Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kinh tế xã hội tỉnh an giang từ năm 1986 đến năm 2005...

Tài liệu Kinh tế xã hội tỉnh an giang từ năm 1986 đến năm 2005

.PDF
167
650
66

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------- Phạm Thị Tuyết Nga KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2005 Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ VĂN ĐẠT Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CÁM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy cô khoa sử đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn TS. Lê Văn Đạt, thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành việc học tập và nghiên cứu. Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến các Ban Ngành tỉnh An Giang, Thư viện tỉnh An Giang, biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Trân trọng biết ơn! Tác giả luận văn Phạm Thị Tuyết Nga MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài An Giang - một tỉnh đồng bằng phía Tây nam của tổ quốc - mảnh đất giàu truyền thống lịch sử - văn hóa, có tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều thế kỷ trôi qua, vùng đất và con người An Giang đã góp công to lớn vào những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam không chỉ trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm mà còn cả trong lao động sản xuất. Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng (30/04/1975), nhân dân An Giang với đức tính cần cù, chịu thương chịu khó và tinh thần cách mạng kiên cường đã nhanh chóng bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua 10 năm khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội (1975 – 1985), bằng sự nổ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, tỉnh An Giang đã thu dược những thắng lợi cơ bản, đời sống vật chất – tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước giải phóng. Tuy vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở An Giang giai đoạn này cũng tồn tại những hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) với đường lối đổi mới đúng đắn đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng phù hợp với thực tế địa phương, trong những năm 1986 – 2005, kinh tế - xã hội An Giang đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. Mặc dù vậy, quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong giai đoạn đầu thực hiện công cuộc đổi mới cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, việc dựng lại bức tranh chân thực và sinh động quá trình phát triển kinh tế - xã hội từ sau ngày giải phóng đến năm 2005 đặc biệt để thấy được thành tựu, sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2005) ở tỉnh An Giang là một vấn đề mới, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Trước hết, nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta có cách nhìn toàn diện, hệ thống, đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung, của một tỉnh đồng bằng Nam bộ nói riêng mà An Giang là một trong những điển hình. Đó cũng là căn cứ khoa học giúp cho các cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, từ đó tạo động lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở An Giang đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về: “Kinh tế - xã hội tỉnh An Giang từ 1986 đến 2005” có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu, giảng dạy lịch sử địa phương, giúp cho thế hệ trẻ có những hiểu biết bổ ích về truyền thống hào hùng của quê hương, về công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước, qua đó thấy được trách nhiệm của mình đóng góp vào sự nghiệp xây dựng quê hương, Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Đồng thời, quá trình hoàn thành đề tài này còn giúp tôi rèn luyện công tác nghiên cứu khoa học, vận dụng vào công tác giảng dạy của mình, đặc biệt phần lịch sử địa phương thời kỳ đổi mới. Với những ý nghĩa như vậy, tôi quyết định chọn vấn đề: “Kinh tế - xã hội tỉnh An Giang từ năm 1986 đến năm 2005” làm đề tài luận văn Thạc sỹ sử học của mình. 2. Lịch sử vần đề Nghiên cứu về kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới của đất nước nói chung và ở các vùng nông thôn nói riêng là một vấn đề cấp thiết được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu ở các Trung ương và địa phương quan tâm. Trước hết phải kể đến các bài viết của những nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước ta như: “Đổi mới để tiến lên” của đồng chí Nguyễn Văn Linh, “Sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Đỗ Mười, hay “Đổi mới - bước phát triển tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Nguyễn Khánh,... Nhìn chung, các tác phẩm này tập trung tìm hiểu những vấn đề kinh tế - xã hội có tính khái quát trên cả nước, qua đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới, đồng thời cũng rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những định hướng, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần làm cho chủ trương và đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng phát huy tác dụng trong cuộc sống. Các cuốn sách: “Đổi mới kinh tế và phát triển” của tác giả Đoàn Thị Thu Hà, nhà xuất bản Khoa học xã hội 1995; “Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận cấp bách” của Trần Xuân Tường, nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996; “Đổi mới chính sách xã hội: Luận cứ và giải pháp” của tác giả Phạm Xuân Nam, xuất bản 1997; “Đổi mới để phát triển”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002,... đã đề cập, nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội của nước ta trong thời kỳ đổi mới mang tính khái quát cả phương diện lý luận và thực tiễn. Một số công trình khác nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới như: “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thành tựu và triển vọng” của tác giả Nguyễn Văn Bích, nhà xuất bản Hà Nội 1994; “Đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn”, nhà xuất bản Nông nghiệp 1998; “Đổi mới tổ chức và quản lý các hợp tác xã nông nghiệp nông thôn” của Lương Xuân Quý, nhà xuất bản Hà Nội 1999; “Đổi mới nông nghiệp và nông thôn dưới góc độ thể chế”, Trường Đại học kinh tế quốc dân xuất bản năm 2000; “Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2000,... Trong mức độ nhất định, các công trình này đã cung cấp cách nhìn, đánh giá công cuộc đổi mới trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Thời kỳ 1954 – 1975 có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Bộ, vùng đất An Giang hoặc có đề cập đến kinh tế - xã hội An Giang được công bố. Dưới chính quyền Sài Gòn, Ban nghiên cứu Tòa Hành chính An Giang còn cho biên soạn các quyển địa phương chí như: Địa phương chí tỉnh Long xuyên 1956, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1956, Địa phương chí An Giang 1959, Địa phương chí An Giang 1961, Địa phương chí An Giang 1963, Địa phương chí tỉnh An Giang 1967, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc 1968, Địa phương chí tỉnh An Giang 1973,… đã đề cập một cách tổng quát về lịch sử, điều kiện tự nhiên, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, danh lam thắng cảnh của tỉnh. Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khẩn hoang vùng Hậu Giang của Nguyễn Văn Hầu được xuất bản năm 1973. Tác giả viết về công trình đào kênh, mở đường khẩn hoang lập làng ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu giai đoạn cuối thời vua Gia Long đầu thời vua Minh Mạng. Lịch Sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam xuất bản năm 1973, cũng đã cung cấp những tư liệu về cuộc khẩn hoang lập làng ở vùng đất Nam Bộ nói chung, An Giang nói riêng vào thế kỷ XVIII – XIX. Tác phẩm Gia Định xưa, nhà văn Sơn Nam đã đề cập đến vấn đề đất đai, thiên nhiên, phong thổ, phong tục, tạp quán của vùng đất Nam bộ và công cuộc khẩn hoang vùng biên giới Tây Nam. Từ sau năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu về đồng bằng sông Cửu Long và An Giang, với những vấn đề sâu hơn. Tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa chủ biên, đã góp phần tìm hiểu sâu hơn về quá trình khai phá vùng đất Nam bộ, trong đó có An Giang. Tác giả đã khái quát quá trình di chuyển dân cư, khai hoang lập đồn điền, tổ chức sản xuất nông nghiệp, những biến đổi về mặt xã hội. Quyển Những trang về An Giang của Trần Thanh Phương xuất bản năm 1984. Đây là quyển sách địa chí, đã đề cập đến thiên nhiên, con người, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế An Giang trong các thế kỷ XVIII – XX. Trong Lịch sử An Giang của Sơn Nam được xuất bản vào năm 1988, tác giả đã đề cập đến những biến đổi về mọi mặt của vùng đất An Giang từ khi hòa hợp vào lãnh thổ nước ta đến thời Pháp thuộc. Quyển Văn hóa và cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường xuất bản năm 1990 đã nghiên cứu về các tộc người đang sinh sống trên mảnh đất đồng bằng sông Cửu Long. Các tác giả đã đề cập đến mọi mặt trong sinh hoạt về mặt kinh tế - xã hội của cư dân đã từng sinh sống ở vùng đất này. Tác phẩm Về dân tộc ở vùng đồng bằng sông cửu Long xuất bản năm 1991 đã đề cập khá chi tiết về sinh hoạt kinh tế của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa đang sinh sống ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng đất An Giang nói riêng. Quyển Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX của Huỳnh Lứa xuất bản năm 2000. Tác giả có đề cập đến quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ, khai hoang lập ấp, công cuộc đào kênh, các hoạt động kinh tế ở An Giang trong hai thế kỷ XVIII – XIX. Bên cạnh đó còn có các tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu và phát triển do Nguyễn Công Bình chủ biên, Nghề nông Nam Bộ của Trần Xuân Kiêm biên soạn năm 1992, Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Vũ Minh Giang chủ biên. Ngoài ra, các bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học như Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII – XIX do Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, Lịch sử phát triển kinh Vĩnh Tế, Lịch sử hình thành vùng đất An Giang do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang và Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh An Giang đã phối hợp với Viện khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, …; các bài viết trên các báo chuyên ngành được công bố thường xuyên có liên quan đến kinh tế - xã hội An Giang. Kinh tế - xã hội tỉnh An Giang thời kỳ đổi mới được Đảng bộ, các cấp chính quyền tỉnh An Giang đặc biệt quan tâm. Quyển An Giang 25 năm xây dựng và phát triển của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xuất bản 2000 đã đề cập đến những vấn đề kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang trong giai đoạn sau năm 1975 – 2000. Quyển An Giang 30 năm xây dựng và phát triển của Tỉnh ủy An Giang xuất bản năm 2005 viết về những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội của tỉnh trong 30 năm qua. Quyển Những bước đột phá của An Giang trên chặng đường đổi mới kinh tế của Đỗ Hoài Nam và Đặng Phong chủ biên xuất bản 2006. Đây là sách viết về bối cảnh lịch sử An Giang trước giải phóng, những ngày sau giải phóng, An Giang cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện những mũi đột phá trên nhiều lĩnh vực khác nhau, để từ đó đi đến đổi mới toàn diện nền kinh tế của tỉnh. Mặc dù bước đầu nêu một số thành tựu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội tỉnh An Giang nhưng là tài liệu quý giá giúp chúng tôi trong việc tiếp cận vấn đề, hoàn thành luận văn. Như vậy, tất cả các công trình nêu trên mới đề cập những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, hoặc chỉ dừng lại ở những báo cáo, thống kê về kinh tế xã hội tỉnh An Giang trong thời kỳ đổi mới. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, trình bày có hệ thống riêng về vấn đề kinh tế - xã hội tỉnh An Giang từ 1986 đến năm 2005. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Đối tượng Đề tài luận văn tập trung tìm hiểu và làm rõ tình hình kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2005. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, đề tài tìm hiểu về An Giang một tỉnh đồng bằng ở phía Tây Nam tổ quốc. Về thời gian, đề tài chủ yếu tìm hiểu kinh tế - xã hội tỉnh An Giang giai đoạn từ 1986 đến 2005. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang từ 1986 đến 2005. Trên cơ sở đó dựng lại bức tranh kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong 20 năm đổi mới (1986 – 2005). Từ thực tiễn sinh động của quá trình phát triển cũng như những thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh An Giang đạt được, đề tài rút ra những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong thời kỳ đổi mới, những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang. Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cho tỉnh An Giang trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Để nghiên cứu, giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin bàn về kinh tế - xã hội, các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh An Giang về vấn đề phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Những công trình nghiên cứu về kinh tế - xã hội các vùng nông thôn An Giang, các niên giám thống kê lưu trữ tại cục thống kê An Giang. Nguồn tư liệu gốc viết về tỉnh An Giang như: Các báo cáo chính trị tại những lần Đại hội Đảng bộ tỉnh từ 1975 đến 2005, Báo cáo tổng kết và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch 5 năm, Báo cáo tổng kết và phương hướng hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh, Số liệu thống kê lưu giữ ở các Sở, Ban, Ngành tỉnh An Giang. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng tư liệu điền dã thông qua những lần thực tế tại một số di tích lịch sử, đơn vị kinh tế, xã hội trên địa bàn An Giang, các tư liệu trên báo chí, mạng Internet... để làm phong phú và sáng tỏ nội dung của đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp logic được xác định là những phương pháp cơ bản để tiến hành nghiên cứu. Hỗ trợ cho phương pháp lịch sử và phương pháp logic là phương pháp thống kê nhằm hệ thống các số liệu, dữ kiện làm cơ sở để kết hợp đồng thời với phương pháp tổng hợp rút ra những kết quả tổng hợp, đáp ứng yêu cầu của một đề tài lịch sử kinh tế - xã hội. Ngoài ra phương pháp so sánh cũng được vận dụng để giúp làm sáng tỏ những hoạt động và chuyển biến của kinh tế - xã hội tỉnh An Giang so với các thời kỳ trước và sau đó. Phương pháp khảo sát điền dã: Tác giả luận văn đã tiếp xúc với những người trồng lúa ở huyện Châu Phú, nghề sản xuất gạch ở huyện châu Thành, làm mắm ở Châu Đốc,… Các cán bộ như: Sở y tế, Sở Văn hóa Thông tin, Ban dân tộc, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn… Đồng thời còn thu thập tài liệu điền dã để có thêm cơ sở nhận định về kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong 20 năm đổi mới. 5. Đóng góp của luận văn Dựng lại bức tranh toàn cảnh về sự chuyển biến kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trong gần 20 năm đổi mới (1986 – 2005). Nêu bật những thành tựu, đặc điểm, bài học kinh nghiệm trong xây dựng, phát triển kinh tế xã hội tỉnh An Giang thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2005. Đề xuất một số giải pháp cho tỉnh An Giang trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội giai đoạn hiện nay. Có thể dùng luận văn làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy lịch sử địa phương, giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt đối với tỉnh An Giang. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Khái quát về vùng đất, con người, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh An Giang trước năm 1986. Chương 2: Kinh tế tỉnh An Giang từ năm 1986 đến năm 2005. Chương 3: Xã hội tỉnh An Giang từ năm 1986 đến năm 2005. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH AN GIANG TRƯỚC NĂM 1986 1.1. Khái quát về vùng đất, con người An Giang 1.1.1. Điều kiện tự nhiên An Giang là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa vĩ tuyến 100 và 110 Bắc, giữa kinh tuyến 104,710 và 105,50 Đông, ở phía Tây Nam của nước Việt Nam. Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp; phía tây Bắc giáp vương quốc Campuchia với đường biên giới dài gần 96,6 km; phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh kiên Giang; phía Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.406 km2, bằng 1,03% diện tích cả nước và đứng thứ 4 so với 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm: thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện là Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ mới, Phú Tân, Tân Châu và An Phú với 150 xã, phường, thị trấn. Hai Huyện Tịnh Biên và Tri Tôn được chính phủ công nhận là huyện miền núi. Là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có hệ thống giao thông thủy, bộ rất thuận tiện. Giao thông chính của tỉnh là một phần của mạng lưới giao thông liên vùng quan trọng của quốc gia và quốc tế, có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên, Vĩnh Xương – Tân Châu và Long Bình – An Phú. Đó là lợi thế cho quá trình mở cửa, phát triển và hội nhập kinh tế An Giang với các tỉnh trong khu vực, ngoài nước, nhất là khu vực Đông Nam Á. An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 270C; lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm, có năm lên tới 1.700 – 1.800 mm, độ ẩm trung bình 80% - 85% và có sự dao động chế độ mưa theo mùa. Khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. An Giang có nguồn nước mặt và nước ngầm rất dồi dào. Sông Tiền và sông Hậu chảy song song từ Tây Bắc xuống Đông Nam trong địa phận của tỉnh dài gần 100 km, lưu lượng trung bình năm 13.800 m3/s. Bên cạnh đó có 280 tuyến sông, rạch và kênh lớn, nhỏ, mật độ 0,72 km/km2. Chế độ thủy văn của tỉnh phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước của sông Mê Kông, hàng năm có gần 70% diện tích tự nhiên bị ngập lũ, thời gian ngập lũ từ 3 – 4 tháng, vừa đem lại lợi ích to lớn – đưa lượng phù sa, vệ sinh đồng ruộng... nhưng cũng đã gây ra những tác hại nghiêm trọng. Trong 30 năm qua đã có đến 5 lần ngập cao làm thiệt hại tính mạng, mùa màng, cơ sở hạ tầng, nhà ở của cư dân... làm cho suất đầu tư của tỉnh thường ở mức cao nhưng hiệu quả mang lại bị hạn chế. Về đất đai và thổ nhưỡng, An Giang có 6 nhóm chính, trong đó chủ yếu là nhóm đất phù sa 151.600 ha chiếm 44,5% diện tích đất tự nhiên; nhóm đất phù sa có phèn 93.800 ha chiếm 27,5%; nhóm đất phát triển tại chỗ và đất phù sa cổ 24.700 ha chiếm 7,3%; còn lại là đất phèn và các nhóm khác. Hệ thống sông rạch tỉnh An Giang đã góp phần hình thành 72% diện tích đất phù sa hoặc có nguồn gốc phù sa do bù đắp hàng năm. Địa hình bằng phẳng, độ thích nghi đối với các loại cây trồng khá rộng. Diện tích đất nông nghiệp từ 289.316 ha năm 1976, bình quân khoảng 0,212 ha/người, đến năm 2005 dự kiến đất nông nghiệp còn 258.523 ha, bình quân khoảng 0,117 ha/người, thấp hơn nhiều tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. An giang có trên 583 ha rừng tự nhiên thuộc rừng ẩm nhiệt đới, đa số là cây lá rộng, với 154 loài cây quý hiếm thuộc 54 họ. Sau 1975 một thời gian diện tích rừng bị thu hẹp, những năm đầu của thập niên 90 trở đi tỉnh đã chú ý nhiều tới việc gây lại vốn rừng. Năm 2000 đất rừng 12.443 ha và với 30.500 ha diện tích cây phân tán, đến năm 2005 đất rừng 15.755 ha và với 50.000 ha cây phân tán, độ che phủ khoảng 19%. Động vật rừng An Giang cũng khá phong phú và có loài quý hiếm. Rừng tập trung chủ yếu ở vùng Bảy núi tạo nên nhiều phong cảnh đẹp cùng với những di tích văn hóa – lịch sử, góp phần phát triển kinh tế địa phương tương đối đa dạng. Nguồn lợi thủy sản trên hai con sông Tiền sông Hậu không nhỏ, và cùng với hệ thống kênh, rạch, ao, hồ đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi cá bè, ao hầm, tôm trên chân ruộng mà từ lâu nó đã trở thành nghề truyền thống của nhân dân địa phương – đây cũng là thế mạnh đặc trưng ở An Giang. So với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, An Giang có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, với trữ lượng: đá granít trên 7 tỷ m3; đá cát kết 400 triệu m3; sét gạch ngói 40 triệu m3; cao lanh 2,5 triệu tấn; than bùn 16,4 triệu tấn; vỏ sò 30 – 40 triệu m3; ngoài ra còn các loại puzolan; penspat, bentonite, cát, sỏi ... Tài nguyên khoáng sản là lợi thế của tỉnh so với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đá, cát, đất sét ... là nguyên liệu cho việc sản xuất vật liệu phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong tỉnh, vùng. 1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 1.1.2.1. Đặc điểm kinh tế Từ xưa, cư dân An Giang sống bằng nghề làm ruộng, đánh bắt cá, tôm… và một số nghề thủ công như dệt, mộc đan lát, nắn nồi, chạm khắc đá,.. Ở vùng cù lao đất giồng, nước ngập không đáng kể, việc canh tác tương đối dễ dàng. Từ cây lúa, con cá, cư dân tiến dần qua trồng trọt hoa màu, cây ăn trái,… và phát triển các ngành nghề thủ công cổ truyền của dân tộc. Nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa khá phổ biến, tập trung nhiều nhất ở vùng Tân Châu, Chợ Mới. Cho đến đầu thế kỷ XX, lụa Tân Châu đã nổi tiếng một thời vừa bền, vừa đẹp. Ở Bảy Núi, Châu Giang (Châu Đốc), đồng bào Khơmer, Chăm đã cần cù dệt nên những chiếc “Xà Rong”, khăn đội đầu, khăn choàng tắm, áo,… nhiều màu sặc sở. Nghề mộc cũng sớm phát triển trên đất Chợ Mới. Ở An Giang và cả Miền Tây đều biết đến những người thợ miệt Chợ Thủ (Chợ Mới) qua những sản phẩm thủ công tinh xảo có tính nghệ thuật cao, từ đơn giản đến cầu kỳ, phức tạp. Ở núi Sam, núi Sập do nhu cầu tiêu dùng của xã hội, dần dần hình thành tầng lớp “thợ” chuyên khai thác đá. Ngoài đá xây dựng ra, họ còn làm ra những đồ dùng như cối giã gạo, chày đâm tiêu, cối xay bột, mặt bàn… và cả đồ trang sức bằng đá quý. Nghề đan bàng, đưng tập trung ở vùng Tịnh Biên, Tri Tôn. Với bàn tay khéo léo của người nông dân, từ những cây cỏ ngoài đồng sâu đã biến thành những vật dụng cần thiết cho gia đình như mái nhà, đệm, giỏ xách… Đặc biệt là cây bàng đã tạo ra chiếc nón kỳ diệu để sau này cùng với cây tầm vông đi vào lịch sử đấu tranh oai hùng của dân tộc, in đậm trong ký ức của người dân vùng đồng bằng châu thổ. Tuy nghề thủ công có phát triển, nhưng cơ nghiệp của người dân An Giang dựng lên được hàng trăm năm nay chủ yếu là bắt nguồn từ cây lúa. Những người dân An Giang đầu tiên cũng chỉ biết làm ruộng cấy ở vùng Cù lao, Bảy Núi, còn ở vùng ngập nước thì đánh bắt cá, tôm hoặc trồng hoa màu phụ sinh sống qua ngày. Cảnh “phá sơn lâm, đâm hà bá” ngày càng không phù hợp với sự gia tăng dân số. Bản thân cây lúa cũng bị hạn chế về diện tích gieo trồng, không đối đầu được với mùa nước nổi hàng năm. Người dân An Giang trong quá trình lao động cần cù sau này đã tìm cho mình cây lúa nổi đủ sức vươn mình và tồn tại lên trên mặt nước mênh mông. Cây lúa nổi đối với cư dân An Giang là một biểu tượng tuyệt vời về sức sống mãnh liệt trong quá trình mở đất và giữ đất. Nhìn chung, tiềm năng kinh tế của tỉnh An Giang là khá đa dạng, nhân dân An Giang lại cần cù, khéo tay và năng động. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân An Giang ra sức xây dựng và bảo vệ quê hương trong thời kỳ mới. 1.1.2.2. Đặc điểm xã hội Từ thời Gia Long trở về sau, công cuộc khẩn hoang càng được đẩy mạnh. Từ biên giới xuống cái Tàu Thượng (Hội An,Chợ Mới) lần hồi lập được tổng Vĩnh Trinh với 29 thôn… Đến năm 1975, An Giang có khoảng 1.360.000 dân. Năm 1989, dân số của tỉnh tăng lên 1.773.666 người và đến năm 2005 tăng lên 2.200.000 (tăng 62%). Có 4 dân tộc chủ yếu, người Kinh đông nhất chiếm khoảng 91% dân số toàn tỉnh, người Hoa chiếm khoảng 4-5%, Khơmer chiếm 4,3% và người Chăm khoảng 0,6%. Từ chỗ cùng nhau khai khẩn đất hoang dựng lên làng mạc, cư dân An giang (gồm người Việt, Khmer, Hoa, Chăm…) sống chan hòa trong sự hòa hợp giữa các nền văn hóa, hình thành tính cách thói ăn, nết ở. Những người Việt đến đây thì đa số là những người không chịu được áp bức, bóc lột, yêu tự do, giàu lòng nhân ái, đùm bọc lẫn nhau khai hoang lập ấp. Người Khmer cần cù lao động, quây quần bám đất, kính Phật, thật thà, chất phác. Người Hoa chịu cực, chịu khó giúp đỡ lẫn nhau, chuyên mua bán, dễ dàng hòa hợp. Người chăm ươm tơ dệt vải, chài lưới mua bán đổi chác đều thành thạo. Sự giao hòa dân tộc, văn hóa để lại những dấu ấn trong đời sống tinh thần, ngôn ngữ, nghệ thuật,... phong phú hài hòa. Tiếng hò man mác trên sông nước mênh mông, các điệu lý, điệu hoài lang gợi cảm; điệu múa “lâm thôn”, làng điệu dân ca “Ayay”, tiếng trống “xay ăm” rộn ràng... hòa lẫn với những giọt mồ hôi, những giọt máu đã đổ xuống cho những mảnh đất hoang vu này ngày càng thêm xanh tươi, trù phú. Từ sau ngày miền Nam giải phóng đến nay, người việt và các dân tộc anh em vẫn luôn đoàn kết, gắn bó trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp. Cũng như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử nên An Giang có nhiều tôn giáo. Những đạo mà đến nay vẫn còn khá đông tín đồ là: Đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu nghĩa… . Phật giáo Hòa Hảo khai sinh năm 1939, có tín đồ đông nhất ở An Giang hiện nay. Trong suốt quá trình định cư, lập nghiệp hàng trăm năm, người dân An Giang đã để lại dưới chân núi Sam, trên vùng Bảy Núi, ở đất Cù lao... nhiều công trình kiến trúc có tính lịch sử và nghệ thuật cao như Lăng Thoại Ngọc Hầu (1829), chùa Tây An (1847), nhà thờ Cù lao Giêng (Chợ Mới), chùa Giồng Thành (Phú Tân), chùa Linh Sơn (Thoại Sơn), chùa Xà Tón (Tri Tôn), chùa Ông Bắc (Long Xuyên)... và hàng trăm ngôi đình, chùa, miếu... mang sắc thái riêng của từng dân tộc, từng tôn giáo. An Giang tuy là một trong những vùng đất được mở mang sau cùng trên bước đường Nam tiến của các chúa Nguyễn. Nhưng ngày nay, vùng đất này đã trở thành nơi “đất lành chim đậu”. Quá trình lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh kiên cường hằng trăm năm nay đã khẳng định được khả năng của bàn tay, khối óc và cả trái tim của những con người nơi đây. Đất An Giang vẫn mãi mãi in dấu của đoàn quân Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi mở đất phương Nam năm 1699. Dù rừng thiêng nước độc đã sớm cướp đi cuộc đời của người đi mở cõi, nhưng tên gọi Cù lao Ông Chưởng vẫn đời đời gợi nhớ đến một vị công thần khai quốc. Thoại Ngọc Hầu với dòng kênh Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế đã mang dòng nước mát, mang ấm no đến cho biết bao người. Công lao của Thoại Ngọc Hầu mãi mãi được nhân dân An Giang ghi nhớ. Trong đấu tranh giành độc lập, Tôn Đức Thắng – người con ưu tú của An Giang và biết bao vị anh hùng cách mạng đã hiến dâng cuộc đời mình cho lịch sử, để khẳng định truyền thống yêu nước là dòng chảy không ngừng dẫn tới chiến thắng lịch sử của quân và dân An Giang, góp phần cùng cả nước giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc. Từ những điều kiện đặc thù của nền kinh tế, văn hóa, xã hội ở An Giang. Để giữ gìn mảnh đất này, bảo vệ những giá trị tinh thần, vật chất mới xây dựng, người dân An Giang đã không tiếc xương máu trong các cuộc đấu tranh chống xâm lược qua các thời kỳ, nhằm bảo vệ biên cương tổ quốc. 1.1.3. Truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân An Giang qua các thời kỳ lịch sử Suốt trong thời kỳ dài, từ cuối thế kỷ XVIII đến năm 1846, nhân dân vùng Châu Đốc vùng Châu Đốc, Hà Tiên, Sa Đéc đã nhiều lần phải chiến đấu chống lại quân xâm lược Xiêm. Thà chết, một tấc đất của biên thùy, nhân dân An Giang cũng không để rơi vào tay giặc. Ngày 22/6/1867, đạo quân Pháp do tên đô đốc La -Gờ -răng-đe, đem quân đánh chiếm toàn tỉnh An Giang từ đó an giang trở thành thuộc địa của Pháp. Nhân dân An Giang cùng nhân dân cả nước nối tiếp truyền thống cha ông đứng lên đánh Pháp. Các phong trào chống Pháp từ hưởng ứng hịch Cần Vương, rồi theo cờ Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Quản cơ Trần Văn Thành (Bảy Thưa - Châu Phú), diễn ra liên tục và mạnh mẽ… Từ năm 1880-1886, vùng Bảy Núi, đặc biệt là khu vực núi Tượng là nơi đón nhận nhiều nghĩa quân từ khắp Lục tỉnh tựu về. Đây là những người từng tham gia phong trào Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Quân, một số đông muốn chờ cơ hội để hoạt động, tạm thời sống tiêu cực. Số khác thì chủ trương bạo động, hướng về phong trào Cần Vương ủng hộ vua Hàm Nghi. Năm 1916, tại Núi Cấm có một cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã nổ ra. Linh hồn của cuộc khởi nghĩa năm 1916 là “ông thầy Núi Cấm” (với nhiều tên: Mã Văn, Bảy Đỏ, Tư Khánh, Lê Văn Khánh, Cao Văn Long) đã làm cho thực dân Pháp hoang mang, lo sợ. Năm 1927, chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên được thành lập ở xã Long Điền gồn ba đồng chí: Châu Văn Liêm, Lâm Văm Cẩn và Bùi Trung Phẩm, do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí thư. Sau đó tổ chức này phát triển rất nhanh ở huyện Chợ Mới, các xã ở cù lao Tây, Châu Thành, Tân Châu, Châu Đốc... Đây là đốm lửa nhỏ, nhưng sức mạnh bùng cháy của nó rất lớn trong những năn sau này. Tháng 8/1927, hai thanh niên có nhiều hành động chống thực dân Pháp lúc còn học sinh là đồng chí Nguyễn Văn Cưng và đồng chí Trần Văn Thạnh cùng với nhiều đồng chí thanh niên ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long sang Quảng Châu (Trung Quốc) học khóa 3 trường Tổng bộ. Tại đây các đồng chí ấy được học những bài lý luận cách mạng đầu tiên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc biên soạn. Học xong các đồng chí được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và tuyên thệ tước mồ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái, rồi trở về nước hoạt động. Tháng 2/1928, tại Long Xuyên tỉnh bộ Việt Nam cách mạng thanh niên thành lập do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí thư. Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây Long Xuyên và Châu Đốc đã có một Đảng của giai cấp công nhân trực tiếp lãnh đạo. Tháng 5/1930 lần đầu tiên cờ đỏ búa liềm được treo trên cột dây thép xã Long Điền, truyền đơn rải dán khắp nơi, cả trong văn phòng làm việc của địch, nhằm cổ vũ cho các cuộc đấu tranh của nông dân, của thợ dệt diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Ngày 23/11/1940, cả vùng nông thôn Nam Kỳ rung chuyển trước sức nổi dậy của quần chúng. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong các cuộc biểu tình thị uy. Long xuyên – Châu Đốc nhận lệnh khởi nghĩa chậm 7 ngày, khi các nơi khác nổ ra cao trào, nhưng quần chúng tham gia khởi nghĩa rất dũng cảm. Thực dân Pháp và bọn tay sai Việt gian, Miên gian đàn áp quần chúng khởi nghĩa, chúng bắn xả vào đoàn biểu tình tay không, đốt nhà, xé xác trẻ em ném vào lửa, nhiều đồng chí, đồng bào yêu nước bị bắt, bị tù đày, bị xử tử. Theo Báo cáo chính trị tháng 12/1940 của thống đốc Nam Kỳ, gởi toàn quyền Đông Dương, riêng ở liên tỉnh Long Xuyên chúng bắt 315 vụ. Ngoài số đồng chí bị đem đi xử tử ở Cần Thơ, bọn thực dân đã xử bắn 3 đảng viên ưu tú của tỉnh ở đầu bờ Núi Sam (Vĩnh Tế - Châu Đốc). Ngày 25/8/1945, cùng với Sài Gòn – Gia Định và các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, nhân dân các xã, huyện kéo vào thị xã Long Xuyên, Châu Đốc giành toàn bộ chính quyền. Sau cách mạng tháng Tám, các lực lượng vũ trang cách mạng ở An Giang lần lượt ra đời và không ngừng lớn mạnh. Ở Tân Châu, Tịnh Biên, Hồng Ngự (thuộc tỉnh Châu Đốc lúc bấy giờ)... đều có trung đội Quốc gia tự vệ. Tháng 6/1946, Quân khu 9 chi viện cho Châu Đốc một đại đội… tiếp theo đó nhân dân An Giang thắng lợi ở nhiều nơi, đến tháng 4/1949, bộ đội An Giang phục kích đánh chìm tàu Pháp trên sông Tiền. Tháng 10/1950, nhân dân An Giang mở chiến dịch “Long Châu Hà 1”, đánh vào vùng Vĩnh Thông, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia …, mở đường tiến về Bảy Núi và thị xã Châu Đốc. Từ ngày 10/2/1951 đến 15/3/1951 nhân dân An Giang mở chiến dịch “Long Châu Hà 2”, tiêu diệt 300 tên và thu nhiều khí giới khác, phá hủy lô cốt và nhiều tháp canh làm cho pháp và ngụy hoang mang. Đảng bộ An Giang thì gây dựng được nhiều cơ sở ở Long Xuyên, Châu Đốc. Đến năm 1953, đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Phạm Hùng cùng Trung ương cục miền Nam đã quyết định “chuẩn bị đón lấy thời cơ mới”. Trung ương cục chủ trương đẩy mạnh cuộc tấn công về quân sự, chính trị, kết hợp với “chiến dịch địch, ngụy vận” để phối hợp với chiến trường chính. Vì vậy, ở Mỹ Tho, Long Châu Sa, phong trào rã ngũ lan rộng trong binh lính Hòa Hảo, Cao Đài. Tháng 5/1954 quân dân ta giành thắng lợi ở mặt trận Điện Biên Phủ. Ngày 21/7/1954 Hiệp định Giơ- ne - vơ được ký kết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Thực dân Pháp bại trận đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam thay chân Pháp, đặt ách thống trị thực dân mới ở miền Nam. Từ năm 1955-1956 thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, tỉnh Đảng bộ Long Xuyên và Châu Đốc được thành lập. Tháng 6/1956, Bộ chính trị Trung ương Đảng ta ra nghị quyết nêu rõ: Tuy tình hình đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị nhưng như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định. Bộ chính trị còn nhấn mạnh: Phải cũng cố lực lượng vũ trang, nửa vũ trang hiện có, xây dựng cá căn cứ làm chỗ dựa đồng thời xây dựng các cơ sở quần chúng vững mạnh là điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng, lúc này phụ trách đảng bộ miền Nam, đã viết tài liệu Đường lối cách mạng miền Nam, vạch rõ con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng. Đồng bào và chiến sĩ Long Xuyên, châu Đốc chiến đấu theo hướng đó. Ở Bảy Núi, hàng ngàn đồng bào Khmer kéo tới dinh quận trưởng đấu tranh, vạch trần Mỹ là xâm lược, ngụy là tay sai bán nước. Phong trào đấu tranh ngày càng lên cao trong nhân dân. Cơ sở cách mạng ngày càng nhiều và vững chắc. Năm 1957, ta hợp nhất hai tỉnh lại thành tỉnh An Giang, theo đơn vị hành chính của địch để tiện việc bám sát tình hình địch và bố trí lực lượng đấu tranh của ta. Từ lực lượng tự vệ, tỉnh đã xây dựng thành lực lượng vũ trang do đồng chí Nguyễn Khắc Sương làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 364 và đồng chí Nguyễn Sên (nay là đồng chí Nguyễn Văn Hơn) làm chính trị viên. Sau đó, các lực lượng vũ trang liên tiếp đánh địch ở nhiều nơi, ghi nhiều chiến công. Tại Bảy Núi, tiểu đoàn 512 được thành lập. Những tháng đầu năm 1960 An Giang đã có nhiều trận tiến công địch, như ở xã Vọng Thê, ta diệt gọn 3 đồn giặc, thu hơn 50 súng các loại, phá tan khu trù mật. Ở Tân Châu đồng bào đấu tranh với chính quyền địch đòi bồi thường thiệt hại cho 400 gia đình bị chính quyền Ngô Đình Diệm đốt phá nhà cửa để dồn họ vào trại tập trung; Thới sơn là xã thí điểm đồng khởi của tỉnh... Lực lượng kháng chiến của ta ngày càng mạnh, kẻ thù càng hoảng sợ, điên cuồng, gây ra biết bao tội ác. Nhân trận lụt năm 1961 Mỹ - Diệm thừa dịp thiên tai dùng máy bay, đại bác tàn sát đồng bào vùng lũ. Những năm tiếp theo nhiều cuộc dấu tranh chính trị nổ ra và giành thắng lợi tiêu biểu là cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Trong những ngày chiến đấu sôi nổi này, quân và dân An Giang đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.500 tên địch, có 71 tên Mỹ, 10 sĩ quan ngụy, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Ngày 3/5/1970 quân và dân An Giang kại cùng lúc tiến công gần 20 vị trí đồn bót, căn cứ quân sự địch ở huyện Tri Tôn, Tịnh Biên tiêu diệt hơn 500 tên, diệt gọn và đánh thiệt hại nặng một ban chỉ huy tiểu đoàn và bốn đại đội ngụy, bắn rơi 4 máy bay, phá hủy 4 súng lớn, đốt cháy một kho xăng lớn.. Năm 1971 – 1972, tại Cô Tô – Tức Dụp diễn ra một cuộc đọ sức giữa ta và địch, tại đây hố bom chồng hố bom, có tất cả 18 tiểu đoàn thay nhau đánh, thường xuyên có một trung đoàn thường trực sẵn sàng chiến đấu với quân giải phóng. Qua chín tháng tám ngày bị bao vây, địch vẫn không chiếm được đồi Tức Dụp mà còn bị tiêu tốn hơn 2 triệu đô la và ngót 4000 sinh mạng binh sĩ đủ loại, đủ cỡ. Sau hiệp định Pari, theo yêu cầu củ chiến trường, ta liên tếp tiến công địch: Tiểu đoàn A 12 bám trụ, đánh địch, giải phóng dọc theo tuyến kinh Tân Hội và giải phóng vùng Ba Thê. Tiểu đoàn A11 đánh đồn Sóc Xoài, giải phóng xã Mỹ Lâm (huyện Châu Thành). Cả hai tiểu đoàn này bám trụ, đánh địch suốt 7 ngày đêm. Địch tăng viện hai trung đoàn của sư 9 và sư 21. Ta kiên quyết đáh trả lại, diệt 252 tên, thu hàng chục tấn vũ khí, bắt tại trận hàng chục tên; các đồn bót địch bị ta san bằng. Tháng 1/1974, đại đội 4 thuộc thuộc tiểu đoàn A12 tập kích một đại đội địch, diệt 25 tên, phá hủy một khẩu pháo 105 ly và một khẩu súng cối 120 ly. Tháng 11/1974, tiểu đoàn A12 đánh một tiểu đoàn địch ở núi Ba Thê, diệt và làm bị thương hơn 130 tên, bắt tại chỗ hàng chục tên, thu toàn bộ vũ khí; ta làm chủ trận địa suôt 4 ngày đêm. Tháng 12/1974, tiểu đoàn A11, A12 phối hợp tác chiến, tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở chi khu 11, diệt hơn 200 tên, phá hủy 3 khẩu pháo 105 ly và 2 khẩu súng cối 120 ly, bắt nhiều tên... Thừa thắng hai tiểu đoàn tập kíc địch ở Ba Hòn (Hòn Me, Hòn Đất, Hòn Sóc) tiêu diệt hầu hết bọn địch sống ở đây, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có 5 khẩu pháo 105 ly, 5 súng cối 120 ly... Cùng với toàn chiến trường miền Nam, cho đến cuối năm 1974, tình hình chống Mỹ cứu nước ở An Giang có những chuyển biến căn bản. Cùng với khí thế cả nước, tại thị xã Châu Đốc, tối 30/4/1975 địch ở tiểu khu được lệnh rút về tử thủ ở vùng “Thánh địa Hòa Hảo”. Trước khi rút đi, chúng đã đốt kho bạc và tài liệu hồ sơ, nhưng đồng bào đã kịp thời dập tắt ngọn lửa, cứu được 11 thùng bạc và các giấy tờ, hồ sơ cần thiết cho cách mạng. Sau giải phóng Tân Châu, bộ đội địa phương của tỉnh, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 cùn với bộ đội huyện tiến xuống “Thánh địa” theo hai mũi: bờ sông Tiền và bờ sông Hậu. Khi tiểu đoàn 2 tiến đến gần kinh xáng An Long định vượt qua cù lao Tây thì bị địch bắn ngăn chặn quyết liệt. Lại không đủ phương tiện sang sông. Đồng bào đã huy động xuồng ghe cho bộ đội. Số địch ngoan cố lại trốn về nhập chung với bọn tàn quân, co cụm lại ngôi chùa cổ - ngôi chùa Tây An Cổ Tự thuộc quận Chợ Mới, cũng với danh nghĩa là bộ đội Phật giáo Hòa Hảo. Trước khi giải quyết điểm co cụm này, ta đã giải phóng thị xã Long Xuyên. Ở đây cùng với các giới đồng, các giáo chức và học sinh trong phong trào nổi dậy chiếm chính quyền. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là quá trình gian khổ hy sinh. Quân và dân An Giang đã chiến đấu kiên cường, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, trong lúc nhân dân ta đang ra sức xây dựng, hàn gắn vết thương chiến tranh, bè lũ Pôn pốt – Iêng Xary, gây ra chiến tranh biên giới phía Tây Nam tổ quốc ta. Trong đó có biên giới An Giang. Tháng 5/1975, chúng cho quân đổ bộ lên đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Cuối năm 1975 và đầu năm 1976, chúng lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam thuộc các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc. Từ giữa năm 1976, chúng kích động trong nhân dân và quân đội của chúng tư tưởng sô vanh, tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số một”. Ngày 30/4/1977, chúng dùng nhiều sư đoàn tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang nước ta, mở rộng cuộc chiến tranh xung đột vũ trang ở biên giới hai nước thật sự thành một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam [81, tr.14-15]. Kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng trong hai cuộc kháng chiến, năm 1979, quân và dân An Giang góp phần cùng nhân dân cả nước bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia hồi sinh. Bước vào giai đoạn mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân An Giang tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua khó khăn, thử thách, tập trung sức vào công cuộc tái thiết quê hương, từng bước ổn định cuộc sống nhân dân lao động, các hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa mới ở các cơ sở được tiến hành và chú trọng. Mỗi một năm qua đi từ sau ngày giải phóng, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân An Giang đã phát huy truyền thống cách mạng trong kháng chiến, xây dựng An Giang ngày càng giàu đẹp, ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế - xã hội, cùng các địa phương khác trong cả nước bước vào công cuộc đổi mới: thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.2. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh An Giang từ sau ngày giải phóng đến trước đổi mới (1975 - 1985) 1.2.1. Tình hình kinh tế 1.2.1.1. Nông nghiệp An Giang là tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, mật độ dân số đông, đất không rộng, bình quân đầu người là 0,12 ha đất canh tác, nhưng có tiềm năng kinh tế đa dạng và phong phú. Thời tiết tuy có mặt thuận lợi, nhưng cũng rất khắc nghiệt. “Nửa năm đồng khô nước kiệt, nửa năm nước lũ dâng cao”, khoảng 5-7 năm có một trận lụt lớn. Trước giải phóng nạn đói giáp hạt: “Ngoài đồng vàng mơ, trong nhà mờ con mắt” cứ hàng năm đè nặng lên cuộc sống người lao động. Sau 30/4/1975 trung ương phải chi viện cứu đói 5000 tấn lương thực cho địa phương. Mặt khác, khi tiếng súng chiến thắng đế quốc Mỹ và tay sai vừa chấm dứt, cũng là lúc tiếng súng đánh phá lấn chiếm biên giới Tây Nam Tổ quốc ta của bọn Pônpốt cũng đã bắt đầu. Lợi dụng tình hình đó, lực lượng phản động trong ngụy quân ngụy quyền, tôn giáo, với thức phục thù giai cấp cao độ cũng đấu tranh hoạt động vũ trang chống cách mạng, cài, cấm người vào dân, vào tổ chức cách mạng, nuôi ảo vọng ngoài đánh vào, trong bạo loạn lật đổ chính quyền cách mạng. Trước tình hình thực tế ấy, Đảng bộ An Giang đã dứt khoát khẳng định: phải tiếp tục phát động quần chúng truy quét địch ở nội địa và chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc, nhanh chóng ổn định trật tự an ninh, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân, đồng thời phát triển kinh tế xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Trong hai nhiệm vụ cực kỳ quan trọng ấy, ngay từ đầu An Giang cũng đã nhận rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân phải được đặt lên hàng đầu, trước hết là ăn, bởi vì có ăn mới đánh thắng được địch, có ăn mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan