tiếng động, âm nhạc, các bài hát thường không được chú ý đến mặc dù đây là một thành phần chủ chốt tạo nên một sự thành công cho bộ phim. Nếu xem phim hoạt hình của nước ngoài sẽ thấy vấn đề âm thanh được đầu tư rất kỹ. Vừa xem phim vừa nghe nhạc sẽ làm cho câu chuyện trong phim rất dễ đi vào lòng người. Một ví dụ rất điển hình cho việc xử lý âm thanh là bộ phim “Happy feet” với những ca khúc rất hay. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 14 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hình 11 - Happy feet (2006 ) Và một vấn đề khó giải quyết hiện nay là sự phối hợp chưa ăn ý giữa những đạo diễn phim, những người làm nghệ thuật với những người thực hiện, các nhà kỹ thuật. Một bộ phim hoạt hình đòi hỏi một sự làm việc ăn ý nhau giữa những người tham gia. Và nhất là một bộ phim 3D lại càng phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa. Nhưng một thực tế hiện nay là tồn tại hai cách nhìn khá mâu thuẫn trong nhóm làm phim. Những người làm nghệ thuật và những người thực hiện đều xem trọng vai trò của mình lớn hơn vai trò kia. Nhưng nghệ thuật không thể làm được gì, không thể thể hiện được ý tưởng của mình khi không có kỹ thuật hỗ trợ. Và kỹ thuật cũng chỉ là vô hồn khi không có nghệ thuật dẫn đường. Sự phát triển chậm chạp của hoạt hình 3D Việt Nam một phần là do nguyên nhân này. Và để khắc phục vấn đề này không có cách nào khác hơn là phải có sự hiểu nhau và thông cảm với nhau giữa những thành viên làm phim. Hoạt hình 3D Việt Nam chỉ mới trải qua đoạn đầu của chặng đường phát triển. Khó khăn và thách thức ban đầu lúc nào cũng có nhiều, nhưng chỉ có việc vượt qua những khó khăn này mới có thể đưa hoạt hình Việt Nam đạt được những thành công lớn hơn để đáp ứng được lòng mong mỏi và sự ủng hộ của người hâm mộ Việt Nam. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 15 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phần II – Quy trình và các kỹ thuật bổ sung cho quá trình làm phim hoạt hình 3D 1. Quy trình làm phim hoạt hình 3D Hoạt hình hiện nay được chia thành 3 loại chính dựa vào cách thức thực hiện: dạng cel, stop-motion và hoạt hình 3D có sử dụng máy tính. Hoạt hình dạng cel (được lấy tên từ loại giấy celluloid thường được sử dụng khi vẽ các hình ảnh) là hoạt hình 2D. Những hình ảnh liên tiếp được vẽ bằng tay bởi họa sĩ thông qua một bề mặt phẳng nào đó hoặc thông một môi trường máy tính. “Gia đình Simpsons” là một ví dụ về loại phim hoạt hình này. Hình 12 - The Simpsons Hình 13 - Wallace & Gromit Hoạt hình dạng stop-motion (hay còn gọi là frame-by-frame) có thể là hoạt hình 2D hoặc 3D tùy thuộc vào từng mục đích cụ thể. Đây là một kỹ thuật giúp cho các đối tượng tĩnh có thể chuyển động khi quay. Những đối tượng này dịch chuyển một khoảng cách rất nhỏ giữa các frame liên tiếp, tạo ra hiệu ứng chuyển động khi phim được phát lại, cũng giống như phim hoạt hình được tạo ra bằng cách vẽ tay tất cả các hình ảnh mô tả chuyển động. Claymation cũng là một dạng của hoạt hình stop-motion. Dạng này yêu cầu rất nhiều những bức ảnh chụp mô tả những chuyển động khác nhau rất nhỏ trong một cảnh. Điểm khác nhau căn bản ở đây chính là cách sử dụng những mô hình nhân vật là các mô hình như búp bê. Claymatino thường là hoạt hình 3D bao gồm các mô hình 3D được chạm khắc rồi đặt trong một cảnh 3D. Wallace & Gromit là một ví dụ rất điển hình về loại phim hoạt hình stopmotion. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 16 Báo cáo thực tập tốt nghiệp Hoạt hình 3D có sử dụng máy tính bao gồm một quá trình đặc biệt. Nó là một quá trình tương tác trong đó các thành phần được tạo ra, gọt dũa, và liên kết với các thành phần khác. Và một điểm đặc biệt quan trọng: hoạt hình 3D không phải là một quá trình tuyến tính. Hình 14 là một lưu đồ gần tuyến tính của quá trình thực hiện Hình 14 - Lưu đồ thực hiện Bước đầu tiên của một dự án 3D là lập kế hoạch. Đây là một bước không thể bỏ qua bởi tính quan trọng của nó, mỗi giờ dùng cho việc lập kế hoạch sẽ tiết kiệm được 10 giờ trong quá trình thực hiện. Quá trình lập kế hoạch bao gồm rất nhiều các bản phác thảo khác nhau. Nếu kết quả cuối cùng của dự án là những bức ảnh mô tả tập hợp các bánh răng và răng thì những bản phác thảo sẽ mô tả những răng cưa sẽ trông như thế nào, chúng sẽ được kết hợp lại như Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 17 Báo cáo thực tập tốt nghiệp thế nào cũng như những lưu ý đến màu sắc và ánh sáng. Nếu kết quả của dự án là một nhân vật thì những phác thảo là những đặc điểm của nhân vật đó. Nếu kết thúc dự án là một phim hoạt hình, có thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho các cảnh phim nếu một storyboard hiệu quả quan tâm đến góc quay của camera, thời gian quay và hướng nhìn của bố cục. Hình 15 là một storyboard của một dự án thực tế Hình 15 – Storyboard Sau khi khuôn dạng của mô hình và bố cục của cảnh được thực hiện trên giấy, quá trình mô hình hóa được tiến hành. Khi làm trong thực tế, chúng ta dễ dàng vướng vào những khó khăn như cách thức tạo nếp nhăn của da ở dưới mắt hay những vết sấn sùi trên bề mặt của bánh răng. Những đặc điểm này không thể bị che dấu bằng cách làm tối đi. Mô hình hóa là một quá trình khá khó khăn và rất thú vị nhưng đó cũng chỉ là một phần của một dự án hoàn chỉnh. Rất nhiều người dành rất nhiều thời gian chỉ để tạo ra những mô hình hoàn thiện và không đủ thời gian dành cho việc liên kết hay tạo chuyển động cho mô hình và kết thúc là có rất nhiều mô hình nhưng dự án lại không hoàn thành. Việc này rất tốt nếu công việc của bạn chỉ là mô hình hóa, nhưng lại là một sự thất bại nếu mục đích của bạn rõ ràng hơn. Phần sau của mô hình có thể được nhìn thấy hay không? Mô hình hay máy quay có chuyển động khi quay phim hay không? Ánh sáng có rõ ràng hay không? Loại mô hình nào sẽ được thực hiện với loại kết cấu nào? Những câu hỏi này cần được trả lời trước khi Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 18 Báo cáo thực tập tốt nghiệp bạn bắt đầu mô hình hóa. Không cần thiết phải tạo ra những phần của mô hình nếu chúng không được nhìn thấy. Và không cần thiết phải đầu tư quá nhiều thời gian vào các chi tiết nếu chúng chỉ được quay qua máy quay với ánh sáng mờ và trong thời gian ít hơn một giây. Sau khi tất cả những bản phác thảo đã được hoàn tất, những bước tiếp theo được thực hiện với sự trợ giúp của máy tính. Việc đầu tiên của quá trình này là mô hình hóa trên máy tính. Nếu các bản phác thảo hiệu quả, quá trình mô hình hóa có thể là một quá trình thú vị. Thỉnh thoảng, bạn sẽ nhận ra rằng phần mềm hoặc mô hình của bạn không giống với những yêu cầu trong bản thiết kế gốc. Lúc đó, vòng lặp “return to Step X” bắt đầu. Thiết kế lại một phần nào đó rồi mô hình hóa lại. Khi các mô hình hình học được tạo ra, quá trình texture bắt đầu. Thông thường, quá trình texture bao gồm việc sử dụng những kết cấu ghép. Ở thời điểm này, nó tạo ra kết cấu thông qua những bức ảnh chụp và những bề mặt khác, trong khi ở thời điểm khác, quá trình texture được thực hiện thông qua những bức vẽ kết cấu của bạn từ những bức hình được tạo ra từ chương trình khác như Photoshop, Illustrator, ... Sau khi các kết cấu được hoàn thành, chúng sẽ được ánh xạ đến hình dạng của mô hình. Có thể trong quá trình này, bạn sẽ thấy một số kết cấu cần được thay thế hoặc kết cấu này không thể che phủ hết các vết hở của mô hình, vì thế một số bước tự hiệu chỉnh lại là cần thiết. Khi áp các kết cấu, cần phải thực hiện nhiều lần render tạm thời để quan sát các kết cấu khi được phủ lên bề mặt của mô hình. Và khi render, cần phải chắc chắn rằng sử dụng đúng thuật toán render nhanh vì chỉ sử dụng để quan sát hiệu quả. Sau khi áp các kết cấu lên các mô hình, cần phải đặt các mô hình vào ánh sáng của dự án. Sau đó lặp lại lần nữa quá trình render. Thông thường trong pha chiếu sáng, bạn có thể thấy rằng cách thức chiếu sáng mà bạn sử dụng làm mờ đi màu sắc của các kết cấu, việc thực hiện một số điều chỉnh đến các kết cấu là cần thiết. Bây giờ, nếu yêu cầu của dự án vẫn còn, quá trình render hoàn chỉnh là cần thiết. Nếu dự án là một phim hoạt hình, cần đảm bảo chắc chắn rằng storyboard được thực hiện tốt và dễ hiểu. Nếu phim hoạt hình yêu cầu phải có sự đồng bộ giữa chuyển động và âm thanh thì xây dựng một bảng liệt kê dope sheet như bảng sau đây là một bước quan trọng. Tạo ra bảng này để ghép nối các yêu cầu của bạn. Bảng liệt kê là một cách thức cơ bản để ánh xạ chuyển động và âm thanh trên những frame cần thiết. Nguyễn Thị Thương Huyền – Lớp Công Nghệ Phần Mềm K47 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan