Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Kiến thức về múa lân...

Tài liệu Kiến thức về múa lân

.PDF
10
406
121

Mô tả:

Kiến thức về múa lân
KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ MÚA LÂN 1.​GIỚI THIỆU Múa lân là một môn nghệ thuật có từ lâu đời, nó gắn liền với phong tục, tập quán và các ngày lễ hội lớn của người Trung Hoa. Múa lân được thịnh hành ở miền Nam Trung Quốc, điển hình là ở Quảng Châu nên con lân còn có tên gọi khác là Nam sư. Múa lân là môn nghệ thuật tương tự như môn múa rối ở Việt Nam. Múa lân là điệu múa mô phỏng theo cử chỉ, hoạt động của con lân (hồi xưa còn được gọi là con Niên). Múa lân đòi hỏi người diễn viên thật khéo léo và tỉ mỉ trong từng động tác. Người diễn viên phải hoà mình vào con lân để truyền đạt tới người xem những cảm xúc hỉ , nộ, ái, ố, phải liên tưởng con lân như một con thú đang rình mồi, hoặc đang nằm nghỉ,... Múa lân được chia làm 2 loại hình chính, người ta thường gọi tên là “Thiên tài địa bảo”. “Thiên tài” là tất cả những trận không chạm đất, ví dụ: mai hoa thung, lân leo cột,... “Địa bảo” là tất cả những trận lân múa trên mặt đất, ví dụ: trận “Đại triển hồng đồ” (múa lân ăn dưa hấu), “Ngũ phúc lâm môn” (lân ăn 5 trái quýt),… Múa lân có thể múa “Đơn sư” (múa đơn lẻ), múa “Song sư” (múa 2 con lân), “Tứ sư hội” (múa 4 con lân), “Bát sư hội” (múa 8 con lân), hoặc thậm chí là “quần sư hội” (múa nhiều con lân phối hợp với nhau). múa nhiều con lân phối hợp với nhau 2.​NHẬP MÔN Trước khi học các động tác cơ bản, điều trước tiên là chúng ta nên hiểu về kết cấu bên trong con lân. chúng ta phải biết dây điều khiển hai con mắt của con lân nằm ở đâu, cách sử dụng ra sao, làm cách nào để bật tắt đèn mắt và vị trí công tắc nằm ở đâu,… Ngoài ra, chúng ta một số kiến thức cơ bản về các động tác múa lân thí dụ như sau: 1 + Múa lân cơ bản (điều khiển đầu nhúc nhích và cái hàm răng của con lân). + Lân ngủ (người đầu và đuôi ngồi xuống, kéo dây mắt nhắm lại). + Lân vui mừng (đầu lân đưa lên cao, lắc 2 bên). + Lân bái chào (đầu lân đưa lên cao rồi đưa xuống chân thể hiện động tác lạy). + Lân liếm chân (đưa đầu lân lên rồi đưa xuống chân) . + Lân cắn (đưa đầu lân về phía cần cắn và nhúc nhích cái đầu). 3.CƠ BẢN Múa lân mỗi môn phái có mỗi cách múa riêng, cách thể hiện riêng. Có môn phái múa mô phỏng theo con hổ hoặc con báo (cách múa “Hổ báo hình”), có môn phái lại chọn “miêu hình” (hình dáng con mèo) làm cơ bản, môn phái khác lại chọn cách múa “Hạc Sơn hình”, kiểu múa của người ở Hạc Sơn- Trung Quốc, … Chỉ ​ nói riêng về môn phái Thái Lý Phật, ​“Hổ báo hình” được xem là cơ bản trong cách múa lân của môn phái. Tuy nhiên, nhiều lúc cũng có xen lẫn cách múa “Miêu hình” tuỳ theo từng trường hợp. + Múa dưới đất đa số sẽ sử dụng “Hổ báo hình” làm chuẩn. + Múa trên không (thí dụ như trên mai hoa thung), trong trường hợp này “Miêu hình” sẽ được áp dụng chủ yếu. Phật Sơn (bên trái) và Hạt Sơn (bên phải) Một võ sinh muốn được công nhận là biết múa lân thì ít nhất phải biết những động tác cơ bản như sau: + Lân móc chân (hai hoặc nhiều con lân móc chân lại với nhau). + Lân khởi ba lang (“hỉ bó lò”- phiên âm theo tiếng Quãng Đông). + Lân nhảy lên đùi (người sau cho người đầu đứng lên đùi). + Lân nhảy lên mừng (người sau cho người đầu đứng lên đùi). 2 + Lân nhảy lên đầu (người sau cho người đầu ngồi lên đầu). + Lân kẹp bụng (người sau cho người đầu kẹt hai chân qua bụng). + Lân đứng lên vai (người sau cho người đầu đứng lẹn vai). Ngoài hiểu biết thành thạo các động tác cơ bản trên, người võ sinh còn phải múa được những bài cơ bản. Đương nhiên trong giai đoạn này, không cần yêu cầu các võ sinh có thể tự thể hiện một bài múa đơn sư (múa một mình), mà chỉ chú trọng múa được những bài phối hợp cơ bản như sau là đủ: + “Tứ sư hội” (gồm bốn con lân phối hợp với nhau). + “Ngũ hổ tướng” (gồm năm con lân phối hợp với nhau). + “Thất tinh trận” (gồm bảy con lân phối hợp với nhau). + “Bát sư hội” (gồm tám con lân phối hợp với nhau). + “Quần sư hội” (gồm nhiều con lân phối hợp với nhau). Lân ​"Ngũ Hổ Tướng" đại diện cho 5 vị đại tướng của Tây Thục (Còn gọi là Thục Hán) vào đời Tam Quốc năm vị đại tướng bao gồm Quan Vũ, Trường Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung 4.​NÂNG CAO Múa lân ngoài chú trọng kỹ thuật ra, bộ pháp cũng rất quan trọng. Một con lân được xem là sống động hay không, có hồn hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào bộ pháp của người múa. Bộ pháp là bước đi, là điệu bộ của con lân. Người múa lân có mã bộ vững chắc, tạo cho người xem cảm giác con lân cứng cáp, vững vàng trong từng bước đi. Ngoài ra còn phối hợp thêm với nhiều kiểu mã bộ khác nhau, tạo nên những bước đi uyển chuyển, đầy sinh động, tạo cho người xem cảm nhận được con lân chuyển động một cách có điệu bộ, có bài bản và không kém phần tự nhiên. Nếu như không có mã bộ, con lân đơn thuần chỉ xem như là một con rối không hơn không kém. 3 Bộ pháp trong múa lân cũng khá đa dạng, đòi hỏi người biểu diễn phải có cơ bản về võ thuật. + Tứ bình mã. + Quá mã (“co ma”- phiên âm theo tiếng Quãng Đông). + Điếu mã (“Tiêu mạ”- phiên âm theo tiếng Quãng Đông). + Nữ bộ mã (“Nụi chìa mạ” phiên âm theo tiếng Quãng Đông). + Kỳ lân bộ (“khì luỳnh bù”- phiên âm theo tiếng Quãng Đông). + Tam giác mã (“sám cot mạ”- phiên âm theo tiếng Quãng Đông). Ngoài rèn luyện các động tác, bộ pháp ra, múa các bài đơn sư cũng cần được chú ý. Điển hình là các bài “Sư tử xuất động”, “Ngũ phúc lâm môn” và “Đại triển hồng đồ” được xem là cơ bản nhất trong múa đơn sư. Nói sơ về các bước hoàn tất một bài đơn sư như sau: * ​“Sư tử xuất động” là trận múa 2 người dùng cây đứng làm 2 cánh cửa: - lạy 3 cái. - Đi 1 vòng. - Cắn hai góc. - Đá hai góc cửa - Liếm chân, đuôi * ​“Ngũ phúc lâm môn” là trận múa 5 trái quýt: - lạy 3 cái. - Đi 1 vòng. - Cắn các góc. - Ăn quýt từ ngoài vào trong, 2 trái đầu trước, sau đó tới 2 trái đuôi, cuối cùng mới ăn trái giữa. - Liếm chân, đuôi 4 * ​“Đại triển hồng đồ” là trận múa lân ăn dưa hấu: - lạy 3 cái. - Đi 1 vòng. - Cắn 2 góc. - Đá dưa lăn qua lại. - Đập bể trái dưa. - Liếm chân, đuôi. Lân ăn dưa hấu kết hợp ông địa 5.​MỞ RỘNG Nếu so sánh giữa múa lân , múa sư và múa rồng thì múa lân có phần phổ biến hơn. Trong những thập niên 70, 80 và cả đầu 90, các đội lân đa số chỉ có múa lân. Chỉ riêng các đội chuyên về múa rồng như “Đông Phương” hoặc chuyên về rồng như “Rồng Phước Kiến” là có sư và rồng nhưng họ lại không có lân. Lý do mà các đội lân và người xem ưu chuộng múa lân vì nó ngoài việc múa giúp vui và đem đến may mắn, nó còn thu hút người xem bởi cách phá trận. Trận được ghép lại bởi nhiều vật khác nhau tùy theo trí tưởng tượng của mỗi người mà có cách lập trận khác nhau. Phá trận cũng có các quy tắc riêng của việc phá trận, không phải cứ xông vào bừa muốn làm gì thì làm. Có những nguyên tắc chung bắt buộc người múa phải tuân theo. Tuy nhiên, đã nói phá trận thì mỗi trận mỗi thay đổi, mỗi biến hoá cho nên cũng cần phải có đầu óc nhanh nhẹn sử lý tình huống sao cho hợp lý cho từng trận. Sau đây sẽ giới thiệu qua một số trận pháp phổ biến cũng như hình dáng và cách thức phá trận theo từng bước: * “Thanh Long Bạch Hổ” trận: + Hình dáng: 5 Bao gồm: thau nước (làm bằng gỗ)+ cá chê (hoặc cá lóc)+ con cua “Thanh long bạch hổ” trận là một trận thuộc thủy, nguyên trận bao gồm một thau nước (thường được làm bằng gỗ), một con cá chê hoặc cá lóc và một con cua. Cá chê hoặc cá lóc tượng chưng cho Thanh Long còn con cua được dùng làm biểu tượng cho Bạch Hổ. Thau nước sẽ để ở chính diện của trận, trong thau nước sẽ chứa con cá chép hoặc cá lóc và con cua trong đó. Người đời thường có câu “Tả thanh long, hữu bạch hổ” cho nên bên trái của trận sẽ là “Thanh long trận”, bên phải trận sẽ là “Bạch hổ trận”. + Cách thức phá trận: - Trước tiên con lân sẽ bắt con cá ra trước, sau khi vờn một chút sẽ đem con cá để ở bên trái của trận. - Sau đó, con cua sẽ được bắt ra, cũng như phá trận “Thanh long”, con lân cũng sẽ vờn con cua và sau khi đưa con cua về phía bên phải của trận sẽ bẻ hết càn và tất cả các chân. - Kế đến sẽ sắp xếp lại thành hình con cua và hoàn thành trận “Bạch hổ”. * “Độc xà cản lộ” trận: + Hình dáng: Bao gồm: Trường côn (thử vĩ côn)+1 cặp tử mẫu đao (song tô)+2 trái quýt - Đặt giữa trận “Độc xà cản lộ” sẽ là một cây trường côn (còn có tên gọi khác là”Thử vĩ côn”- giống hình dáng đuôi con chuột). - Trước đầu trường côn sẽ là một cặp tử mẫu đao (còn gọi là “Song tô”), đặt chéo nhau tượng trưng cho đầu rắn. - Kế đến sẽ là hai trái quýt được đặt trước cặp song tô, biểu trưng cho đôi mắt của độc xà. + Cách thức phá trận: 6 - Trước tiên, tấn công vào đôi mắt rắn, nuốt mắt trái của con rắn trước (trái quýt để bên trái), sau tới mắt phải (trái quýt để bên phải). - khởi ba lang. - Nuốt song tô. - ngậm cây côn quất qua lại, nuốt luôn cây côn, từ từ nhã ra từ đuôi. - ngủ, kết thúc. - Đầu đuôi song dấu (trường côn đấu song tô). * “Thiên la địa võng” trận: + Hình dáng: Bao gồm: giàng kẽm thấp+ dây thừng+ đồng tiền “Thiên la địa võng” có ý nghĩa là trên trời thì có rỗ, ở dưới đất thì có lưới, bao vây muôn bề không thể thoát được. Cho nên, để hình dung cái tên của trận này, hình dáng cái trận cũng làm rất tương xứng với cái tên. Thành phần chính của cái trận là một giàng kẽm với bốn cột gỗ ở bốn gốc trận, giàng kẽm được bố trí thấp xuống chỉ đủ để con lân khum xuống. Trên giàng kẽm sẽ là một sợi dây thừng được đặt ngoằn ngòe và bị dấu đi một đầu của sợi dây thừng. Trên thân của dây thừng sẽ là những đoạn nối được kết bởi đồng tiền. Đồng tiền tượng trưng cho trái cây mộc trên giàng, còn dây thừng thì tượng trưng cho dây leo đang leo trên giàng. + Cách thức phá trận: - Trước tiên sẽ đi thâm dò từng gốc trận. - Tiếp theo là chọn cửa chính để vào. - Sau khi vào đến trận sẽ cố gắng kiếm đầu dây thừng bị dấu đi. - Sau đó từ từ nuốt hết đồng tiền, vừa nuốt vừa thu dây lại. 7 - Cuối cùng là đi xung quanh kiếm cửa để đi ra. * “Thất tinh bồn nguyệt” trận: + Hình dáng: Bao gồm: 7 trái quýt+1 trái dưa hấu “Thất tinh bồn nguyệt” có nghĩa là bảy ngôi sao bao xung quanh mặt trăng, bảy trái quýt mang ý nghĩa là bảy ngôi sao, còn mặt trăng thì được dùng trái dưa hấu (có nơi thì dùng bưởi) để tượng trưng. Lý do trận này chỉ lấy thất tinh vì người Trung Quốc có quan niệm bảy ngôi sao là may mắn và có uy lực, còn dùng nguyệt là vì mặt trăng được xem là biểu tượng cho sự thanh bình, đại diện cho sự thịnh vượng. + Cách thức phá trận: - Khi phá trận, bảy trái quýt sẽ lần lược bị ăn mất. - Sau khi ăn xong sẽ sắp xếp ngay ngắn theo thứ tự, theo vị trí rõ ràng. - Kết đến sẽ tiếng thẳng đến ăn trái dưa hấu. - Trái dưa hấu sẽ được chẻ ra làm đôi. - Sắp xếp lại theo thứ tự với nhau. * “Ngũ hành trận” trận: + Hình dáng: “Ngũ hành trận” là một trận lớn trong tất cả các trận kể trên. Trận này phối hợp và vận dụng các tính năng theo ngũ hành của các trận nhỏ. Theo thuật ngũ hành trong dịch kinh, vạn vật đều có thuộc tính không vượt ra ngoài năm yếu tố cơ bản trong ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tuy theo từng nơi và phong tục tại nơi đó, hình dáng của “Ngũ hành trận” vì thế cũng sẽ biến hóa khác nhau. Nhưng năm thuộc tính của “Ngũ hành trận” vẫn sẽ được giữ nguyên tính chất. “Kim hành trận” sẽ được dùnh những trận có thuộc tính kim để biểu trưng (Những trận sử dụng nhiều kim loại để hình thành trận sẽ 8 mang thuộc tính kim. Cũng tương tự những trận khác, tuỳ theo thuốc tính từng trận mà được phân thành “Mộc hành trận” (Trận thuộc mộc), “Thủy hành trận” (Trận thuộc thủy), “Hỏa hành trận” (Trận thuộc hỏa) và “Thổ hành trận” (Trận thuộc thổ). Trong ngũ hành, thổ là trung tâm của ngũ hành, là nhân tố trọng tâm cho nên vị trí trung tâm của “Ngũ hành trận” sẽ là một trận thuộc thổ. Lần lượt, các trận khác sẽ được sắp xếp theo phương hướng nhất định. Ở phía dưới khu trung tâm sẽ là “Hỏa hành trận” vì hỏa thuộc nam mà trong bản đồ thì hướng nam sẽ là hướng nằm ở dưới. Tương tự như thế, “Kim hành trận” sẽ nằm bên trái “Thổ hành trận” (Kim thuộc hướng tây), Hướng đông tức là gốc trận bên phải phải là “Mộc hành trận” (mộc thuộc hướng đông), cuối cùng ở phía trên gốc trận sẽ là “Thủy hành trận” (Thủy thuộc hướng bắc). + Cách thức phá trận: - Tuỳ theo từng trận được đưa ra mà có cách phá riêng. - Trước tiên sẽ phá trận thuộc hỏa trước. - Sau đó là trận thuộc kim. - kế đến là “Thủy hành trận”. - sau đó sẽ là “Mộc hành trận”. - cuối cùng sẽ là trận trung tâm “Thổ hành trận”. - Phá trận theo một đường vòng từ từ đi vào trong. - Có thể sử dụng một con lân để phá “Ngũ hành trận” hoặc có thể phối hợp năm con lân lại với nhau, chia ra mỗi con phá một trận. Ngoài ra, leo cây cũng là một phần được cho là khá khó trong múa lân. Leo cây yêu cầu người múa ngoài yếu tố can đảm ra còn phải có thân hình dẻo dai, nhanh nhẹn. Bên cạnh đó, yếu tố độ cao cũng là một rào cản đối với khá nhiều người. Riêng tiết mục lân leo cột chỉ có duy nhất một người biểu diễn. Người biều diễn sẻ một tay cầm dầu lân, tay còn lại kết hợp với 2 chân để bám vào cây 9 cột từ từ mà leo lên đến đỉnh. Sau khi múa một hồi sẽ ăn lấy cái lộc buộc sẵn trên cao. sau đó mới nhả với ý nghĩa lân mang lộc đến nhà gia chủ. Lân leo cột hái lộc (thường dùng cây cờ làm tượng trưng) Cao hơn một bước và khá phổ biến hiện nay có lẻ là “Lân nhảy mai hoa thung”. Hình thức biển diễn này tuy không phải là quá mới nhưng cũng là mới nếu so với các loại múa lân khác. Vào khoản thập niên 90, hình thức biển diễn này mới được áp dụng lần đầu tiên tại Malaysia. Sau đó, dần dần trở thành một cơn sốt trong giới múa lân. Và hiện nay là hình thức biểu diễn phổ biến nhất trong các cuộc tranh tài cũng như khi lưu diễn. Tiết mục lân nhảy mai hoa thung Lân nhảy mai hoa thung thường là tiết mục đặc sắc nhất và được nhiều người đón xem nhất trong một buổi biểu diễn. Thiết mục này mang đến sự kích thích mạnh mẽ và hồi hộp cho người xem thông qua các bước nhảy đầy nguy hiễm. Tiết mục đòi hỏi một quá trình tập luyện gian lao và nghiêm túc kéo dài trong nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm mới biểu diễn thuần thục được. Ngoài ra, còn yêu cầu sự phối hợp ăn ý giữa 2 người biểu diễn, sự chuẩn xác trong các bước nhảy cũng như thể lực dồi dào để có thể biểu diễn thành công. 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan